Hậu sinh khả uý nghĩa là gì năm 2024

Nếu theo hướng “tre già măng mọc”, “con hơn cha là nhà có phúc” thì chính là đặt niềm tin vào tuổi trẻ, vào thế hệ sẽ đảm đương một cách tốt đẹp hơn, sáng tạo hơn công việc của cha anh.

Nhưng cũng đừng quên rằng, còn sự “khả úy” của những người vốn sợ rằng bọn hậu sinh không chịu theo nề nếp và đạo lý của cha anh! Ấy là những người tôn thờ cái triết lý “cha còn sống thì xem xét chí, cha đã mất thì xem xét hạnh,ba năm không có gì đổi khác với đạo của cha, có thể gọi là hiểu rồi đấy” (Luận ngữ, thiên Học nhi). Mà chữ hiếu vốn được các cụ ta xưa dạy rằng “niệm chữ hiếu cho tròn một tiết, thì suy ra trăm nết đều nên”!

Để giữ được đạo hiếu, triếtlý nói trên rất sợ lớp “hậu sinh" thay đổi cái đạo của các bậc "tiên sinh", cho nênmới nêu lên một nguyên lý ứng xử mà thế hệ con em phải thực thi "nối tiếp, làm theo,không bao giờ thayđổi "(kế, thuật vô cải). Không phải chí “ba năm không thay đối". Theo cụ Khống, tuổi từ 40-50 là một cái mốc, lớp hậu sinh đến cái tuổi ấy mà vẫn khôngcó sựđổi khácthì không còn có gì "đáng sợ” nữa, có thể trao cơ đồ sự nghiệp được rồi.

Ấy thế nhưng, trong cuốn "Đại học", Tăng Sâm lại dẫn chuyện vua Thang mở đầu triều đại nhà Thương, đã khắc vào chậu tắm rửa của mình câu châm ngôn “cấu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân" (Ngàymới, ngày ngày mới, lại ngày mới). Phải hiểu ý tứ sâu xa của câu châm ngôn ấy là giữ cho “cái đã có”, lúc nào cũng y nguyên như lúc đầu, giữ cho cái mới đầu tiên lúc nào cũng mới như thế. Theo câu châm ngôn này thì cái mớichính là cáicũ lúc vừa nảy sinh ra, chưa từng vướng bụi, dính rêu của thời gian.Vậy là phải biết hướng vào quá khứđể tìm ra cái mới banđầu, và một khi đã tìm thấy rồi thì phải giữ chịt lấy nó.Ra thế, “duy tân”cần được hiểu là duy trì, giữ gìn cái mới ban đầu cứ mới mãi, giữ cho cái mới ngày đầu cứ ngày ngày mới, rồi lại ngày ngày mới. Cứ giữ được như thế thì không còn lo đám hậu sinh đòi “canh tân", đòi "cách tân” đòi “đổi mới”, đòi “sáng tạo”. Thì ra “duy tân”gắn liền với “hiếu cố” *! Hóa ra những người đề xướng quan điểm “duy tân" kiểu này lại là những người phục cổ, luôn luôn quay đầu về xưa, coi xưa hơn nay, vì vậy lấy xưa làm chuẩn. Mà đã lấy xưa làm chuẩn, “ông bảy mươi phải học ông bảy mốt” thì làm sao tin vào lớp trẻ được đây ?

“Hậu sinh khả úy" được hiểu theo hướng này thì quả là nguy trọng thời buổi mà nhịp sống biến đổi từng ngày, khoa học công nghệ tiến như vũ bão, nhũng đột phá kiểu thác lũ trong nhiều lĩnh vực đã diễn ra và sẽ diễn ra ngày càng dồn dập. Càng ngày người ta càng cảm nhận được những bất ngờ đang chờ đón con người ở phía trước. Một phát kiến vừa được đăng quang, một thành tích vừa được tôn vinh đã nhanh chóng bị lu mờ vì những phát kiến mới, nhữngthành tích mới xuất sắc hơn.Trong một môi trường kinh tế, xã hội thường xuyên biến động, liên tục đối thay, một thuận lợi cho hôm nay chưa chắc đã là thuận lợi cho ngày sẽ đến, một thất bại vừa vấp phải có thể là kinh nghiệm quý báu cho đoạn đường sắp đi. Vì vậy không thể đòi hỏi những tri thức mình vừa có phải là tri thức chắc chắn, là tuyệt đối chính xác chứ chưa nói đến những tri thức vốn đã bị cuộc sống vượt qua! Càng ngày người ta càng cảm nhận được cái nghịch lý về tính mềm dẻo và sinh khí của cuộc sống thường chứa đựng trong cái khôngchắc chắn của tri thức đãcó, nhưng rồi chính cái không chắc chắn đó lại buộc phải tuân theo sự cứng nhắc phố biến của các luậtchắc chắn về cái khôngchắc chắn**.

Không bứt phá ra khỏi nghịch lý đó, trí tuệ của con người sẽ bị đóng khung trong những tri thức cũ kỹ, lạc hậu và lỗi thời, tự giam mình trong cái vòng luẩn quẩn “conkiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt leo ra leo vào" thậm chí có thể rơi vào nguy cơ “kiến trong miệng chén"!

Phạm Văn Đồng có một câu nói đáng được đào sâu để từ đó tạo ra một xung lực, một cảm hứng sáng tạo, bứt phá, vươn về phía trước bằng sự tìm tòi can đảm: “chúng ta đang gánh vác một trọng trách chua có tiền lệ, chúng ta đangđi trên một con đường chưa có bản đồ”***(VHVĐM, 1994, tr.67). Nếu đã có một bản đồ đã được vạch sẵn thì tuổi trẻ cần gì phải tìm tòi, khí phách Trần Quốc Toản bóp nát quả cam trong tay lúc nàokhông hay chỉ là chuyện trò đùa thừa thãi. Nếu mọi bài toán của cuộc sống đều có sẵn lời giải tối ưu thì cần gì phải đề xướng cái triết lý "con hơn cha" vì cha đã giỏi giang lo toan mọi thứ, cỗ đã bày sẵn, xinmời. Phải chăng, cuộc sống không hề có những cẩm nang luyện thi ghi sẵn cách giải tối ưu cho những bài toán luyện học trò. Cầu mong cho tuổi trẻ của chúng ta không phải đối diện với tâm lý "khả úy" đối với lớp hậu sinh theo chiều hướng đáng buồn vừa nói.

  1. Mác quả đã thật tiên tri khi ông khuyến cáo: "Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với nhũng quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra. Chúng ta đau khổ không những vì những người đang sống, mà còn vì những người đã chết nữa. Le mort saisit le vif ! (Người chết nắm lấyngười sống!)". Ông cũng đã từng nói đến truyền thống của các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống. Và ông đòi hỏi “làm sống lại những người đã chết để ca ngợi những cuộc đấu tranh mới, chứ không phải là để nhai lại những cuộc đấu tranh cũ, là để đề cao trong tưởng tượng một nhiệm vụ nhất định chứ không phải để trốn tránh việc giải quyết nhiệm vụ ấy trong thực tế". Do vậy, ông khẳng định một cách dứt khoát: "Các cuộc cách mạng trước kia cầncó những sự hồi tưởng đến những sự kiện lịch sử toàn thế giới của quá khứ để tự đánh lừa mình về cái nội dung của chính mình. Cách mạng của thế kỷ XIX phải đểcho những nguồn đãchết chôn cất những ngườichết của họ, để làm sáng tỏ cho mình cái nội dung của chính mình... Cuộc cách mạng của từ thế kỷ XIX chỉ có thể tìmđược thihứng của mình ởtương lai, chứ không phải ở quákhứ ****.

Vậy còn với thế kỷ XXIthì thế nào? Hơn 150 năm đã trôi qua từ ngày Mác viết những dòng nói trên, và cuộc tăng tốc của những thời đoạn lịch sử sau Mác, đặc biệt là chặng cuối của thế kỷ XX càng làm đậm nét ý tưởng Mác: phải tìm thi hứng của cách mạng, của phát triển ở tương lai chứ không phải ở quá khứ. Cũng vì thế mà càng kinh ngạc về cái tầm tư duy của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, năm 1924 đã nghĩ được rằng: "Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung” cơ sởlịch sử của chủ nghĩa Mác bằngcách đưa thêm vàođó nhữngtư liệu mà Mác ớthời mình không có được”***** Và 76 năm đã trôi qua kể từ khi nhũng ý tưởng đó đã được viết ra, những " tư liệu”cần phải "đưa thêm vàosẽ còn phong phú, bất ngờ và hấp dẫn biết bao nhiêu.Những “tư liệu” mà cho dù những đầu óc giàu trí tưởng tượng nhất của những năm đầu thế kỷ XX cũng không thể nào hình dung nổi . Sau cái A thì phải là cái khác với cáiA, nhưng khác như thế nào thì chưa thể biết chính xácđược, đó là lập luận của nhà xã hội học Daniel Bell đưa ra năm 1973 để dự báo về sự xuất hiện của xã hội "hậu công nghiệp". Ấy vậy mà chỉ sau hai thập kỷ, giờ đây người ta đã có thể đặt tên cho cái xã hội hậu công nghiệp ấy là xã hội thông tin,xã hội trí thúc.Đặt được tên không có nghĩa là đã hiểu được tường tận và thấy hết được những diễn biến và phát triển đầy bất ngờ của nó. Những tri thức mà con người tích lũy được trong thế kỷ vừa qua, đặc biệt là trong hơn hai mươi năm cuối để bước vào thế kỷ XXI này bằng tổng toàn bộ tri thức khoa học tích lũy được trong lịch sử của loài người từ đó trở về trước. Và người ta dự báo rằng, khối lượng tri thức ấy sẽ lớn gấp đôi trong thế kỷ sau. Điều mà Nobert Wiener, cha đẻ của ngành điều khiển học, dự báo đã đang...được chứng minh: "chúng ta đang làmbiến đổi môi trường của ta đến tận gốc rễ đếnmức rồi ta phải tự biến đổi chính mìnhđê tồn tạị được trong môi trường mớiđó". Sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ là sự thay đổi về tri thức, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri thức và về đặc điểm của con người có giáo dục. Cho nên, Bill Gates có lý khi cho rằng ngày nay, chuẩnmực chính là sự thay đổi.

Hạnh phúc lớn của tuổi trẻ hôm nay là được đối diện với một cơ hội lớn lao nhất và cũng là thách thức ghê gớm nhất đối với dân tộc ta, đối với mỗi một chúng ta để hoặc là phát triển, đi về phía trước hoặc là chậm bước, tụt lại phía sau trong nhịp tăng tốc của thế kỷ mới.Để xứng đáng với sự nghiệp của ông cha đã dày công vun đắp bằng núi xương, sông máu, lớp "hậu sinh" phải nối chí ông cha bằng trí tuệ mới, bản lĩnh mớicủa người khám phá và sáng tạo trong một sự nghiệp chưa có tiền lệ.

Dòng sông lịch sử đến quãng nước lợ, pha vị mặn của biển cả, trên hành trình mới, bên cạnh những kinh nghiệm sông nước của cha anh dồn góp, lớp trẻ hôm nay cần phải có la bàn đi biển, phải có bản lĩnh và trí tuệ căng buồm đón gió đại dương.

Hậu sinh khả ý nghĩa là gì?

"Hậu sinh khả úy" có nghĩa là lớp trẻ có thể vượt xa cha ông của họ, đáng được tôn trọng. Khen ngợi lớp người trẻ thông minh, siêng năng, tương lai sáng sủa . Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Luận ngữ - Tử hãn".

Hậu sinh khả úy là gì?

“Hậu sinh khả úy” là một câu thành ngữ dùng để chỉ tài năng của lớp trẻ, cho rằng họ đáng được tôn trọng, vì họ thông minh, dễ thích nghi, biết cầu tiến, siêng năng, tương lai sáng sủa. Từ “Hậu sinh” ở đây là chỉ lớp người trẻ, thanh thiếu niên. Còn chữ “Úy” có nghĩa là kính phục.

Hậu sinh khả ái là gì?

Ngày nay, người ta thường dùng câu nói “Hậu sinh khả uý” với ý nghĩa rằng thế hệ sau giỏi giang hơn thế hệ trước, đáng nể hơn thế hệ trước. Cách hiểu này có vẻ không sai, nhưng chưa đầy đủ, và điển tích về nó đáng để hậu thế suy ngẫm, cảnh tỉnh chính mình…