Họ Ngô chiếm bao nhiêu phần trăm ở Việt Nam
Họ Ngô xuất hiện rất sớm ở Việt Nam, từ thời các Vua Hùng. Thần phả đình An Duyên (Thường Tín, Hà Tây) ghi tên họ Ngô Ngọc Lang, quán Sơn Nam Hạ, Tướng của các Vua Hùng đời thứ 18. Bia Hàm Long (Hà Nội) có ghi Ngô Long, Tướng của các Vua Hùng đời thứ 18. Với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938-cách nay đã 1060 năm), chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, Ngô Quyền đã trở thành người Anh hùng Dân tộc. Theo tôc phả họ Ngô do Hán Quốc công Ngô Lan biên soạn năm Đinh Dậu, triều Lê Thánh Tông (1477), thì Tổ họ Ngô là Ngô Nhật Đại, hào trưởng châu Phúc Lộc (vùng Cửa Sót, xã Thạch Kim, Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Ngài đã tham gia khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), sau thất bai phải rời ra vùng Châu Ái (Thanh Hóa). Từ Ngô Nhật Đại đến Ngô Quyền trải qua 5 đời, gần 300 năm không thấy ghi chép rõ ràng. Nếu tính từ Ngô Quyền thì đến nay họ Ngô đã truyền được 36-37 đời, có nơi tính ra đã trên 40 đời, xuất phát từ Châu Hoan, Châu Ái, qua Đường Lâm (Sơn Tây) mà tỏa đi khắp cả nước, có mặt từ Lạng Sơn đến Cà Mau, Hà Tiên… Qua khảo sát ban đầu, chúng tôi xin trình bày thế thứ của dòng họ một cách khái quát như sau: Cụ Tổ đầu tiên là Ngô Nhật Đại, quê Ái Châu, làm nghề nông, chưa rõ ở làng xã nào, sinh con là Ngô (Tá) Nhật Dụ theo Nho học, làm Liễu tá trong Phủ đô hộ thời Bắc thuộc. Rồi đến Ngô Đình Thực là Hào trưởng, sinh Ngô Đình Mân, làm Mục Phong Châu, thời Khúc Thừa Hạo làm Tiết độ sứ. Đến Phong Châu đã cao tuổi, Ngô Đình Mân lấy bà Phùng Thị Tinh Phong, con gái Phùng Hải, cháu Bố Cái Đại vương Phùng Hưng., sinh Ngô Quyền và Ngô Tịnh ở làng Cam Lâm, quận Đường Lâm (có thuyết nói rằng Ngô Quyền sinh ở làng Mía-nay là làng Mía, tức Thịnh Mỹ, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa-có thể xuất phát từ địa danh làng Mía Thọ Xuân trùng với làng Mía Đường Lâm) Ngô Tịnh sau làm Trấn thủ Kỳ Hoa, Kỳ Anh (Hà Tĩnh), sinh ba trai, một gái, người làm Châu mục, người làm Tăng thống, người Hào trưởng…đều thất truyền. Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897), mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn (944), thọ 47 tuổi, mộ táng tại thôn Cam Lâm. Theo Quốc sử và văn bia lưu truyền, độ tuổi 20 cha mẹ đã từ trần, Ngô Quyền vào Châu Ái làm Nha tướng Dương Diên Nghệ, lấy con gái Dương Diên Nghệ là Dương Thị Như Ngọc, sinh Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Vân (có thuyết nói rằng, Ngô Quyền còn có hai người con nữa là Cần Hưng và Nam Hưng, khi Nam Kha cướp ngôi cho ở với mẹ). Ngô Quyền vào Châu Ái khoảng chừng 10 năm, ra đánh Lý Khắc Chính rồi lại trở vào Châu Ái khoảng 6-7 năm. Lần thứ 2 ra trừ Kiều Công Tiễn, đánh đuổi quân Nam Hán, làm Vua, đóng đô ở Cổ Loa. Con cháu kế tiếp ở Cổ Loa, đến năm 965 thì lui về ba nơi: Ngô Xương Xý về Bình Kiều (Thanh Hóa), Ngô Nhật Khánh về Đường Lâm. Cha con Ngô Nhật Chung, Ngô Nhật Minh về Đỗ Động (Thanh Oai). Thiên sách vương Ngô Xương Ngập, vợ là Phạm Thị Uy Duyên, con gái Phạm Phòng Át ở Nam Sách, sinh Ngô Xương Xý, Ngô Xương Tỷ, Ngô Xương Tỷ đạo hiệu Châu lưu ở chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, quận Thường Lạc (sau do kỵ húy Lê Lợi gọi trệch là Cát Lỵ thuôc huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), giữa thị trấn Cồng và ga Văn Trai). Chúng tôi được biết tin mộ của vị Đại sư này là một trong những ngôi tháp ở chùa Trấn Quốc (Hà Nội) đã đến tìm nhưng chưa thấy. Ngô Xương Xý thất bại ở Bình Kiều, hai con trai, một là Ngô Xương Sắc lưu lạc ở vùng thượng du Châu Ái, sinh Ngô Tử Canh (thất truyền) và Ngô Tử Ân. Con cháu Ngô Tử An, Tử Vinh, Tử Uy v.v…dần dần sa sút, 8 đời sau quá cùng cực. Ngô Rô về coi chùa ở Thiên Phúc, làng Thung, xã Đồng Phang, huyện Yên Định (vào cuối Trần). Đến Hậu Lê thì trỗi dậy, phát triển một cách kỳ lạ nên được giải thích rằng mô táng vào đất phát! Người con thứ hai của Ngô Xương Xý là Ngô Ích Vệ tức Ngô An Ngữ, tuổi nhỏ chạy vào Châu Hoan. Khi Lý Công Uẩn lên làm vua ông ra làm một chức quan nhỏ là Sùng ban lang tướng. Ông theo Vua Lý ra Thăng Long, ở phường Thái Hòa, Khán Sơn, lấy bà họ Hán, sinh ra Ngô Tuấn (tức Lý Thường Kiệt), Ngô Chương (tức Lý Thường Hiến) sau này. Nhà Trần thay nhà Lý, dòng họ Ngô sa sút, tuy nhiên vẫn giữ được nền nếp và ở nhà dạy học. Đến cuối đời Trần, ba anh em của Minh Đức (cha của Ngô Bệ), Minh Hiếu, Minh Nghĩa (cha của Ngô Diên Tố) đổi tên, đi mỗi người một nơi. Những người khác không được ghi chép lại. Cũng từ đó mất quan hệ gia tộc 5-6 trăm năm. Đến ngày nay mới tìm ra mấy họ chạy lánh nạn, đó là: -Họ Lạc Nghiệp: Một bà mẹ đổi tên là Bà Nồm đem con về Giao Thụy, đến nay đã trên 20 đời, thành một họ lớn mấy ngàn người. Có bộ phận trở về quê cũ Nam Sách trông coi từ đường, có bộ phận lên ở Đồng Hỷ-Thái Nguyên, Sơn Dương, Tuyên Quang. -Họ Ngọc Hà Hà Nội phân chia về Vân Động, Đông Cao, Thái Bình. -Họ Nhĩ Thượng ở huyện Gio Linh, Quảng Trị dọc bờ sông Hiền Lương có 6-7 ngàn nhân khẩu ở 6 xã trong đó có 3 xã có chữ Nhĩ, 3 xã có chữ Hà, dần dà có gần 3 ngàn người thiên cư vào Nam. -Họ Bắc Biên Gia Lâm đang hương khói đền Lý Thường Kiệt. Dòng Ngô Xương Sắc ở Châu Aí, từ Hậu Lê trở đi là dòng phát triển mạnh nhất, càng thiên cư xa càng phát triển mạnh, có thể hơn cả dòng họ ở nguyên quán. Sau bảy, tám đời sa sút cùng cực, Ngô Tây ở coi chùa sinh hai con trai. Ngô Quỳnh con bà họ Nguyễn lưu lạc sang huyện Vũ Thư ,Thái Bình đến nay thành họ Minh Lăng có vài ngàn nhân khẩu. Con thứ là Ngô Kinh con bà họ Trịnh đi làm gia nô cho tù trưởng Lê Khoáng, lấy bà họ Lê (cô cháu với bà mẹ Lê Lợi) sinh bốn trai, một gái, giúp Lê Lợi khởi nghĩa. Cha con, ông, cháu thành 7 vị Công thần khai quốc. Bước đột phát kéo dài suốt 300 năm triều Lê, nhân khẩu tăng nhanh; Ngô Từ sinh 11 trai, 8 gái là Ngô Lan, Ngô Nạp, Ngô Khế, Ngô Hộ, Ngô Thị Ngọc Dao… Thời Lê sơ, những người thiên cư vào Quảng Nam sinh sôi thành nhiều dòng họ trên dưới 20 đời tập trung ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Hòa Vang tỉnh Quảng Nam. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, quan Đại thần của nhà Lê là Ngô Nhân Dũng không theo Mạc. Đầu năm 1530, Mạc trục xuất Ngô Nhân Dũng về quê ở xã Lý Trai, tổng Vạn Phần. Ông mai danh, ẩn tích lên hương Kẻ Ngọn ở với cháu là Ngô Phúc Tín. Người ta gọi là ông Trục, bà Trục, cùng với bố vợ là Lại Quận công Phan Công Tích trấn thủ tại Nghệ An, lập nghĩa quân phù Lê, diệt Mạc. Những người họ Ngô thiên cư do đi theo Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị, Thừa Thiên nay có trên 30 họ, nhiều nhất là đất Huế và lận cận. Những cuộc thiên cư do sa cơ trong chiến tranh Trịnh- Nguyễn (1655-1680) vào vùng Quảng Nam, đến Bình Định, có người vào đến Châu Đốc, đến nay đã 14-15 đời. Ngoài ra ở nhiều cuộc thiên cư lẻ tẻ do hiềm nghi chính trị của Chúa Trịnh, phải chạy ra đất Mạc, đổi họ hoặc không tập trung vào Sơn Nam Hạ và Kinh Bắc, hình thành hai cụm lớn. Đi theo quê mẹ cũng có, ghi không thể hết. Nhìn chung lại, bất cứ thiên cư trong hoàn cảnh nào, đến địa bàn mới nào, thế hệ sau kế thừa thế hệ trước, thường phát triển mạnh hơn ở nguyên quán, đặc biệt là lập nghiệp thường dựa vào lưu vực các sông lớn nhỏ. Các chi họ phải đổi sang họ khác nay đã biết được trên 10 họ đổi sang là: Phạm, Trần, Nguyễn, Lê, Đỗ, Phan, Hoàng, Hoa, Văn, Vũ Văn. Các họ khác đã đổi sang họ Ngô đã biết: Lê đổi sang Ngô ở Nguyệt Viên (Ngô Cao Lăng), họ Lê ở Long Linh, Xuân Dục, họ Nguyễn ở Tam Sơn. Cũng có những nhân vật như Ngô Sỹ Liên, Ngô Tòng Chu chưa biết thuộc dòng nào. Với một chiều sâu và chiều rộng qua lớn, phả ký thất lạc, mất mát quá nhiều, nay lập lại thật là một việc làm vượt qúa sức của một vài người, không sao tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Dòng họ Ngô qua hàng ngàn năm lịch sử biến thiên, từ một cội, nảy muôn cành, không khỏi có cành cụt. Nhìn chung, đời này qua đời khác, con cháu nội cũng như ngoại, trai cũng như gái, nêu gương hiếu thảo, trung thực, đảm đang, một lòng vì nước vì nhà của Tiên tổ, qua thử thách giáo dục rèn luyện đã gìn giữ được truyền thống tốt đẹp của dòng họ, đó cũng là một phần của truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
TỘC PHẢ HỌ NGÔ TRẢO NHA THẠCH HÀ (HÀ TĨNH) DÒNG NGÔ NƯỚC; TỪ ĐỜI 21. (Trảo Nha nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh) 21 Ngô Nước (Ngô Lợi) Quản Lĩnh công. Con trai Thanh Quốc công Ngô Khế,một trong sáu người “cư biệt quán”,ông lánh vào xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà ,sau dời qua làng Trung Thuỷ,định cư ở thôn Thổ Sơn xã Đan Liên,sau đổi là xã Trảo Nha trấn Thạch Hà,nay là thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.Ông bà nấu rượu nuôi lợn để sinh sống. Được tặng phong Nghệ An Quản lĩnh. Mộ hai ông bà táng ở dăm Nhà quan thôn Thổ Sơn. Thuỵ hiệu: Thuỷ tổ Nghệ An vệ, Chánh Quản Lĩnh công, thuỵ Chính Nhân phủ quân. Sinh Ngô Phúc Hải. 22 Ngô Phúc Hải Đô Tổng binh Bà cả người Trảo Nha,bà thứ người Hoa Viên cư ngụ xã Phú Điền. Mộ được thiên táng ở chân núi Mã Yên Sơn (rú Rum) xã Phúc Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An . Thuỵ hiệu:Thái Nguyên trấn Đô Tổng binh sứ ty,Đô tổng binh Đồng tri Ngô Tướng công thuỵ Chính Đạo phủ quân Sinh Ngô Phúc Hà Thuần trung Hầu. 23 Ngô Phúc Hà Chủ bộ Thuần trung Hầu : Mộ tại chân núi Mã Yên Sơn, xã Phúc Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Thuỵ hiệu :Yên Vương phủ Chủ bộ, tặng Thuần trung Hầu, thuỵ Giác Tính phủ quân. Bà cả người Trảo Nha sinh -Ngô Phúc Thanh, Bà thứ người Hoa Viên sinh -Ngô Phúc Điền Thuỷ tổ họ Ngô -Phú Điền, Hưng Phú, Hưng Nguyên, Nghệ An. 24 Ngô Phúc Thanh Thái Bảo Vĩnh Lộc Hầu : Trấn thủ trấn Nghệ An,tước Vĩnh Lộc Hầu, được mệnh danh “Nam diện trường thành”,mất trước ngày Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê(1527). Thuỵ hiệu : Nghệ An xứ Đô Tổng binh sứ ty Đô tổng binh sứ, tặng phong Thái Bảo, Ngô Tướng công, thuỵ Trung Túc phủ quân. Sinh Ngô Cảnh Hựu. 25 Ngô Cảnh Hựu (1520-1596 ) Thái bảo Thế Quận công Có tên Ngô Phúc Trừng,(vì kỵ huý ,đổi một thời gian).Có nhiều chiến công đánh Mạc xếp hạng Nguyên công,phong”Luỹ đại công thần dữ quốc đồng hưu”. Thuỵ hiệu: Phụ quốc Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc Thượng tướng quân, Bật nghĩa Doanh Ngô Tướng công, tự Minh Trứ,thuỵ Đôn Hậu phủ quân. Ông xin về trí sĩ năm 1594. Mất ngày 25 tháng 5 năm Bính Thân 1596,mộ ở thôn Chi Lễ xã Thái Hà. Có ba bà:Từ Quang,Diệu Hằng,Trịnh Thị Diệu Minh, sinh : -Ngô Phúc Tịnh Tứ Quận công, -Ngô Phúc Hoành Hoành Phố Hầu, họ Chỉ Châu, -Khang trạch Hầu họ Cổ Bái, -Câu kê Hầu họ Thạch Mỹ, -Ngô Đăng Khản họ Hà Linh, -Ngô Thuận Tâm họ Trần- Vỵ Xuyên, -Ngô Thị Ngọc Nguyên Thứ phi Chúa Trịnh Tùng 26 Ngô Phúc Tịnh Thái bảo Tứ Quận công Thuỵ hiệu: Hiệp mưu Dương võ Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân,Nam quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Tứ Quận công, Gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc,tự Minh Triết,thụy Đức Long phủ quân. Bà chính thất Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Mai con Triết vương Trịnh Tùng không có con, Bà Lê Thị Đệ là vợ trước, đem con ra ở nhà riêng nhường ngôi chính thất cho Quận chúa,sinh : -Tào Quận công Ngô Phúc Vạn, -Vỵ Quận công không rõ tên, – và hai con gái. 27 Ngô Phúc Vạn (1577-1652) Phó tướng Thái bảo Tào Quận công Có tên là Phúc Mại,tự Tử Hán,hiệu Huân Dương Chân nhân,người đương thời tôn xưng Phật Thái bảo. Thuỵ hiệu: Dương võ Uy dũng Công thần,Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân,Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Chưởng phủ sự, Trung nhuệ Quân doanh, Phó tướng Thiếu uý Tào Quận công, gia phongThái bảoThượng Trụ quốc,Ngô Tướng công, tự Hùng Thao, thuỵ Mỹ Thiện phủ quân. Ông sinh giờ Dần,ngày 20 tháng 5 năm Đinh Sửu 1577,mất ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn 1652,mộ táng trên đồi Nghèn,huyệt sâu 17 mét. Năm 1993 đền và mộ đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá. Bà chính thất là Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Uyên,con gái Bình An Vương Trịnh Tùng. Ông có tất cả 7 bà, sinh 10 con trai,15 con gái (có hai người là Cung tần). 10 con trai nay thành 10 chi : -Nhuận Quận công Ngô Phúc Thiêm, chi trưởng -Hàn Quận công Ngô Phúc Đang, chi 2 -Đằng Quận công Ngô Phúc Hạp, chi 3 -Đáng Quận công Ngô Phúc Tân, chi 4 -Phương Quận công Ngô Phúc Hộ, chi 5 -Kiêm lộc Hầu Ngô Phúc Điền, chi 6 -Hào mỹ Hầu Ngô Phúc Liêu , chi 7 -Vân lĩnh Hầu Ngô Phúc Phổ, chi 8 -Toản võ Hầu Ngô Phúc Trị , chi 9 -Khanh tương Hầu Ngô Phúc Triều , chi 10. 27 Vỵ Quận công không rõ tên huý,bà là Quận chúa họ Trịnh, sinh hai con trai: -Diên Quận công không rõ tên huý,bà là Quận chúa họ Trịnh nay là thuỷ tổ họ Tam Đa, -Lý Quận công không rõ tên huý, thất truyền. Dòng Ngô Nước phân chi lần thứ nhất vào đời thứ 24: Ngô Phúc Thanh ở Trảo Nha là dòng trưởng, Ngô Phúc Điền ở Hưng Phú là dòng thứ. Phân chi lần thứ 2 vào đời thứ 26: Ngô Phúc Tịnh ở Trảo Nha, Ngô Phúc Hoành ở Chỉ Châu, Khang Trạch Hầu ở Cổ Bái, Câu Kê Hầu ở Thạch Mỹ, Ngô Đăng Khản ở Hà Linh, Ngô Thuận Tâm con cháu ở Vỵ Xuyên. Phân chi lần thứ 3,vào đời 28: Các con trai Ngô Phúc Vạn phân thành 10 chi mới, ở khắp các tỉnh Trung Nam Bắc. Từ sau phân chi thiên cư ,ngày nay thành trên 30 họ , thế thứ lần lượt ghi chép dưới đây theo từng dòng trên xuống. Họ Ngô Phú Điền Xã Hưng Phú huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An 24 Ngô Phúc Điền con thứ Thuần Trung Hầu Ngô Phúc Hà (mất liên lạc từ lâu,đến năm 1976 mới bắt liên lạc lại với họ Trảo Nha) 25 Ngô Tự Toàn thuỵ Chân Tâm 26 Ngô … Hương Đình kỳ lão, sinh Ngô Trung Lương 27 Ngô Trung Lương sinh Ngô Hữu Dũng 28 Ngô Hữu Dũng sinh Ngô …Chánh Đội trưởng 29 Ngô …. Chánh Đội trưởng, sinh Ngô Hữu Quý 30 Ngô Hữu Quý Yên lại đồn điền Phó sứ, sinh Ngô Hữu Chấp 31 Ngô Hữu Chấp sinh hai trai thành hai chi,gia phả thất lạc Trên đây là dựa vào mộc chủ và tư liệu ghi chép để kỵ lạp.Gia phả chính Ty Văn hoá Nghệ An mượn từ năm 1950 không trả lại. Thế thứ tiếp theo trong họ có người ghi chép nhưng chưa xong,chỉ biết con cháu ngày nay đã đến đời thứ 40. Họ Ngô Chỉ Châu Dòng Hoành Phố Hầu Ngô Phúc Hoành Xã Thạch Trị huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh. 26 Ngô Phúc Hoành Hoành Phố Hầu, con thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu,ở xã Đan chế dời về Chỉ Châu,nơi Thủy Tổ Ngô Nước dừng chân ngày trước.Ông có nhiều con.Vào khoảng 1560-1570,quân nhà Mạc nhiều lần tấn công vào Nghệ An,có lần Mạc Đôn Nhượng chiếm đóng đất trấn Nghệ từ bờ nam sông Lam trở vào hai tháng liền,người lớn còn phải đi đánh giặc,con cái ở quê phải chạy giặc, mỗi người một nơi,sau đó có người trở về, có người ở luôn thành quê mới.Nay thành mấy chi họ. 27 Ngô Phúc Trạch ở Chi Lễ sau dời Bảo Tháp. Ngô Phúc Yên ở Đồng Lưu. Ngô Phúc Trinh ở Cẩm Tiến ,có con Ngô Phúc Lý ra ở Yên Hồ. Một dòng ở lại Chỉ Châu và Trung Thủy. Trong mấy người trên không rõ ai anh ai em,chi ở Thạch Trị (Chỉ Châu) lo việc trông coi mồ mả). Chi Bảo Tháp -Thái Hà, huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh 27 Ngô Phúc Trạch ở Chi Lễ xã Phúc Lễ, sinh Ngô Phúc Phấn. 28 Ngô Phúc Phấn sinh 3 con trai,trưởng Ngô Phúc Lăng. 29 Ngô Phúc Lăng sinh 9 con trai,trưởng Ngô Phúc Đạn. 30 Ngô Phúc Đạn sinh 5 con trai. 31 Ngô Phúc Đào con thứ Ngô Phúc Đạn,sinh Ngô Phúc Yên,Ngô Phúc Tư (có 4 con). (Mất phả 4 đời) 36 Ngô Phúc Tao sinh Ngô Đức Sơn,Ngô Đức Thịnh,Ngô Đức Vương, Ngô Đức Trường,Ngô Đức Tài. 37 Ngô Đức Sơn sinh Ngô Đức Linh. 37 Ngô Đức Thịnh sinh Ngô Đức Dòng. 38 Ngô Đức Dòng sinh Ngô Đức Thuận . 37 Ngô Đức Bảy sinh Ngô Quang Hà,Ngô Việt Hà. 37 Ngô Chu sinh Ngô Đức Thực. 37 Ngô Hạp sinh Ngô Đức Phố,Ngô Đức Xá. 38 Ngô Đức Phố sinh Ngô Tín Dũng. 38 Ngô Đức Xá sinh Đức Nhã,Đức Định. 34 Ngô Đức Hiệu sinh Ngô Trí,Ngô Nhuận. 35 Ngô Trí sinh Ngô Đôn,Ngô Trung,Ngô Chính. 36 Ngô Đôn sinh Ngô Quốc Lương,Ngô Đức Hiền. 37 Ngô Quốc Lương sinh Ngô Quốc Tường,Ngô Quốc Bảo. 36 Ngô Trung sinh Ngô Quốc Tuấn,Ngô Quốc Hùng,Ngô Quốc Cường. 36 Ngô Chính sinh Ngô Minh Long,Ngô Minh Quân. 35 Ngô Nhuận sinh Ngô Hồng,Ngô Đức Hà. 36 Ngô Hồng sinh Ngô Hữu Đức. 36 Ngô Đức Hà sinh Ngô Việt Hùng. 34 Ngô Đức Tư sinh Ngô Huy,Ngô Quang,Ngô Bích,Ngô Hoàng, Ngô Châu. 35 Ngô Huy sinh Ngô Cơ,Ngô Võ,Ngô Ngọc. 36 Ngô Cơ sinh Ngô Thảo,Ngô Thuận. 36 Ngô Ngọc sinh Ngô Anh Tuấn. 36 Ngô Võ sinh Ngô Thiên,Ngô Dung,Ngô Thăng,Ngô Kiện. 35 Ngô Bích sinh Ngô Thọ,Ngô Uyên,Ngô Trân,Ngô Lân, Ngô Mân,Ngô Quỳnh. 36 Ngô Ngọc Thọ sinh Ngô Đức Cành,Ngô Hoài. 36 Ngô Ngọc Uyên sinh Ngô Ngọc Quyền,Ngô Bính. 36 Ngô Ngọc Trân sinh Ngô Tuấn Anh. 36 Ngô Lân sinhNgô Công,Ngô Huân,Ngô Hân. 36 Ngô Mân sinh Ngô Hùng,Ngô Hoàng,Ngô Hà. 36 Ngô Quỳnh sinh Ngô Ngân. 35 Ngô Hoàng sinh Ngô Cận,Ngô Tạo,Ngô Hồ,Ngô Luyện. 36 Ngô Cận sinh Ngô Đạt,Ngô Thắng. 36 Ngô Tạo sinh Ngô Kiên,Ngô Tâm. 36 Ngô Hồ sinh Ngô Bính,Ngô Vinh,Ngô Nhật. 36 Ngô Luyện sinh Ngô Quảng,Ngô Nam. 35 Ngô Chân sinh Ngô Huynh,Ngô Oánh. 36 Ngô Huynh sinh Ngô Trình,Ngô Khuyên. 33 Ngô Trạc thiên cư Chu Lễ sinh Ngô Đình Ngôn,Ngô Đình Giảng, Ngô Đình Đấu,Ngô Thị Kiên. 34 Ngô Đình Ngôn sinhNgô Đình Khiên. 35 Ngô Đình Khiên sinh Ngô Tuấn,Ngô Mạnh,Ngô Thắng, Ngô Đốc,Ngô Khanh(Ls). 34 Ngô Đình Giảng sinh Ngô Đức Thuyết,Ngô Đức Thành (Ls). 35 Ngô Đức Thuyết (1920-1990) sinhNgô Đức Phúc,Ngô Thị Thanh, Ngô Thuỷ,Ngô Huơng,Ngô Dung,Ngô Lan. 32 Ngô Phúc Tuý sinh Ngô Phúc Thuỳ,Ngô Phúc Đo, Ngô Phúc Chúc (1826-1909),Ngô Phúc Đàn,Ngô Phúc Kiên. 33 Ngô Phúc Đàn sinh Ngô Phúc Tráng,Ngô Phúc Thắng,Ngô Phúc Hoà và 4 người nữa. 33 Ngô Phúc Kiên sinh Ngô Phúc Mãn,Ngô Phúc…,Ngô Phúc Linh, Ngô Phúc Kha,Ngô Phúc Cân. 34 Ngô Phúc Mãn sinh Ngô Phúc Lê. Ngô Phúc… sinh Ngô Phúc Ngư 30 Ngô Phúc Tiêu sinh Ngô Phúc Hiên bốn anh em. 31 Ngô Phúc Hiên sinh Ngô Phúc Cư. 32 Ngô Phúc Cư sinh Ngô Phúc Túc. Nay đã đến đời thứ 37,phả bị cháy trong cơn hoả hoạn,đến đời 33,34, các ông Ngô Ngụ,Ngô Sỹ,Ngô Hoà mới sưu tầm ghi chép lại vào những năm Khải Định nhà Nguyễn.
Họ Ngô -Đồng Lưu xã Thạch Vĩnh huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh 27 Ngô Phúc Yên con trai Hoành Phố Hầu Ngô Phúc Hoành, sinh Ngô Văn Định. 28 Ngô Văn Định sinh Ngô Văn Lý, Ngô Văn Vinh, Ngô Văn Khoan, Ngô Văn Điệt. 29 Ngô Văn Lý sinh Ngô Văn Mưu. 30 Ngô Văn Mưu sinh Ngô Văn Chiến, Ngô Văn Tri. 31 Ngô Văn Chiến sinh Ngô Tài. 32 Ngô Tài sinh Ngô Kiều. 33 Ngô Kiều sinh Ngô Quyền. 34 Ngô Quyền sinh Ngô Đệ. 35 Ngô Đệ sinh Ngô Tập. 36 Ngô Tập sinh Ngô Hợi. 37 Ngô Hợi sinh Ngô Cai. 38 Ngô Cai sinh Ngô Hoà,Ngô Hợp. Các phái khác chưa có thế thứ. Họ Ngô Cẩm Tiến, huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh 27 Ngô Phúc Trinh con Hoành Phố Hầu Ngô Phúc Hoành,sinh Ngô Đình Thắng, Ngô Đình Tình, Ngô Văn Mai, Ngô Văn Hài. 28 Ngô Đình Tình sinh Ngô Huy Mai, Ngô Văn Dinh. 29 Ngô Huy Mai sinh Ngô Văn Ngụ, Ngô Văn Quang, Ngô Văn Dịch. 30 Ngô Văn Ngụ sinh Ngô Văn Hải, Ngô Văn Tế, Ngô Văn Truyền, Ngô Văn Nhương. 31 Ngô Văn Hải sinh Ngô Văn Hiến, Ngô Văn Tân (thất truyền). 31 Ngô Văn Tế sinh Ngô Văn Năm (thất truyền). 31 Ngô Văn Truyền sinh Ngô Văn Suyền, Ngô Văn Điền, Ngô Văn Cử, Ngô Văn Hiệu. 32 Ngô Văn Suyền sinh Ngô Văn Hoàn, Ngô Văn Hoạt, Ngô Thị Nhiên, Ngô Thị Niêm, Ngô Thị Cúc. 33 Ngô Văn Hoàn sinh Ngô Văn Toàn, Ngô Thị Yến. 34 Ngô Văn Toàn sinh Ngô Sỹ Quế, Ngô Mạnh Đức, Ngô Trọng Tài, Ngô Dương Trí, Ngô Thị Hảo, Ngô Thị Hiên, Ngô Thị Lài. 33 Ngô Văn Hoạt sinh Ngô Văn Kiêm, Ngô Văn Cườm, Ngô Thị Khươm, Ngô Thị Ươm, Ngô Thị Niên, Ngô Thị Cúc. 34 Ngô Văn Kiêm (sinh 1944) ,sinh Ngô Văn Huy, Ngô Thị Hạnh, Ngô Hoài, Ngô Am. 34 Ngô Văn Cườm bà Y Gái người Đắc Lắc,sinh Ngô Thị Hoa, Ngô Thị Mùi, Ngô Văn Trúc, Ngô Văn Trinh, Ngô Văn Bảy, Ngô Thị Đông. 32 Ngô Văn Cử sinh Ngô Văn Nôi, Ngô Thị Phác, Ngô Thị Trực 33 Ngô Văn Nôi sinh Ngô Văn Hôi(l.s), Ngô Văn Tý, Ngô Chiến, Ngô Đấu 34 Ngô Văn Tý sinh Ngô Đức Hoàng, Ngô Sửu, Ngô Thị Phương 32 Ngô Văn Hiệu sinh Ngô Văn Mưu, Ngô Đức Chất, Ngô Văn Mai 33 Ngô Văn Mưu sinh Ngô Đức Thông, Ngô Văn Công, Ngô Thị Lưu 34 Ngô Đức Thông sinh Ngô Đức, Ngô Nam, Ngô Ninh, Ngô Linh, Ngô Anh 34 Ngô Văn Công sinh Ngô Văn Đương, Ngô Thị Diệu, Ngô Cảnh 33 Ngô Đức Chất sinh Ngô Đức Long, Ngô Thị Liên, Ngô Châu 34 Ngô Đức Long sinh Ngô Thị Hương, Ngô Huyền, Ngô Quyên , Ngô Danh. Chi Yên Hồ , huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh Phân chi từ Cẩm Tiến huyện Cẩm Xuyên 28 Ngô Văn Hài Con Ngô Phúc Trinh ở Cẩm Tiến,ra Yên Hồ dạy học,ở lại. Bà Nguyễn Thị Việt sinh Ngô Đăng Đệ. 29 Ngô Đăng Đệ bà Nguyễn Thị Thiệp sinh Ngô Đức Kháng, Ngô Văn Lý 30 Ngô Đức Kháng bà Dương Thị Nhị 30 Ngô Văn Lý bà Nguyễn Thị Tam sinh Ngô Thị Quế,Ngô Thứ,Ngô Chiểu, Ngô Lương,Ngô Văn Thạch, Ngô Thị Khách, Ngô Thị Dụ 31 Ngô Văn Thạch sinh Ngô Văn Huýnh, Ngô Văn Chí, Ngô Thị Diệp, 31 Ngô Chiểu sinh Ngô Đức Phổ, Ngô Đức Hiệu, Ngô Đức Tư 32 Ngô Đức Phổ sinh Ngô Quý, Ngô Mai, Ngô Chu, Ngô Hạp và 3 con gái 33 Ngô Quý sinh Ngô Quát, Ngô Tiến, Ngô Phùng, Ngô Toại, Ngô Thị Chắt 34 Ngô Quát (Đh),sinh Ngô Đạo, Ngô Đạt, Ngô Viễn, Ngô Thị Hoá, Ngô Thị Hương, Ngô Thị Lan, Ngô Thị Mai 34 Ngô Tiến sinh Ngô Văn Hoa, Ngô Đức Hiệp 34 Ngô Toại sinh Ngô Chi, Ngô Nguyên 33 Ngô Mại sinh Ngô Đức Tạo, Ngô Đức Hồng, Ngô Đức Phúc, Ngô Đức Bảy 34 Ngô Đức Phúc (Pts), bà Lê Thị Út sinh Ngô Đức Anh, Ngô Vân Anh Họ Ngô- Cổ Bái Tự Cường Xã Thạch Ngọc huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh 26 Khang Trạch Hầu thuỵ Mai Trai, không rõ huý,con thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu. Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân Đô Chỉ huy sứ ty Đô Chỉ huy sứ,sinh Vân Lộc Hầu và Ngô Phúc Đường (phả Cổ Bái ghi thất truyền,có thể đổi tên về ở Đỉnh Lự). 27 Vân Lộc Hầu không rõ huý, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân Cấm y vệ Đô Chỉ huy sứ ty Đô Chỉ huy sứ,sinh Tín Vũ Hầu,Vinh Thái Hầu . 28 Tín Vũ Hầu Chánh đội trưỏng, sinh ba con trai thành ba chi: 29 Ngô Phúc Hy chi Tự Cường, sinh Ngô Phúc Tân,Ngô Đức Phương, 29 Ngô Phúc Anh chi Cổ Bái, 29 Ngô Phúc Thiên chi Mỹ Đại nay chỉ còn vài gia đình. (Cả ba chi chưa có thế phả đầy đủ). 28 Ngô Phúc Khê Vinh Thái Hầu (thất truyền). 29 Ngô Phúc Hy` Con trưởng Tín Vũ Hầu,con cháu sang ở làng Tự Cường,nay thuộc huyện Can Lộc,sinh Ngô Phúc Tân,Ngô Đức Phương.
30 Ngô Phúc
Tân sinh 4 con trai,trưởng Ngô Đức
Bích. 32 Ngô Đức Thanh sinh 6 con, trưởng là Ngô Đức Tôn 33 Ngô Đức Tôn sinh 9 con, trưởng là Ngô Đức Cánh 34 Ngô Đức Cánh sinh 6 con, trưởng là Ngô Đức Dòng 34 Ngô Đức Dân sinh 9 con, trưởng là Ngô Đức Hợi 34 Ngô ĐứcĐại sinh 5 con, trưởng là Ngô Đức Hải 34 Ngô Đức Nam sinh 5 con, trưởng là Ngô Đức Nam Tiếp theo mỗi đời đều đông con cháu chưa ghi chép hết. Họ Đỉnh Lự Xã An Lộc huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh 27 Ngô Hữu Tôn Con thứ Khang Trạch Hầu,tướng triều Lê, bà Nguyễn Thị Nguyên sinh Ngô Đại,Ngô Hữu Thanh,Ngô Sơn và 4 người chết trẻ là Ngô Yến,Ngô Hiên,Ngô Nhân,Ngô Hường. 28 Ngô Hữu Thanh bà Nguyễn Thị Nghiêm,sinh Ngô Phú Tâm,Ngô Minh Chiếu (đều vô tự),Ngô Văn Năng. 29 Ngô Văn Năng bà Trần Thị Nhâm, sinh Ngô Việt Yên, Ngô Việt Nho, Ngô Thị Xã, Ngô Thâu, Ngô Quít. 30 Ngô Việt Yên bà Phan Thị Thiên ,sinh Ngô Nhân Chính, Ngô Nhân Nhiêm. Phái I 31 Ngô Nhân Chính bà Phạm Thị Chải, sinh Ngô Đình Thạc,Ngô Láng(vô tự). 32 Ngô Đình Thạc Chánh tổng, sinh Ngô Đình Anh, Ngô Đình Sơn. 33 Ngô Đình Anh sinh Ngô Thác và 2 người vô tự. 33 Ngô Đình Sơn Ưu binh 33 Ngô Tân 33 Ngô Mạn 34 Ngô Thác tức Sum, sinh Ngô Trân,Ngô Lai,Ngô Thị Di,Ngô Cương (vô tự). 34 Ngô Đáng Ngô Thị Mân Ngô Thị Nhạn Ngô Thị Mực Ngô Du Ngô Thị Tính Ngô Thị Phương Ngô Thị Lưu Ngô Huỳnh Ngô Thị Tạo Ngô Thị Toán Ngô Thị Phong Ngô Dự Ngô Thị Quý 35 Ngô Bộ bà Nguyễn Thị Thuộc, sinh Ngô Đảng, Ngô Thuộc, Ngô Quân, Ngô Thị Bương, Ngô Vỵ, Ngô Diện, Ngô Thị Truyền. 36 Ngô Đảng sinh Ngô Ngân , Ngô Đề, Ngô Nhiêu, Ngô Thị Bút. 36 Ngô Thuộc bà Phan Thị Trang và Nguyễn Thị Thân, sinh Ngô Giống, Ngô ThọLong, Ngô Thị Dung. 36 Ngô Quân bà Phan Thị Kỳ và Phan Thị Yên, sinh Ngô Thập,Ngô Thêu. 37 Ngô Ngân bà Nguyễn Thị Lũng, sinh Ngô Thiều, Ngô Thị Vân, Ngô Thị Vây, Ngô Vy, Ngô Quy. 37 Ngô Đề sinh Ngô Khanh, Ngô Thị Khuê. 37 Ngô Giống sinh Ngô Thị Quang. 37 Ngô Thập sinh Ngô Thị An, Ngô Thị Đức. 37 Ngô Thêu sinh Ngô Chương, Ngô Thị Úc. 38 Ngô Mạnh bà Phan Thị Hình, sinh Ngô Thuận. 38 Ngô Chương sinh Ngô Thị Xuân. 38 Ngô Thiều bà Nguyễn Thị Chấp sinh Ngô Tạo, Ngô Thị Điểm. 39 Ngô Thuận bà Bùi Thị Cáp, sinh Ngô Thị Mỹ,Ngô Đại . Phái II 31 Ngô Nhiệm làm quan triều Lê,bà Trần Thị Ngon, sinh Ngô Diên ( ở xã Đồng Đức huyện Đông Thành tỉnh Nghệ An), Ngô Cảnh, Ngô Thị Yêm, Ngô Bàng Ngô Hảo,Ngô Khánh. 32 Ngô Cảnh bà Phan Thị Thiều, sinh Ngô Đình Hy,Ngô Lữ,Ngô Mạc. 33 Ngô Lữ bà Lê Thị Thuỷ, sinh Ngô Dân, Ngô Thị Huân, Ngô Thiêm, Ngô Đình, Ngô Mạn. 34 Ngô Dân sinh Ngô Huyên,Ngô Hanh, Ngô Thị Thành, Ngô Đô, Ngô Đang. 35 Ngô Huyên sinh Ngô Cẩn,Ngô Uyn, Ngô Thị Tam,Ngô Ô,Ngô Sum, Ngô Thị Long, Ngô Thị Phúc. 35 Ngô Hanh sinh Ngô Thị Duôn. 36 Ngô Cẩn Suất đội,sinh Ngô Cần,Ngô Cáp , Ngô Thị Dóc, Ngô Thị Phách. 36 Ngô Uyn sinh Ngô Thị Dành, Ngô Thị Dừng, Ngô Thị Sừng, Ngô Sơi,Ngô Rương, Ngô Thọ,Ngô Bích, Ngô Thị Trinh. 36 Ngô Ô sinh Ngô Thị Sửu, Ngô Thị Đôi, Ngô Thị Long,Ngô Hàng, Ngô Đán. 36 Ngô Sum sinh Ngô Quyền, Ngô Thị Lương, Ngô Ngô Duyên,Ngô Thuận. 36 Ngô Tan sinh Ngô Thị Cúc, Ngô Thị Ký. 37 Ngô Cáp sinh Ngô Thị Tráng,Ngô Trử, Ngô Thị Sứ,Ngô Thứ,Ngô Ngụ, Ngô Tri. 37 Ngô Sơi sinh Ngô Suyền ở Nghĩa Đàn xã Nghĩa Tiến,Ngô Sư,Ngô Luật. 37 Ngo Rương sinh Ngô Đình Thịnh,Ngô Thiêng, Ngô Đình Khai, Ngô Thị Khay, Ngô Thị Vân. 37 Ngô Thọ sinh Ngô Thị Phú, Ngô Gia, Ngô Cường, Ngô Trường, Ngô Đức Thanh. 37 Ngô Bích sinh Ngô Thị Bốn, Ngô Thị Hà. 37 Ngô Hàng sinh Ngô Thị Huyên. 37 Ngô Đán sinh Ngô Hùng, Ngô Thị Nhơn,Ngô Nghỉ. 37 Ngô Quyền sinh Ngô Huống. 38 Ngô Tri sinh Ngô ĐứcTuấn, Ngô Thị Đỏ 38 Ngô Sư sinh Ngô Dương, Ngô Thị Văn, Ngô Châu,Long,Ngô Vy 38 Ngô Luật bà Nguyễn Thị Chính, sinh Ngô Đức Thanh (Ls), Ngô Đức Vương, Ngô Thị Lan, Ngô Giang 38 Ngô Thiêng sinh Ngô Đức Tư, Ngô Đức Vệ,Ngô Thơ, Ngô Thị Bình, Ngô Thị Huệ, Ngô Thị Tươm, Ngô Thị Thời, Ngô Thị Chắt 38 Ngô Đình Khai sinh Ngô Đức Ngân (Ls), Ngô Đức Bắc, Ngô Đức Tiến, Ngô Thị Hà, Ngô Thị Loan 38 Ngô Đức Thanh sinh Ngô Đức Anh, Ngô Đức Hiên, Ngô Đức Hạnh, Ngô Thị Nga, Ngô Thị Oanh, Ngô Thị Cúc 38 Ngô Huống sinh Ngô Đức Thuỳ, Ngô Đức Châu, Ngô Thị Thanh, Ngô Thị Úc, Ngô Thị Thập 39 Ngô Đức Tuấn sinh Ngô Đức Nam, Ngô Đức Tuân, Ngô Thị Hoa, Ngô Thị Lý 39 Ngô Đức Vương sinh Ngô Thức, Ngô Đức Hữu, Ngô Thị Ngọc , Ngô Thị Phương 39 Ngô Đức Tư sinh Ngô Thi, Ngô Dung, Ngô Thị Hiền 39 Ngô Đức Vệ sinh Ngô Thị Anh, Ngô Thị Thao 39 Ngô Đức Bắc sinh Ngô Đức Trung, Ngô Đức Hiếu 39 Ngô Đức Tiến sinh Ngô Đức Tới 39 Ngô Đức Anh sinh Ngô Đức Hùng, Ngô Đức Dũng, Ngô Thị Hương 39 Ngô Đức Hiên sinh Ngô Đức Hợp, Ngô Đức Hải 39 Ngô Đức Thuỳ sinh Ngô Thị Linh, Ngô Thị … 40 Ngô Đức Nam sinh Ngô Đức Hà, Ngô Thị Thâm 40 Ngô Đức Tuân sinh Ngô Đức Lý 40 Ngô Đức Anh 40 Ngô Đức Dũng sinh Ngô Đức Nghiên Họ Ngô- Thạch Mỹ huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh 26 Câu Kê Hầu không rõ huý,con thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu sinh Ngô Hữu Lộc. 27 Ngô Hữu Lộc sinh Ngô Đắc Vỹ. 28 Ngô Đắc Vỹ sinh Ngô Đắc Chương. 29 Ngô Đắc Chương sinh Ngô Đắc Hành. 30 Ngô Đắc Hành sinh Ngô Đắc Diêu, Ngô Đắc Xây. 31 Ngô Đắc Diêu Thần tổ, có đền thờ. 31 Ngô Đắc Xây sinh Ngô Đắc Châu, Ngô Đắc Tá . 32 Ngô Đắc Châu Đến nay là tám đời. 32 Ngô Đắc Tá Đến nay là bảy đời. Đầu thế kỷ 20, gặp năm đói kém, trong vùng có trên 50 gia đình đi tha phương cầu thực trong đó có gia đình ông Ngô Lợi đời thứ 34 đi qua vùng chợ Chế, vùng Đức Thọ, cuối cùng định cư làm ăn ở xóm Hưng Xá xã Phú Xá huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. 34 Ngô Lợi sinh Ngô Soạn, Ngô Mậu. 35 Ngô Soạn Cư trú thị trấn Đức Thọ huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. 35 Ngô Mậu (1904-1980) Năm 1938-1945 bị thực dân bắt giam ở nhà tù Ban Mê Thuột. Năm 1951 làm Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh Sau hòa bình làm Đại sứ ở Mông Cổ, Cu Ba . Bà họ Mạc , sinh Ngô Thị Hoài Lam (Ts), Ngô Thị Hồng Hạnh(ks),Ngô Đức Hùng, Ngô Phúc Cường (ks). 36 Ngô Đức Hùng sinh Ngô Thị Liên, Ngô Hồng Hải. Họ Hà Linh, huyện Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh 26 Ngô Đăng Khản Có tên là Ngô Phúc Ngôn,con thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hữu,lánh nạn đến đất Hà Linh dạy học, Sinh: Ngô Đăng Thiên, Ngô Đăng Minh, Ngô Đăng Bính. 27 Ngô Đăng Minh Thái giám, Án Trung Hầu.Danh nhân lịch sử thế kỉ 16. Năm Chính Hòa thứ 4 (1685)có công đi đánh Bồn Man , phong Án Trung Hầu,sau khi chết dân làng Hà Linh lập đền thờ,triều Nguyễn sắc phong Trung đẳng Tôn thần, ngôi đền nay tại xã Hà Linh huyện Hương Khê đã được xếp hạng Di tích lịch sử Văn hoá. 27 Ngô Đăng Bính Thiên cư nay thành Thủy Tổ họ Loan Dã (chợ Gia cùng huyện ). 27 Ngô Đăng Thiên Bà Hà Thị Hải sinh: Ngô Đăng Đạt nay là chi trưởng ở Hà Linh, Ngô Đăng Triều nay là chi ở chợ Nướt, Ngô Đăng Thư nay là chi Hà Linh II, Ngô Đăng Đài nay là chi Hà Linh III. Cả họ ở phân tán nhiều nơi,chưa lập xong thế thứ,cư trú ở Trúc Lâm Hà Linh có 693 người gồm 383 nam và 310 nữ, có 6 Liệt sỹ. Cư trú ở Ba Đồn huyện Quảng Trạch 53 người gồm 23 nam,30 nữ. Cư trú vùng Đá Nện thượng lưu sông Gianh huyện Tuyên Hóa 76 người gồm 43 nam,33 nữ. Ngoài ra một số con cháu ở xã Hùng Trạch ,Sơn Trạch huyện Bố Trạch chưa rõ bao nhiêu. Năm 1930-1931 có Ngô Lập, Ngô Thanh tham gia Cách mạng bị tù đày. Liệt sỹ qua hai cuộc kháng chiến : Ngô Đăng Thanh,Ngô Đăng Tài,Ngô Đăng Thiều,Ngô Đăng Thuận,Ngô Đăng Hà,Ngô Đăng Thứ là con cháu ở Hà Linh; Ngô Văn Mơ,Ngô Văn Thinh là con cháu ở huyện Quảng Trạch; Ngô Đăng Lâm,Ngô Đăng Hạp và một người chưa rõ tên liệt sỹ ở ATK Hương Khê. Họ Trần Vỵ Xuyên huyện Mỹ Lộc thành phố Nam Định 26 Ngô Thuận Tâm Con trai thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu,quê quán Cổ Bái, sinh con trai Ngô Tất Thắng ra thừa tự ở hai ấp Vỵ Xuyên và Cầu Gia, nguyên của Quỳnh Hoa và Quế Hoa hai Công chúa và hai Mãnh tổ Ngô Chí Hoà,Ngô Chí Trung. Mộ hai ông bà song táng ở đất Mộc tường cũ,nay thuộc xã Thạch Ngọc,ở giữa Cổ Bái và Tự Cường,mộ hiện vẫn còn . 27 Ngô Tất Thắng Tri huyện Lập Thạch, ông ra thừa tự hai vị Mãnh tổ Ngô Chí Hoà, Ngô Chí Trung và hai bà cô Quỳnh Hoa Công chúa, Quế Hoa Công chúa, có hai ấp phong ở Vị Xuyên và Cầu Gia thuộc huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định, sinh Ngô Tất Thông. 28 Ngô Tất Thông Viên ngoại lang, sinh Tất Đạt 29 Ngô Tất Đạt hiệu Hoạt giám Tiên sinh, sinh Tất Đoan 30 Ngô Tất Đoan Quang hiếu điện tự thừa tiến cống Thị lang, sinh Trần Huy. Phả cũ chú thích:”…Trong họ ta có ông Cống Sở, Vua sai ra dụ Tây Sơn. Ông không dụ Tây Sơn, mà lại theo vua này, con cháu sợ liên luỵ, nên cải làm họ Trần “.Như vậy có thể đổi họ khi Gia Long lên làm vua cả nước. 31 Trần Xuân Huy hiệu Diện Đạo Tiên ,sinh Xuân Dương, Xuân Sảng 32 Trần Xuân Sảng sinh Trần Xuân Hinh 33 Trần Xuân Hinh sinh Trần Xuân Hương 34 Trần Xuân Hương sinh Trần Xuân Quý 35 Trần Xuân Quý sinh Trần Xuân Lộc 36 Trần Xuân Lộc (mất 1958), sinh Trần Xuân Phong 37 Trần Xuân Phong (ks) sinh một trai một gái Ngô Tất Đoan có em trai không rõ tên, con cháu cũng đều đổi họ Trần, là chi 2 ông Xá Triện đời thứ 36. Họ Tam Đa, xã Quang Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh 27 Vỵ Quận Công (không rõ tên), con thứ Tứ Quận công Ngô Phúc Tịnh và bà Lê Thị Đệ .Bà là Quận chúa họ Trịnh. Sinh hai con trai: Ngô Phúc Diên -Diên Quận công,Thủy Tổ họ Tam Đa nay ở xã Quang Lộc huyện Can Lộc , Đề đốc Lý Quận công (thất truyền). Dòng Diên Quận công phân chi họ An Lộc và họ Yên Lai. 28 Ngô Phúc Diên Diên Quận công,bà là Quận chúa họ Trịnh,sinh Ngô Phúc Cẩm, Ngô Phúc Thuận, Ngô Phúc…. 29 Ngô Phúc Cẩm Thuận Lộc Hầu,Cấm y vệ Đô Chỉ huy sứ ty Đô Chỉ huy sứ,sinh Ngô Phúc Lới,Ngô Phúc Tông. 29 Ngô Phúc Thuận Phó trung uý Chân Lộc Hầu,bà Nguyễn Thị Hành (phả cũ không ghi con cháu). 29 Ngô Phúc… Chánh Đội trưởng Tại bá Hầu,bà Nguyễn Thị Sinh (không rõ con cháu). 30 Ngô Phúc Lới Tương truyền bà Nguyễn Thị Chắt. 30 Ngô Phúc Tông bà Nguyễn Thị Hùng, sinh 8 trai 3 gái: Ngô Phúc Bẩm ,chi trưởng; Ngô Phúc Trọng bà Nguyễn Thị Du (thất truyền); Ngô Phúc Chúc bà Nguyễn Thị Hiếu (thất truyền); Ngô Phúc Lạng Chi thứ hiện nay; Ngô Phúc Uy bà Nguyễn Thị Vương (thất truyền); Ngô Phúc Hạo bà Nguyễn Thị Thuý (thất truyền); Ngô Phúc Tài (mất sớm); Ngô Khải (có truyền thuyết là thương gia ở Thăng Long ,có thể là nhầm,Ngô Khải phải là con Ngô Bẩm) Ngô Thị … Ngô Thị ….Ngô Thị ….. Trên đây là ghi chép theo phả họ Tam Đa . Ngô Khải là con Ngô Tông, em Ngô Bẩm,phả họ An Lộc lại ghi Ngô Khải là Thủy Tổ con Ngô Bẩm đời thứ 32. Nghiên cứu các bản phả các chi họ Tam Đa,An Lộc,Yên Lai,đối chiếu với bối cảnh lich sử biến thiên đương Thời( Lê mạt,Tây Sơn,Nguyễn Gia Long thay nhau làm chủ Bắc Hà), những người có tên ghi trong phả đều làm tướng giúp Lê Trịnh ,sa cơ theo Vua Lê chúa Trịnh.Khi đương làm quan làm tướng nói chung gia đình đều thường trú ở Thăng Long,Đan Liên sau là Trảo Nha chỉ là quê hương .Sau khi thất thủ Thăng Long,thay thấy đổi chủ, ngưòi thì tử trận,người thì đi đâu không biết nên thất truyền,những người quay về nguyên quán,mới bắt đầu tìm đất định cư để sinh sống,phát triển thành nhiều dòng họ ở mọi nơi lâu ngày không đi lại với nhau thành ra mất liên lạc, như Tam Đa,Yên Lai,An Lộc v. v…Vì những Nguyên Nhân trên cho nên phả mỗi nơi ghi chép tuy có chổ giống nhau mà nhiều chi tiết lại khác nhau. 31 Ngô Phúc Bẩm Bà Thân Thị Tùng, sinh Ngô Phúc Tuân,Ngô Khải (họ An Lộc) (Họ Thân ở vùng Văn Cử Tam Đa nay là xã Xuân Lộc và Quang Lộc,nguyên là họ Giáp,triều Nguyễn kỵ huý bắt đổi họ , các cụ trong họ bèn sửa chữ Giáp thành chữ Thân ( Viết cái sổ chữ Giáp thò đầu lên trên). 32 Ngô Phúc Tuân Bà Thân Thị Khuyên, sinh Ngô Phúc Huyên, Ngô Phúc Đông (vô tự), Ngô Phúc Phổ. 33 Ngô Phúc Huyên Ưu binh,bà Nguyễn Thị Đường, sinh Ngô Phúc Chân. 34 Ngô Phúc Chân bà Nguyễn Thị Hương, sinh Ngô Đức Khôi, Ngô Đức Thương(phạp), Ngô Đức Cương. 35 Ngô Đức Khôi bà Nguyễn Thị Cang ,sinh Ngô Đức Hoạch, Ngô Đức Phúc và 5 gái. 36 Ngô Đức Hoạch bà Nguyễn Thị Hoà, sinh Ngô Đức Nguyên, Ngô Đức Tâm,Ngô Đức Lợi, Ngô Ngụ, Ngô Thị Dưụ. 37 Ngô Đức Nguyên bà Nguyễn Thị Tý, sinh Ngô Đức Hòa, Ngô Đức Binh, ơNgô Đức Bào, Ngô Thị Tý, Ngô Thị Thuý. 38 Ngô Đức Hoà bà Nguyễn Thị Ngự, sinh Ngô Lưu, Ngô Tập, Ngô Tuyên, Ngô Chỉ, Ngô Thị Hàng. 38 Ngô Đức Bình bà Đặng Thị Mùi, sinh Ngô Tùng, Ngô Toại, Ngô Tư, Ngô Truyện. 38 Ngô Đức Bào bà Trần Thị Oanh, sinh Ngô Thị Thảo, Ngô Thị Hân, Ngô Đức Biên. 37 Ngô Đức Tâm bà Trần Thị Lý, sinh Ngô Đức Song,Ngô Đức Oánh, Ngô Phương, Ngô Thêm, Ngô Quy, Ngô Thị Thuyết, Ngô Thị Mai. 38 Ngô Đức Song bà Phan Thị Oanh sinh Ngô Trà,T Ngô hị Nhung, Ngô Phương. 38 Ngô Đức Oánh sinh Ngô Đức Cao, Ngô Đức Đắc 37 Ngô Đức Lợi sinh Ngô Đức Lam, Ngô Tiên, Ngô Thị Thuỷ, Ngô Hoa, Ngô Thi 38 Ngô Đức Lam sinh Ngô Đức Thao 36 Ngô Đức Phúc con Ngô Đức Khôi 36 Ngô Đức Nhu con Ngô Đức Cương 36 Ngô Đức Mỳ con Ngô Đức Cương nt 36 Ngô Đức Minh con Ngô Đức Khoát 36 Ngô Đức Nam ( Liệt sỹ) 37 Ngô Đức Nghị con Ngô Đức Phú 37 Ngô Đức Huyền con Ngô Đức Phú 37 Ngô Đức Phấn con Ngô Đức Nhu 37 Ngô Đức Thành con Ngô Đức Mỳ 37 Ngô Đức Tường (ls), con Ngô Đức Mỹ 37 Ngô Đức Hợp con Ngô Đức Minh 37 Ngô Đức Hồng con Ngô Đức Minh 38 Ngô Đức Thảo con Ngô Đức Nghị 38 Ngô Đức Hùng con Ngô Đức Phấn 38 Ngô Đức Dũng con Ngô Đức Phấn 38 Ngô Đức Huệ con Ngô Đức Phấn 31 Ngô Phúc Lạng con Ngô Phúc Tổng,bà Thân Thị Trường sinh Ngô Phúc Mạo. 32 Ngô Phúc Mạo sinh Ngô Phúc Nhân, Ngô Phúc Thực, Ngô Phúc Lan, Ngô Phúc Thuỵ. 33 Ngô Phúc Nhân sinh Ngô Phúc Khoá, Ngô Phúc Khanh 34 Ngô Phúc Khoá sinh Ngô Phúc Huệ, Ngô Phúc Lan, Ngô Thị Huê 35 Ngô Phúc Huệ sinh Ngô Phúc Cục và 1 gái 36 Ngô Phúc Cục sinh 5 trai 1 gái,con trai đầu vô tự. 35 Ngô Phúc Lan sinh 3 trai 1 gái 36 Ngô Phúc Thắng con Ngô Phúc Lan, sinh Ngô Tạo 37 Ngô Tạo sinh Ngô Đức Viện, Ngô Đức Mười, Ngô Thị Kiếm, Ngô Thị Khiên, Ngô Tiên, Ngô Thuỵ 38 Ngô Đức Viện sinh Ngô Đức Nuôi , Ngô Thị Cảnh 39 Ngô Đức Nuôi sinh Ngô Đức Anh, Ngô Đức An. 38 Ngô Đức Mười sinh Ngô Quyền, Ngô Nghĩa, Ngô Loan, Ngô Thị Dần, Ngô Mậu, Ngô Hân, Ngô Liên. 35 Ngô Đức Giới sinh Ngô Đức Dòng và 1 gái 36 Ngô Đức Dòng sinh Ngô Đức Cội và 6 gái 37 Ngô Đức Cội sinh Ngô Đức Thụ, Ngô Đức Mai, Ngô Đức Kỳ, Ngô Thị Khương, Ngô Quý, Ngô Sửu , Ngô Thược. 38 Ngô Đức Thụ sinh Ngô Tập, Ngô Thị Châu, Ngô Hồng, Ngô Lộc, Ngô Nhung 38 Ngô Đức Mai sinh Ngô Cân, Ngô Cừ, Ngô Đức , Ngô Hanh, Ngô Thị Nhâm, Ngô Phúc 38 Ngô Đức Kỳ sinh Ngô Sơn, Ngô Trường 37 Ngô Đức Tam con ông Cục,sinh Ngô Đức Soàn, Ngô Đức Soạn, Ngô Đức Phiên, Ngô Đức Tựu, Ngô Đức Hựu,Ngô Thị Phúc,Ngô Thị Tịnh 38 Ngô Đức Soàn sinh Bích,Tý và 3 gái 38 Ngô Đức Soạn sinh Ngô Đức Quát, Ngô Đức Nông, Ngô Thị Hương, Ngô Hoa, Ngô Thiều, Ngô Huyền 39 Ngô Đức Quát sinh Ngô Đức Cương 39 Ngô Đức Nông sinh Ngô Đức Trung 38 Ngô Đức Trung sinh Ngô Cường , Ngô Quốc, Ngô Thị Hồng, Ngô Hà, Ngô Ngọc, Ngô Vĩnh 38 Ngô Đức Tựu sinh Ngô Khanh, Ngô Thị Bình 38 Ngô Đức Hựu (Ls),sinh Ngô Cần, Ngô Thị Kiệm 34 Ngô Phúc Khanh sinh Ngô Phúc Trực, Ngô Phúc Tịnh,Ngô Phúc Minh, Ngô Phúc Luân 35 Ngô Phúc Luân sinh Ngô Đức Phi, Ngô Đức Tài, Ngô Hoàn, Ngô Hai, Ngô Ba, Ngô Yên 36 Ngô Đức Phi sinh Ngô Đức Phiên, Ngô Đức Ninh, Ngô Đức Yên, Ngô Danh Được 37 Ngô Đức Phiên sinh Ngô Đức Khoan (Ls), Ngô Thị Chất 37 Ngô Đức Yên sinh Ngô Đức Nhâm 37 Ngô Danh Được (con riêng bà Chọc) sinh Ngô Y, Ngô Cương, Ngô Thuần, Ngô Cửu, Ngô Thập, Ngô Thị Tam, Ngô Thị Tứ. 37 Ngô Đức Ninh sinh Ngô Thị Nguyện. 33 Ngô Phúc Thực sinh Ngô Phúc Thìn. 34 Ngô Phúc Thìn sinh Ngô Phúc Huân, Ngô Đức Đinh, Ngô Đức Thứ. 35 Ngô Phúc Huân sinh Ngô Thị Đảng, Ngô Đức Đồ, Ngô Đức Chị , Ngô Đức Chu. 36 Ngô Đức Chu sinh Ngô Đức Trịnh, Ngô Đức Thịnh. 37 Ngô Đức Trịnh sinh Ngô Đức Kinh. 38 Ngô Đức Kinh sinh Ngô Đức Trạch, Ngô Đức Hải, Ngô Thị Chất, Ngô Đức Đông, Ngô Đức Đoài. 37 Ngô Đức Thịnh sinh Ngô Đức Soạn, Ngô Đức Sở, Ngô Đức Dương, Ngô Đức Luân, Ngô Thị Hệ. 38 Ngô Đức Sở sinh Ngô Đức Long, Ngô Đức Sơn, Ngô Đức Hải, Ngô Thị Luyến, Ngô Đức Duyên, Ngô Đức Phương 38 Ngô Đức Dương (Ls),sinh Ngô Đức Dám 38 Ngô Đức Luân sinh Ngô Thị Thanh, Ngô Đức Hà 35 Ngô Đức Đinh sinh Ngô Đức Thống, Ngô Đức Liên, Ngô Đức Kềm 36 Ngô Đức Thống sinh Ngô Đức Lương, Ngô Đức Gia, Ngô Thị Tùng 37 Ngô Đức Lương sinh Ngô Đức Yêm, Ngô Đức Thiêm, Ngô Đức Tuấn 38 Ngô Đức Yêm sinh Ngô Đức Chương, Ngô Đức Phương, Ngô Thị Biên, Ngô Lương, Ngô Loan 38 Ngô Đức Thiêm sinh Ngô Đức Luật, Ngô Đức Nhật, Ngô Vinh Quang và hai gái 38 Ngô Đức Tuấn sinh Ngô Khanh, Ngô Linh 36 Ngô Đức Liên sinh Ngô Đức Sen 37 Ngô Đức Sen sinh Ngô Đức Thuý và hai gái 38 Ngô Đức Thuý sinh Ngô Đức Chiến 36 Ngô Đức Kềm sinh Ngô Đức Bằng, Ngô Bạn, Ngô Thị Hựu 37 Ngô Đức Bằng sinh Ngô Đức Khai (Ls) 35 Ngô Đức Thứ sinh Ngô Thị Ngu, Ngô Thị Tu, Ngô Thị Tân 33 Ngô Phúc Thuỵ sinh Ngô Phúc Gia, Ngô Phúc Dương 34 Ngô Phúc Gia sinh Ngô Phúc Sở 34 Ngô Phúc Dương nuôi con nuôi Ngô Phúc Diêu 35 Ngô Phúc Diêu sinh Ngô Đức Bối 36 Ngô Đức Bối không con, nuôi con nuôi Ngô Đức Phụ 37 Ngô Đức Phụ bà Nguyễn Thị Thương, sinh Ngô Đức Liệu, Ngô Đức Sỹ, Ngô Thị Diêu, Ngô Thị Sâm. Chi họ Ngô An Lộc ( xưa là làng Lộc Nguyền ),huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh 32 Ngô Khải con thứ Ngô Phúc Bẩm thiên cư về An Lộc cùng huyện , Hai bà Nguyễn Thị Bốn, Nguyễn Thị Phi. 32 Ngô Rựa em Ngô Khải, bà Nguyễn Thị Hoà. 33 Có các ông sau đây, phả cũ không phân biệt người nào con ông nào: Ngô Huyền bà Nguyễn Thị Tôn Ngô Thân bà Nguyễn Thị Nụ Ngô Khê bà Nguyễn Thị Bài Ngô Nhân bà Nguyễn Thị Hinh Ngô Yến bà Phạm Thị Mơn Ngô Đình bà Từ Thị Nắng 34 Ngô Tiên bà Hoàng Thị Thế Ngô Lâm bà Nguyễn Thị Bạch, Nguyễn Thị Thái Ngô Tiềm Thần sách quân Tiền dinh, Phấn vũ vệ Chánh Đội trưởng( thất truyền).Thần sách quân là tên hiệu 1 đội quân ở tỉnh Nghệ An, dưới triều Nguyễn Minh Mạng). 35 Ngô Ba Ngô Liêu Ngô Tài Ngô Thiền Ngô Giáp Ngô Bính Ngô Xoạn Ngô Lan Ngô Tiểu Ngô Trực (Cả mấy người đời 35 trên đều thất truyền). 36 Ngô Huy bà Nguyễn Thị Lan Ngô Ngật bà Phan Thị Khiết Ngô Phi bà Đặng Thị Mộc Ngô Thông bà Nguyễn Thị Hải Ngô Hớn Thập lý Hầu (thất truyền) Ngô Hoà Bà Nguyễn Thị Tới Ngô Xe bà Nguyễn Thị Nê Ngô Lạch bà Nguyễn Thị Hải Ngô Anh bà Nguyễn Thị Việt. 37 Ngô Chúc bà Trần Thị Xoan Ngô Sừng con Ngô Hộ Ngô Trúc nt Ngô Trạch nt Ngô Rộng nt 38 Ngô Hoán 38 Ngô Hoàn bà Nguyễn Thị Tiêu 39 Ngô Bản bà Nguyễn Thị Bé 40 Ngô Quy bà Nguyễn Thị Hiền, sinh Thị Long,Ngô Ánh Ngô Thuỷ bà Hồ Thị Xinh, sinh Thị Lưu,Thị Ý,Ngô Thắng,Thúc,Tỉnh Ngô Dương bà Trần Thị An ,sinh Tuấn,Tái,Khương, Thị Lan,Thị Phương 39 Ngô Viêng bà Nguyễn Thị Bình, sinh Đức Vọng,Thị Quy, Kiên,Tờ,Tâm 40 Ngô Đức Vọng bà Nguyễn Thị Huệ, sinh Văn,Vũ,Thị Tuyết 38 Ngô Hoạch bà Nguyễn Thị Am, sinh Trương,Toàn 39 Ngô Trương bà Nguyễn Thị Tương, sinh Ngô Thanh,Thị Huệ 40 Ngô Thanh bà Nguyễn Thị Hằng ,sinh Ngô Hoàng 39 Ngô Toàn bà Nguyễn Thị Bài sinh Sách,Luân,Nhương,Giới,Thuỷ, Thị Luân,Tảo,Thanh 40 Ngô Sách bà Nguyễn Thị Xương, sinh Ngô Thuận,Thị Tuyệt,Tuyết, Loan Ngô Luân bà Nguyễn Thị Hương, sinh Thị Nguyệt,Ngô Lý,Ngô Lương Ngô Nhương bà Nguyễn Thị Hà, sinh Ngô Tuấn,Ngô Duyên,Thị Phương Ngô Giới bà Nguyễn Thị Thân, sinh Tình,Nam,Thị Bắc Ngô Thuỷ bà Trần Thị Xuân 37 Ngô Rộng bà Tạ Thị Oanh, sinh Tròn,Tương,Tài,Vịnh,Thị Huấn 38 Ngô Tròn bà Đặng Thị Nhị, sinh Xơng,Cương,Luyện,Thị Tính,Biêng 39 Ngô Xơng bà Nguyễn Thị Quy, sinh Tăng,Thị Xứng,Lý 40 Ngô Tăng bà Nguyễn Thị Thanh, sinh Nam,Hải,Thị Lân 39 Ngô Cương bà Nguyễn Thị Sanh, sinh Cảnh,Quân 39 Ngô Luyện bà Trần Thị Hạ, sinh Lân,Lập,Thị Tuyên, Thanh 39 Ngô Biêng sinh Ngượng ,Thương,Thị Trông, Thấy 40 Ngô Ngượng bà Nguyễn Thị Tăng sinh Hà,nội,Thị Nguyệt,Thanh 40 Ngô Thương bà Nguyễn Thị Tiêm,Vũ Thị Tư,sinh Ngô Nhật và 3 gái. Phái III 33 Ngô Ánh bà Trần Thị Nghiêm, sinh Ngô Duyệt 34 Ngô Duyệt bà Lê Thị Duy, sinh Ngô Đức 35 Ngô Đức sinh Ngô Yên 36 Ngô Yên bà Phan Thị Dinh, sinh Ngô Xân 37 Ngô Xân bà Phan Thị Tá, sinh Phùng,Rậm 38 Ngô Phùng bà Phan Thị Nhiên, sinh Nghinh, Đinh,Thị Khá 39 Ngô Đinh bà Nguyễn Thị Văng,sinh Ngô Vĩnh,Thị Hưng 40 Ngô Vĩnh bà Trần Thị Thanh và Phan Thị Biêng sinh Minh,Công,Quang 39 Ngô Nghinh bà Trần Thị Phiên sinh Thị Trung,Văn Phác. Phái IV 33 Ngô Nhã sinh Ngô Rừng 34 Ngô Rừng bà Nguyễn Thị Ngật, sinh Ngô Reo 35 Ngô Reo bà Nguyễn Thị Liêm, sinh Ngô Tích 36 Ngô Tích bà Nguyễn Thị Được, sinh Thân,Thuý,Luyện 37 Ngô Thân bà Thị Nô,Thị Thực sinh Ngô Tộ 37 Ngô Thuý ba bà sinh Ngô Hoát,Ngô Khuân,Thị Nhơ 38 Ngô Tộ bà Nguyễn Thị Thiu, sinh Ngô Tiêu 39 Ngô Tiêu bà Nguyễn Thị Soa, sinh Thị Khương,Thị Nhưng,Ngô Tương, Ngô Thắng,Ngô Minh 38 Ngô Hoát sinh Nguỵ,Tuyn, Huyn,Ngưu 39 Ngô Nguỵ bà Lưu Thị Thoan, sinh Ngô Trọn,Thị Ngoéc,Thiu,Phiên 40 Ngô Trọn bà Nguyễn Thị Vinh, sinh Ngô Thái,Thị Vinh 41 Ngô Thái bà Nguyễn Thị Nhuỵ, sinh Thuận,Luân,Thị Xoan 42 Ngô Thuận bà Nguyễn Thị Tăng, sinh Ngô Duẫn. Page 2
|