Giải thích vì sao nhà nước phương đông ra đời sớm hơn nhà nước phương Tây

Vì sao nhà nước phương đông ra đời sớm

Admin - 13/05/2021 748
Câu 1: Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây?Câu 2: Các quốc gia cổ đại phương tây ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương tây ra đời muộn hơn phương đông?

Bạn đang xem: Vì sao nhà nước phương đông ra đời sớm

1Vì các quốc gia cổ đại phương tây lại hình thành ở bờ bắc địa trung hải với điều kiện tự nhiên tương đối khó khăn địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi và cao nguyên nên không thể tập trung dân cư đất đai thì ít xấu và khô cằn do hình thành ở vung biển nên họ sơm hình thành ngành hàng hải giao thông biển chủ yếu phát triển ngành thương nghiệp ,Ngược lại các quốc gia cổ đai phương đông được hình thành trên lưu vực các dong sông lớnvới điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi như đất đai màu mỡ, gần nguồn nước tưới lương mưa dồi dào và phân bố theo mùatuy nhiên họ cung gặp phải một số khó khăn như lũ lụt khiến mất mùa . để khắc phục khó khăn trên họ đã tập hợp trong những quần cư lớn để làm công tác trị thủy và thủy lợi đó là cơ sở làm dậy nên sự ra đời của các quốc gia cổ đại phương đông .=> Đó chính là nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao các quốc gia cổ đại phương Tây hình thành muonj hơn so với các quốc gia cổ đại phương Đông.
Điểm từ người đăng bài:0 1 2 3 4 5
10 1 Tặng xu Tặng quà Báo cáo Bình luận
1. câu trên c2Vì đất đai ở các quốc gia cổ đại phương Đông màu mỡ[ các quốc gia này hình thành trên lưu vực các dòng sông lớn] tập trung đc số đông dân cư nhưng cũng đồng thời gặp lũ lụt. Vì vậy họ cùng họp lại tạo thành một nhà nước để cùng nhau chống lại thiên tai.Các quốc gia cổ đại phương Tây hình thành ở bờ Bắc Địa Trung Hải, đất đai xấu, khô cằn, nên phải chờ tới khi xuất hiện công cụ lao động bằng sắt, họ mới có thể tập trung lại, khai phá vùng đất cằn cỗi này. Mà các quốc gia cổ đại phương Đông chỉ cần công cụ bằng đồng vì đất đai của họ màu mỡ. Đồ sắt đc phát hiện sau đồ đồng rất lâu=> nên các quốc gia cổ đại phương Đông xuất hiện sớm hơn là đúng

Xem thêm: Hướng Dẫn Kết Nối Laptop Với Tivi Qua Cổng Vga, Cách Kết Nối Laptop Với Tivi Đơn Giản Và Tiện Lợi

Điểm từ người đăng bài:0 1 2 3 4 5
7 1 Tặng xu Tặng quà Báo cáo Bình luận
Câu 1: Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây?Trả lời:Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời trên lưu vực các con sông lớn ở Trung Quốc, Ấn Độ, Iraq, Ai Cập.- Lưu vực sông Hoàng Hà, Sông Ấn, Sông Hằng, Sông Tigrit, sông Nil là những vùng đất được phù sa bồi đắp màu mỡ từ xưa, có những điều kiện thuận lợi cho sự quần tụ cộng đồng, hình thành những nhóm người lớn, và sau này là hình thành nên các quốc gia cổ đại đầu tiên của thế giới - đó cũng là những nền văn minh cổ đại của thế giới, có những thành tựu văn hóa - khoa học lớn của thế giới mà nó góp phần làm thay đổi cuộc sóng của con người và có giá trị lớn đến tận ngày nay.[ Còn vế sau " Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây " thì chị huyền Thu trả lời rồi nhé, mk chỉ bổ sung thêm ý đầu cho chị ấy thôi ^^
Câu 2: Các quốc gia cổ đại phương tây ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương tây ra đời muộn hơn phương đông? Trả lời:Các quốc gia cổ đại phương Tây đã được hình thành ở các bán đảo Ban Cảng và I-ta-li-a [miền nam châu Âu] vào khoảng đầu thiên niên kỉ I TCN.Phương Tây ra đời muộn hơn Phương Đông vì:- Các nước cổ đại phương Tây được hướng dẫn bởi các triết gia Duy Lý, đẻ ra khoa học kỷ thuật, chinh phục thiên nhiên bắt thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người , nên con người phương Tây sống trong Tiện Nghi Vật Chất. Còn các nước phương Đông được hướng dẫn bởi các triết gia Duy Tình, đẻ ra các tôn Giáo, chủ trương con người với vũ trụ chỉ là một, nên sống hài hòa trong vũ trụ và thờ cúng vũ trụ như thờ Thần Mặt Trời , Thần Núi, Thần Sông ,Thần Biển, Thần lửa , Thần Địa Cầu [ Thờ Địa Mẫu ]
Câu 1: Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây?Câu 2: Các quốc gia cổ đại phương tây ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương tây ra đời muộn hơn phương đông?

Bạn đang xem: Vì sao nhà nước phương đông ra đời sớm

1Vì các quốc gia cổ đại phương tây lại hình thành ở bờ bắc địa trung hải với điều kiện tự nhiên tương đối khó khăn địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi và cao nguyên nên không thể tập trung dân cư đất đai thì ít xấu và khô cằn do hình thành ở vung biển nên họ sơm hình thành ngành hàng hải giao thông biển chủ yếu phát triển ngành thương nghiệp ,Ngược lại các quốc gia cổ đai phương đông được hình thành trên lưu vực các dong sông lớnvới điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi như đất đai màu mỡ, gần nguồn nước tưới lương mưa dồi dào và phân bố theo mùatuy nhiên họ cung gặp phải một số khó khăn như lũ lụt khiến mất mùa . để khắc phục khó khăn trên họ đã tập hợp trong những quần cư lớn để làm công tác trị thủy và thủy lợi đó là cơ sở làm dậy nên sự ra đời của các quốc gia cổ đại phương đông .=> Đó chính là nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao các quốc gia cổ đại phương Tây hình thành muonj hơn so với các quốc gia cổ đại phương Đông.
Điểm từ người đăng bài:0 1 2 3 4 5
10 1 Tặng xu Tặng quà Báo cáo Bình luận
1. câu trên c2Vì đất đai ở các quốc gia cổ đại phương Đông màu mỡ[ các quốc gia này hình thành trên lưu vực các dòng sông lớn] tập trung đc số đông dân cư nhưng cũng đồng thời gặp lũ lụt. Vì vậy họ cùng họp lại tạo thành một nhà nước để cùng nhau chống lại thiên tai.Các quốc gia cổ đại phương Tây hình thành ở bờ Bắc Địa Trung Hải, đất đai xấu, khô cằn, nên phải chờ tới khi xuất hiện công cụ lao động bằng sắt, họ mới có thể tập trung lại, khai phá vùng đất cằn cỗi này. Mà các quốc gia cổ đại phương Đông chỉ cần công cụ bằng đồng vì đất đai của họ màu mỡ. Đồ sắt đc phát hiện sau đồ đồng rất lâu=> nên các quốc gia cổ đại phương Đông xuất hiện sớm hơn là đúng

Xem thêm: Hướng Dẫn Kết Nối Laptop Với Tivi Qua Cổng Vga, Cách Kết Nối Laptop Với Tivi Đơn Giản Và Tiện Lợi

Điểm từ người đăng bài:0 1 2 3 4 5
7 1 Tặng xu Tặng quà Báo cáo Bình luận
Câu 1: Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây?Trả lời:Các quốc gia cổ đại phương đông ra đời trên lưu vực các con sông lớn ở Trung Quốc, Ấn Độ, Iraq, Ai Cập.- Lưu vực sông Hoàng Hà, Sông Ấn, Sông Hằng, Sông Tigrit, sông Nil là những vùng đất được phù sa bồi đắp màu mỡ từ xưa, có những điều kiện thuận lợi cho sự quần tụ cộng đồng, hình thành những nhóm người lớn, và sau này là hình thành nên các quốc gia cổ đại đầu tiên của thế giới - đó cũng là những nền văn minh cổ đại của thế giới, có những thành tựu văn hóa - khoa học lớn của thế giới mà nó góp phần làm thay đổi cuộc sóng của con người và có giá trị lớn đến tận ngày nay.[ Còn vế sau " Tại sao phương đông ra đời sớm hơn phương tây " thì chị huyền Thu trả lời rồi nhé, mk chỉ bổ sung thêm ý đầu cho chị ấy thôi ^^
Câu 2: Các quốc gia cổ đại phương tây ra đời ở đâu? Bao giờ? Tại sao phương tây ra đời muộn hơn phương đông? Trả lời:Các quốc gia cổ đại phương Tây đã được hình thành ở các bán đảo Ban Cảng và I-ta-li-a [miền nam châu Âu] vào khoảng đầu thiên niên kỉ I TCN.Phương Tây ra đời muộn hơn Phương Đông vì:- Các nước cổ đại phương Tây được hướng dẫn bởi các triết gia Duy Lý, đẻ ra khoa học kỷ thuật, chinh phục thiên nhiên bắt thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người , nên con người phương Tây sống trong Tiện Nghi Vật Chất. Còn các nước phương Đông được hướng dẫn bởi các triết gia Duy Tình, đẻ ra các tôn Giáo, chủ trương con người với vũ trụ chỉ là một, nên sống hài hòa trong vũ trụ và thờ cúng vũ trụ như thờ Thần Mặt Trời , Thần Núi, Thần Sông ,Thần Biển, Thần lửa , Thần Địa Cầu [ Thờ Địa Mẫu ]

Answers [ ]

  1. Do điều kiện tự nhiên ở phương Đông thuận lợi : khí hậu nóng ẩm , mua đều đặn theo mùa ,đồng bằng phì nhiêu, rong lon …. nên nhà nước phương Đông ra đời sớm , khoảng thiên niên kỉ IV-III TCN

    Hi Lạp và Rô-ma nằm ở ven Địa Trung Hải , nhiều đao , đất canh tác ít và khô cứng , lưỡi cày, luoi cuoc không có tác dụng . Khoảng thiên niên kỉ I TCN mới chế tạo được công cụ bằng sắt nền kinh tế dù phát triển hơn trước nhưng vẫn sau phương đông, vì thế nhà nước phương Tây ra đời trễ hơn phuong Dong

  2. Vì đất đai ở các quốc gia cổ đại phương Đông màu mỡ[ các quốc gia này hình thành trên lưu vực các dòng sông lớn] tập trung đc số đông dân cư nhưng cũng đồng thời gặp lũ lụt. Vì vậy họ cùng họp lại tạo thành một nhà nước để cùng nhau chống lại thiên tai. Các quốc gia cổ đại phương Tây hình thành ở bờ Bắc Địa Trung Hải, đất đai xấu, khô cằn, nên phải chờ tới khi xuất hiện công cụ lao động bằng sắt, họ mới có thể tập trung lại, khai phá vùng đất cằn cỗi này. Mà các quốc gia cổ đại phương Đông chỉ cần công cụ bằng đồng vì đất đai của họ màu mỡ. Đồ sắt đc phát hiện sau đồ đồng rất lâu, nên các quốc gia cổ đại phương Đông xuất hiện sớm hơn.

    /Chúc bạn học tốt/

    Nhớ vote cho mk nha!

Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông

Các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời vào khoảng thế kỉ IV-III TCN, tồn tạ nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy trước đó, với trình độ sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ như đá, đồng… Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông thì đều thấy có chung một điểm đó là các quốc gia này đều hình thành bên các lưu vực sông lớn, ví dụ như:

– Ai Cập hình thành bên lưu vực sông Nin;

– Ấn Độ hình thành bên lưu vực sông Hằng, sông Ấn;

– Trung Quốc hình thành bên lưu vực sông Hoàng Hà, sông Trường Giang

Chính vì sự thuận lợi này mà hầu hết các quốc gia cổ đại phương Đồng đều tập trung phát triển nông nghiệp, chăn nuôi.

Về quá trình hình thành nhà nước được bắt đầu từ quá trình liên kết thị tộc, liên minh bộ lạc xuất phát từ nhu cầu của việc trị thủy, tuy nhiên vẫn bảo lưu dai dẳng những tàn dư của xã hội nguyên thủy. Do vậy mà các quốc gia cổ đại Phương Đông là quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều được tập trung vào tay người đứng đầu đất nước là vui, là người sở hữu quyền lực tối cao, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và chỉ huy quân đội.

Xã hội của các quốc gia cổ đại Phương Đông được chia thành 3 tầng lớp chính đó là:

– Tầng lớp quý tộc, gồm có quý tộc tăng lữ và quý tộc quan lại

– Tầng lớp nông dân công xã chiếm trên 90% dân cư trong xã hội, đây được xác định là lực lượng sản xuất chính;

– Tầng lớp nô lệ, phục vụ trong các cung điện và quan lại giàu có, là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội.

Trong quá trình phát triển kinh tế thì các quốc gia cổ đại phương Đông tập trung phát triển chính là nông nghiệp, như thủ công nghiệp, chăn nuôi theo hình thức tự cung tự cấp. Việc này cũng nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa, lưu vực các dong sông lớn đem lại phù sa màu mỡ.

1. Khái quát về nhà nước phong kiến:

Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến [phong tước, kiến địa] là một từ gốc Hán-Việt: xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Đặc điểm chung của chế độ phong kiến là giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất [gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước] và tiến hành bóc lột địa tô [dưới nhiều hình thức như tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp] đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất [dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau]. Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau. Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân, những giai đoạn cuối, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh dẫn đến sự ra đời của kết cấu kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa.

2. So sánh nhà nước phong kiến Phương Đông và phương Tây:

Để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt cũng như có những đánh giá đúng đắn hơn về nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong kiến phương Tây, có thể so sánh dựa trên các tiêu chí: Thời điểm ra đời, hình thức nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, bản chất và chức năng nhà nước.

2.1. Sự giống nhau:

v Thời điểm ra đời [Quá trình hình thành, phát triển và suy vong]: Sự hình thành chế độ phong kiến cũng như nhà nước phong kiến chính là quá trình phong kiến hóa, đó là cả một quá trình, diễn ra trong thời gian dài và có hai con đường: Một là, hình thành từ nền tảng là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Hai là, có những nước từ chế độ công xã nguyên thủy đang tan rã, bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên chế độ phong kiến và thiết lập nhà nước phong kiến. Sự suy vong của hai nhà nước phong kiến phương Đông và phương Đông và phương Tây cũng đều cùng xuất phát từ mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với quý tộc phong kiến.

v Cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng: Về cơ sở kinh tế: nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều có nền kinh tế nông nghiệp, bên cạnh là kinh tế thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ, kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp. Quan hệ sản xuất chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất [chủ yếu là ruộng đất] và sản phẩm lao động. Xã hội hình thành hai giai cấp cơ bản: nông dân [ở phương Tây gọi là nông nô] và địa chủ phong kiến [ở phương Tây thường gọi là lãnh chúa, hoặc chúa đất]. Bóc lột địa tô là phương thức bóc lột đặc trưng và phổ biến; đặc điểm tiêu biểu của nhà nước phong kiến là phân chia đẳng cấp. Về chính trị,tư tưởng: chế độ phong kiến phân quyền được hình thành và đi từ phân quyền đến tập quyền. Cả hai nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự thống trị của mình [Trung Quốc là Khổng giáo hay Nho giáo, Ấn Độ là Hồi giáo, châu Âu là Thiên Chúa giáo].

v Về hình thức nhà nước: Hình thức chính thể phổ biến của nhà nước phong kiến là quân chủ, trải qua hai giai đoạn – phân quyền cát cứ và trung ương tập quyền. Từ góc độ hình thức cấu trúc nhà nước thì hầu hết các nhà nước phong kiến đều là những nhà nước đơn nhất. Về chế độ chính trị, các nhà nước phong kiến, kể cả phương Đông và phương Tây đều sử dụng các phương pháp cai trị độc đoán, chuyên quyền để thực thi quyền lực của giai cấp địa chủ phong kiến, bắt nông dân và những người lao động khác phải phục tùng tuyệt đối quyền lực đó.

v Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước: So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước phong kiến phát triển hơn về cách thức tổ chức, phương thức hoạt động, phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, giúp vua là quan. Vua, quan là những giai cấp thống trị nhân dân.

v Về bản chất và chức năng nhà nước: Xét về mặt bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác nhằm duy trì, củng cố địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Về chức năng nhà nước, cả nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều thực hiện 2 chức năng chính là chức năng đối nội [bảo vệ, củng cố và phát triển chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất, duy trì chế độ bóc lột, đàn áp nông dân và các tầng lớp khác] và chức năng đối ngoại [phòng thủ chống xâm lược từ bên ngoài, gây chiến tranh xâm lược các nước khác, hoạt động đối ngoại hữu hảo ở từng thời điểm với các quốc gia khác,…]

Xem thêm: Nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến

2.2. Sự khác nhau:

v Thời điểm ra đời [các quá trình hình thành, phát triển, suy vong]:

Ở phương Đông nhà nước phong kiến xuất hiện sớm hơn ở phương Tây, do nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, đoàn kết chống ngoại xâm; và hình thành sớm nhất ở Trung Quốc, từ thế kỷ III trước công nguyên. Tuy nhiên, quá trình phát triển lại rất chậm [Trung Quốc thế kỷ VII – XVI], các nước Đông Nam Á [thế kỷ X – XIV]. Quá trình suy vong dài, bởi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân nên mâu thuẫn dân tộc, giai cấp đã làm chế độ phong kiến suy yếu, khủng hoảng. Nhân dân phương Đông phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống thực dân, lật đổ phong kiến. Ở phương Tây, chế độ phong kiến xuất hiện muộn hơn [thế kỷ V – X], nó được hình thành sớm nhất đã là thế kỷ V sau công nguyên [ở Tây Âu]. Nó phát triển rất nhanh [Thế kỷ XI – XIV] và thời gian suy vong ngắn [Thế kỷ XV – XVI]. Ở phương Tây, nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Sự hình thành quan hệ phong kiến trong lòng đế quốc LaMã là yếu tố cơ bản, quyết định, công cuộc chinh phục các bộ lạc của người Giécmanh là yếu tố thúc đẩy quá trình phong kiến hóa. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng.

v Về cơ sở kinh tế – chính trị – xã hội – tư tưởng:

Cơ sở kinh tế: Ở phương Tây [Tây Âu], chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời cổ đại. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến ở đây là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa – chư hầu, tình trạng phân quyền cát cứ kéo dài. Ở trung kì [thời kì phát triển], thủ công, thương nghiệp phát triển, dẫn tới sự xuất hiện thành thị trung đại. Khác với phương Tây, kinh tế phương Đông lại bó hẹp ở công xã nông thôn. Kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ – tá điền chiếm ưu thế, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần ruộng đất được phân phong cho quý tộc, quan lại, một phần được cấp cho nông dân theo định kỳ để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, chế độ ban điền ở Nhật Bản,..[sở hữu tư nhân phát triển chậm]. Về cơ sở xã hội: Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, còn ở phương Tây thế lực thống trị gồm lãnh chúa, quý tộc, tăng lữ. Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền [phương Đông] so với nông nô [phương Tây] có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn phương Đông. Về chính trị, tư tưởng: Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn ở phương Tây. Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông [thời Tần Thủy Hoàng] và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương Tây sự tập quyền diễn ra chậm trễ [thế kỉ XIV] và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ của các lãnh chúa. Sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương Tây vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt chẽ hơn phương Đông.

v Về hình thức nhà nước:

Ở phương Tây, một đặc trưng, phổ biến và bao trùm của nhà nước là trạng thái phân quyền cát cứ. Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối – thời kì suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha,…Còn ở một số nước như Italia, Đức,…trạng thái phân quyền cát cứ tồn tại suốt cả chế độ phong kiến. Tính chuyên chế ở chính thể quân chủ chuyên chế không cao như ở phương Đông. Ngoài ra, còn có hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại trong những khoảng thời gian không lâu. Bên cạnh đó còn có sự ra đời và tồn tại của các cơ quan đại diện đẳng cấp…Ở phương Đông, hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến là trung ương tập quyền, phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên chế, mang tính chuyên chế cực đoan. Trong chính thể này, vua có uy quyền tuyệt đối, là đấng chí cao vô thượng và được thần thánh hóa là “thiên tử”, “thiên hoàng”…Dạng chính thể này tồn tại trong suốt thời kì phong kiến.

v Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước:

Bộ máy nhà nước phong kiến phương Đông thể hiện tính trung ương tập quyền cao độ, Vua hay Hoàng đế là người nắm hết mọi quyền lực, quan lại các cấp đều là tôi tớ của vua, dân chúng trong nước đều là thần dân của vua. Hệ thống quan lại được tổ chức 2 cấp, trung ương và địa phương với đẳng cấp phân minh, biên chế chặt chẽ. Điển hình cho nhà nước phong kiến phương Đông là nhà nước phong kiến Trung Quốc. Ở phương Tây, mà điển hình là Tây Âu, trong giai đoạn phân quyền cát cứ, bộ máy nhà nước ở trung ương vẫn tồn tại nhưng kém hiệu lực. Bộ máy nhà nước ở các lãnh địa rất mạnh, gồm nhiều cơ quan quản lý nhưng chủ yếu là cơ quan cưỡng chế. Trên thực tế, các lãnh địa như những quốc gia nhỏ, các lãnh chúa trở thành vua trên lãnh địa của mình, có đầy đủ quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa án, quân đội, luật lệ riêng. Ở chính quyền tự trị thành phố, thành thị sau khi đã được tự trị, một mặt có đầy đủ quyền hành như một lãnh chúa, mặt khác, cộng hòa thành thị có địa vị và tính chất như một thần thuộc của lãnh chúa; do đó nó là cộng hòa phong kiến. Sang giai đoạn nhà nước trung ương tập quyền, thì nạn phân quyền cát cứ được khắc phục, quyền lực nhà nước đã tập trung vào cơ quan nhà nước ở trung ương, đứng đầu là vua [có quyền quyết định mọi công việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm hoặc cách chức, ban bố hoặc hủy bỏ các đạo luật, trừng phạt, ân xá…]

v Về bản chất và chức năng nhà nước:

Cũng như thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến phương Đông vẫn có một chức năng đặc biệt, quan trọng là tổ chức công cuộc trị thủy và thủy lợi. Còn về bản chất của nhà nước phong kiến ở đâu cũng là một, tuy nhiên, ở phương Tây, tính chất giai cấp của nhà nước thể hiện rõ nét hơn ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp sâu sắc hơn [lãnh chúa – nông nô], cuộc sống của nông dân, tá điền ở phương Đông] so với nông nô có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn.

KẾT LUẬN

Như vậy, nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phương Tây tuy có nhiều điểm khác nhau và những đặc trưng riêng, nhưng đều là những nhà nước phong kiến – kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử, nó củng cố bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị, góp phần quản lý đời sống xã hội. Nó là kiểu nhà nước điển hình cần được nghiên cứu, tìm hiểu, có những nhìn nhận, đánh giá chính xác và đầy đủ, sâu sắc hơn.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề