Chương trình khuyến mại là gì năm 2024
TTO - Hiểu không đúng hay nhầm lẫn định nghĩa, khái niệm là một nguyên do của tình trạng sử dụng không đúng từ ngữ tiếng Việt khá phổ biến hiện nay.1. Mỗi dịp cuối năm ở nước ta lại diễn ra "Tháng khuyến mãi". Trong chữ Hán Việt, "mại" là bán, "mãi" là mua, nên "khuyến mãi" là khuyến khích người tiêu dùng đẩy mạnh mua sắm, tiêu thụ hàng hóa, qua đó kích thích mở rộng thị trường bán lẻ, bán buôn và sản xuất. Show
Nói cách khác, "khuyến mãi" là khuyến khích bên mua, người mua, sức mua; ngược lại với "khuyến mại" là khuyến khích bên bán, người bán. Khái niệm đã rõ ràng như vậy nhưng tiếc rằng nhiều người (nhất là phát thanh viên truyền hình) và cả những văn bản (như nội dung tin nhắn mới đây của UBND TP.HCM gửi các thuê bao di động) hay phát ngôn của nhiều quan chức… đều nói/viết sai "khuyến mãi" thành "khuyến mại"! 2. Một trường hợp nhầm lẫn nữa xuất hiện hằng ngày trong xã hội là việc dùng sai từ "giá thành". Khái niệm "giá thành" là tổng chi phí quá trình sản xuất kinh doanh (trong hạch toán kế toán còn chia ra "giá thành công đoạn", "giá thành phân xưởng", "giá thành xí nghiệp"…). Theo đó, nếu "giá thành" sản phẩm cao đồng nghĩa với hiệu quả thấp (lãi ít hoặc bị lỗ vốn), và ngược lại, "giá thành thấp" tức là đối tượng sản xuất, kinh doanh có lãi (lợi nhuận), thậm chí lãi lớn… Thế nhưng, từ trong dân gian đến báo đài, người ta thường nhầm "giá thành" với giá bán, giá tiêu thụ sản phẩm. Nhận thức không đúng này dẫn đến tồn tại những cụm từ nói/viết không đúng: "vụ này lợi nhuận khá nhờ giá thành tăng", "năm nay bà con phấn khởi bởi giá thành sản phẩm cao", "nông dân mong rằng sang năm/vụ tới giá thành lúa gạo sẽ còn cao hơn"… 3. Trong thực tế cuộc sống nước ta, tình trạng không nắm rõ và nhầm lẫn định nghĩa, khái niệm dẫn đến dùng từ không chuẩn rất phổ biến. Như ở vòng xoay "ngã ba Vũng Tàu" tại TP Biên Hòa (Đồng Nai), biển chỉ dẫn đèn tín hiệu phân biệt "xe cơ giới" và "xe 2, 3 bánh", trong khi xe 2, 3 bánh gắn máy thì cũng là xe cơ giới. Một số trường hợp khác: không ít người gọi ghe/thuyền ba lá (ghép từ ba mảnh ván gỗ) ở Đồng bằng sông Cửu Long là "thuyền độc mộc" (khoét từ một khúc gỗ); gọi máy thu hình/tivi là "vô tuyến", trong khi khái niệm "vô tuyến" rất rộng chứ đâu chỉ là mỗi cái tivi!; nhầm giữa "thủy sản" (sản vật dưới nước) với "hải sản" (cũng là sản vật dưới nước nhưng chỉ ở biển). Mới đây, dù cổ phiếu trên sàn chứng khoán là vô hình mà biên tập viên một đài truyền hình vẫn nói "Cổ phiếu nằm sàn la liệt"!. Hay đưa tin Chính phủ Indonesia "hỗ trợ tiền" người dân bị thiệt hại do động đất hôm 22-11 thì lại nói "đền bù tiền" làm khán giả phản ứng: "Chính phủ Indonesia gây ra động đất hay sao mà phải bồi thường?". Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận. Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết. (Tháng 2/2023) Khuyến mãi là hoạt động của người bán nhằm thúc đẩy khách hàng tăng cường việc mua sắm, sử dụng hàng hoá, dịch vụ của người bán bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. "Khuyến mãi" hay "khuyến mại"?[sửa | sửa mã nguồn]Từ tố Hán Việt mại (chữ Hán: 賣) có nghĩa là bán, còn từ tố Hán Việt mãi (chữ Hán: 買) có nghĩa là mua. Một số người vì không hiểu nghĩa của hai từ tố Hán Việt mãi và mại và vì mãi và mại có âm thanh gần giống nhau (chỉ khác nhau về thanh điệu) nên bị lẫn lộn giữa mãi và mại, khuyến mãi bị gọi nhầm thành khuyến mại. Mục đích của doanh nghiệp và tác động đến người tiêu dùng[sửa | sửa mã nguồn]Khuyến mãi mang nghĩa là "khuyến khích mua hàng hoá, dịch vụ", do đó mục đích chính của khuyến mãi là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động khuyến mãi còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị trường Nielsen tại báo cáo thường niên "Xu hướng tiêu dùng", trong đó tìm hiểu về hoạt động mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ, thực hiện tháng 10-11 năm 2010 trên cơ sở phỏng vấn 1.500 người độ tuổi từ 18 tới 65, những người thường mua sắm và ra quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy: 87% người Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuyến mãi, trong khi tỷ lệ bình quân khu vực chỉ là 68%; 56% người tiêu dùng Việt Nam hay tìm các sản phẩm khuyến mãi khi đang đi mua sắm, so với mức 38% của khu vực Quy định về khuyến mãi trong pháp luật Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Trong Luật Thương mại năm 2005, Nghị định 37/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến mãi bị gọi nhầm là khuyến mại. Sau đó khi thay thế bằng Nghị định số 81/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại của Chính phủ Việt Nam, thuật ngữ này chưa được sửa đổi. Các hình thức khuyến mãi[sửa | sửa mã nguồn]Theo các thông tin của Bộ Công Thương Việt Nam, về cơ bản, nội dung quản lý các hoạt động khuyến mại của pháp luật Việt Nam được tham khảo từ các quy định trong luật của EU. Theo Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam, các hình thức khuyến mãi bao gồm:
Trong thực tế, các hình thức này được các doanh nghiệp áp dụng khá linh hoạt và có sự kết hợp giữa nhiều hình thức một lúc, như vừa giảm giá vừa tặng quà, vừa giảm giá vừa bốc thăm trúng thưởng, giảm giá hoặc tặng quà trong những "giờ vàng mua sắm" nhất định trong ngày (thường là giờ thấp điểm để kích thích tiêu dùng)... Giảm giá thường là hình thức được các doanh nghiệp áp dụng nhiều nhất. Ngoài ra một hình thức khuyến mãi xuất hiện lần đầu ở Mỹ, sau đó phát triển tại thị trường Anh và các nước châu Âu, châu Á, hiện đã có mặt tại Việt Nam đó là Cash Back (Hoàn lại tiền). Quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc khuyến mãi[sửa | sửa mã nguồn]Nguyên tắc[sửa | sửa mã nguồn]
Một số quy định chủ yếu[sửa | sửa mã nguồn]Khi áp dụng các hoạt động khuyến mãi trong thực tiễn, đã có nhiều vấn đề nảy sinh. Để tránh việc khách hàng bị thiệt hại về quyền lợi khi tham gia các chương trình khuyến mãi, các nhà soạn luật đã có những chỉnh lý thích hợp để đảm bảo nguyên tắc khi thực hiện khuyến mãi. Thời hạn giảm giá[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay 30%, nhưng bảng đó được yết quanh năm, với mức giá là một con số tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng. Bởi vậy, để tránh việc lừa dối khách hàng bằng giảm giả ảo, Nghị định 37 ngày 4/4/2006 của Việt Nam quy định: Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mãi bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mãi không được vượt quá 45(bốn lăm) ngày. Như vậy, các doanh nghiệp vẫn có thể quanh năm thực hiện giảm giá, nhưng là sự giảm giá luân phiên từng nhóm mặt hàng mà mình kinh doanh vẫn không vi phạm quy định. Hình thức giảm giá luân phiên thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có số mặt hàng kinh doanh lớn như các siêu thị; đối với các doanh nghiệp chuyên doanh áp dụng ở mức hạn chế hơn. Mức giảm giá[sửa | sửa mã nguồn]Để tránh việc doanh nghiệp lợi dụng hình thức khuyến mãi này để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ, pháp luật quy định: Mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mãi không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mãi. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang, muốn thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Do giá bán khuyến mãi chỉ so sánh với giá "ngay trước thời gian khuyến mãi" nên để thực hiện được điều này, doanh nghiệp phải chia làm nhiều chặng thời gian giảm giá (mỗi chặng có thể ngắn, hết chặng đầu có thể nâng lên cao hơn một chút và sau đó lại giảm mạnh ở chặng thứ hai) mà vẫn không trái với quy định. Giá trị của hàng hoá khuyến mãi và hàng hoá dùng để khuyến mãi[sửa | sửa mã nguồn]Hàng hoá dùng để khuyến mãi là "Hàng hoá, dịch vụ được thương nhân dùng để tặng, thưởng, cung ứng không thu tiền cho khách hàng", tức là hàng tặng kèm khách hàng khi mua hàng. Theo quy định, giá trị vật chất dùng để khuyến mãi cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mãi không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hoá, dịch vụ được khuyến mãi đó trước thời gian khuyến mãi, trừ các trường hợp giải thưởng trúng thưởng của các chương trình mang tính may rủi. Xử lý giải thưởng không có người trúng[sửa | sửa mã nguồn]Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt... Do dó, có những chương trình khuyến mãi được quảng cáo với giải thưởng rất cao nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng cho khách hàng. Nhằm tránh những chương trình như vậy, pháp luật quy định: Giải thưởng không có người trúng thưởng của chương trình khuyến mãi mang tính may rủi phải được trích nộp 50% giá trị đã công bố vào ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp hạch toán khoản nộp 50% giá trị giải thưởng không có người trúng thưởng của chương trình khuyến mãi vào chi phí giá thành của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hình thức cụ thể của khuyến mãi mang tính may rủi khá đa dạng. Do đó, một doanh nghiệp thực hiện chương trình một cách trung thực và minh bạch vẫn có thể xảy ra việc không có người trúng giải (giải cao hoặc thấp) và phải thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mãi[sửa | sửa mã nguồn]Ngoài những quy định có tính tổng quát như cấm khuyến mãi hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hoặc chưa được phép lưu thông, cung ứng; hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người; còn những quy định cấm khác:
Mùa mua sắm hay Tháng khuyến mãi[sửa | sửa mã nguồn]Để hỗ trợ các doanh nghiệp đồng loạt thực hiện khuyến mãi trong thời gian dài, phục vụ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng và thu hút du lịch ngoài nước, Chính phủ nhiều nước đã tổ chức Mùa mua sắm hoặc Tháng khuyến mãi. Tại các quốc gia như Singapore, Malaysia tổ chức Mùa mua sắm vào 3 tháng hè với mức độ giảm giá và các giải thưởng hấp dẫn từ các doanh nghiệp. Tại Việt Nam trong những năm gần đây bắt đầu tổ chức Tháng bán hàng khuyến mãi. Sở Thương mại (nay là Sở Công Thương) và Sở Du lịch (nay là Sở Văn hóa thể thao du lịch) Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện lần đầu tiên năm 2005 vào tháng 9 và từ đó tổ chức đều đặn hàng năm; từ năm 2009 chỉ tổ chức 1 lần vào tháng 9. Sở Thương mại (nay là Sở Công Thương) Hà Nội thí điểm Tuần bán hàng khuyến mãi cuối năm 2006 và sang năm 2007 cũng tổ chức Tháng khuyến mãi lần đầu vào tháng 10; từ năm 2009, Tháng khuyến mãi Hà Nội được tổ chức vào tháng 11. Khi đứng ra tổ chức, cơ quan chính phủ đóng vai trò tập hợp và phát động các doanh nghiệp cùng làm khuyến mãi trong cùng một thời điểm nhất định trong năm khiến kích thích nhu cầu mua sắm thêm mạnh mẽ từ trong và ngoài nước. Ngoài vai trò tập hợp, các cơ quan quản lý còn hỗ trợ các doanh nghiệp bằng các hoạt động quảng bá, giới thiệu về chương trình trên các phương tiện truyền thông (báo chí, truyền hình...), phát tờ rơi, sách cẩm nang thông tin, treo bandrole trên các tuyến đường... Ở mức độ cao hơn, các nhà quản lý còn xây dựng logo, khẩu hiệu (slogan) và thậm chí nhạc hiệu riêng cho chương trình. Việc tổ chức định kỳ trong nhiều năm liên tiếp khiến "Tháng khuyến mãi" hay "Mùa mua sắm" trở thành quen thuộc với người tiêu dùng trong và ngoài nước, đặc biệt tại các đô thị. Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Khái niệm khuyến mại là gì?Khoản 1 Điều 88 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa khuyến mại như sau: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.” Chương trình khuyến mại gồm những gì?Chương trình khuyến mãi cũng là 1 trong những yếu tố cơ bản của hỗn hợp thị trường, bao gồm 4 chữ P: giá cả , sản phẩm, khuyến mại và địa điểm. Khuyến mại và khuyến mại có gì khác nhau?Về bản chất, khuyến mãi và khuyến mại không hề giống nhau, cụ thể: Khuyến mại giúp tăng doanh thu, kích cầu mua sắm của khách hàng làm giảm lượng hàng tồn kho. Khuyến mãi giúp giải phóng hàng tồn kho, gia tăng doanh số bán hàng của các đại lý, nhà phân phối. Khuyến mại nhằm mục đích gì?Mục đích của doanh nghiệp và tác động đến người tiêu dùng Khuyến mãi mang nghĩa là "khuyến khích mua hàng hoá, dịch vụ", do đó mục đích chính của khuyến mãi là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. |