Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

Hãy trình bày âm mưu và hành động của thực dân Pháp trong cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc của ta.

Đề bài

Hãy trình bày âm mưu và hành động của thực dân Pháp trong cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc của ta.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Dựa vào sgk Lịch sử 9 trang 106 để trả lời.

Lời giải chi tiết

* Âm mưu:

- Tiêu diệt cơ quan đầu não và bộ đội chủ lực của ta.

- Khóa chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế.

- Thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

* Hành động:

- Tháng 3-1947, Chính phủ Pháp cử Bô-la-e làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương thay Đác-giăng-li-ơ.

- Bô-la-e lập ra Mặt trận quốc gia thống nhất, tiến tới thành lập một Chính phủ bù nhìn trung ương.

- Từ ngày 7-10-1947, Pháp huy động 12.000 quân tinh nhuệ gồm thuỷ quân, lục quân và không quân, chia làm 3 cánh tấn công lên Việt Bắc.

- Ngày 7 - 10 - 1947, một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Kạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn.

- Cùng ngày, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Kạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.

- Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị, bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.

Loigiaihay.com

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Dựa vào lược đồ (Hình 45), trình bày diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 108 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Hãy cho biết âm mưu của thực dân Pháp ở Đông Dương sau thất bại trong cuộc tiến công Việt Bắc thu - đông 1947

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 109 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của ta được đẩy mạnh như thế nào sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 109 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Tại sao cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng nổ ngày 19 - 12 - 1946?

    Giải bài tập Bài 1 trang 109 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Đảng được cụ thể hoá ra sao?

    Giải bài tập Bài 2 trang 109 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và "Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 142 SGK Lịch sử 9

  • Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

    Tại sao Nhật phải đảo chính Pháp?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 89 SGK Lịch sử 9

Mục lục

  • 1 Bối cảnh
    • 1.1 Lực lượng hai bên
  • 2 Diễn biến
    • 2.1 Giai đoạn 1
    • 2.2 Giai đoạn 2
  • 3 Kết quả
  • 4 Chú thích
  • 5 Tham khảo

Bối cảnhSửa đổi

Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động và tầm quan sát, khả năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành tác chiến lớn phải theo mùa... nên ngay từ tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Phạm Văn Đồng và Nguyễn Lương Bằng ở lại Tân Trào một thời gian, trực tiếp chỉ đạo củng cố khu căn cứ của Trung ương.

Đến cuối tháng 10 năm 1946 (trước ngày Toàn quốc kháng chiến), thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn), Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên), được chọn làm An toàn khu (ATK). Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực lượng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.

Đầu năm 1947, sau khi giải pháp chính trị lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực dân Pháp đã quyết định dùng quân sự để giải quyết vấn đề Chiến tranh Đông Dương. Tướng Salan được chính phủ Pháp cử sang Bắc kỳ thay thế đại tá Dèbes trong chức vụ Chỉ huy quân lực Pháp ở Bắc Đông Dương. Tướng Valluy vẫn giữ chức Chỉ huy tối cao quân đội viễn chinh thay thế Leclerc từ hồi tháng 6 năm 1946.

Tướng Jean-Etienne Valluy (Valuy) – Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho tướng Raoul Salan (Xalăng) – Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương gấp rút chuẩn bị "Kế hoạch tấn công Việt Bắc". Valluy và Salan nghiên cứu một cuộc hành quân đại quy mô vào vùng Việt Bắc mục đích phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt minh, lùng bắt chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm soát vùng biên giới Hoa - Việt.

Sau khi chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ và các đô thị lớn tại miền Bắc, theo chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tấn công mới lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh đang đóng tại đây, hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương.

Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước[5]:

  • Bước 1: Mang mật danh Léa (Lê-a), mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc Kạn – Chợ Đồn – Chợ Mới.
  • Bước 2: Mang mật danh Ceinture (Xanh-tuy), tức là "Siết chặt vành đai", quân Pháp sẽ tập trung lực lượng càn quét khu tam giác: Bắc Cạn - Chợ Chu – Chợ Mới, lấy vùng Chợ Chu làm mục tiêu trọng điểm."

Cuộc hành quân mệnh danh là LÉA, lấy tên một ngọn đèo cao 1362 mét trên đường thuộc địa số 3 giữa Bắc Kạn và Cao Bằng. Mục tiêu của Pháp là: "Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt–Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ…"[6]

Lực lượng hai bênSửa đổi

Lực lượng Pháp tham gia tiến công trên 15.000 quân, gồm:

  • Năm trung đoàn bộ binh: Trung đoàn Maroc số 6 (6eRTM), Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa Maroc (RICM), Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa số 4 (4e - RIC), Trung đoàn Bộ binh Lê dương số 3 (3e REI) và một trung đoàn do Coste (Cô-xtơ) chỉ huy.
  • Ba tiểu đoàn dù, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đoàn công binh, ba đại đội cơ giới
  • Hai phi đội với 40 máy bay, ba thủy đội xung kích với 40 tàu, xuồng.

Về phía Việt Minh, lực lượng quân đội trên toàn quốc có 105.990 người (Bắc Bộ có 45.802 người); biên chế thành 20 trung đoàn, có hai trung đoàn 147 và 165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị của các đơn vị đều thiếu thốn và không thống nhất, có gì dùng nấy. Một tiểu đoàn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của Pháp, với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, 8 trung liên, 140 đến 160 súng trường các loại (Nhật, Liên Xô, Pháp, v.v.); hơn một nửa quân số phải dùng các vũ khí thô sơ như súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên. Chỉ có một số tiểu đoàn của Bộ là có pháo 20 mm, trọng liên 13,2 mm, 12,7 mm và súng cối 81 mm. Vũ khí chống tăng thì rất thô sơ (chỉ có duy nhất 2 loại là lựu đạn và bom ba càng), xe cơ giới và máy bay thì không hề có.

Bộ đội và cán bộ chỉ huy các cấp chưa được huấn luyện thành thục về kỹ thuật, chiến thuật. Trình độ và khả năng chiến đấu giữa các đơn vị không đồng đều. Trừ Trung đoàn Thủ đô và Trung đoàn Lạng Sơn đã được thử thách qua chiến đấu, phần lớn các đơn vị còn lại chưa hề qua chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, tình hình trang bị không cho phép tiến hành những trận đánh lớn. Các binh chủng pháo binh, công binh chưa được tổ chức thành đơn vị. Phương tiện thông tin liên lạc và vận tải thiếu nhiều, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Chỉ có Bộ, Khu và trung đoàn là có vô tuyến điện, từ tiểu đoàn trở xuống liên lạc bằng chạy chân và tín hiệu thủ công. Cung cấp, tiếp tế hậu cần rất khó khăn, chủ yếu dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương. Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương.

Riêng trên địa bàn chiến dịch, Việt Minh có 7 trung đoàn bộ binh, tổng cộng 18 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có hai tiểu đoàn của Bộ), 30 đại đội độc lập, 4.228 dân quân du kích tập trung; ngoài ra còn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng trên toàn Quân khu Việt Bắc. Pháo binh chỉ có tất cả là bốn khẩu (ba khẩu sơn pháo 75mm, một khẩu 70mm). Vũ khí phòng không có hai pháo 20 mm, hai khẩu 13,2 mm và sáu khẩu 12,7 mm.

Chiến dịch do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Sở chỉ huy cơ bản ở Yên Thông; đến chiều 20 tháng 10 năm 1947, chuyển sang Tràng Xá (Thái Nguyên). Giai đoạn 2 chuyển về vùng Lục Rã, Quảng Nạp.[7]

Diễn biếnSửa đổi

Giai đoạn 1Sửa đổi

Pháp huy động 12.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương. Chiến dịch này bắt đầu ngày 7 tháng 10 năm 1947 với đạo quân gồm 800 lính đổ bộ xuống Bắc Kạn dưới quyền chỉ huy của đại tá Henri Sauvagnac, chiếm đóng các công sở, nhà thương, kho bạc, nhà máy đèn...

Valluy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là "Thủ đô mới" của Việt Minh. Valluy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, không khi nào có cơ quan trung ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu một bộ phận bị phá thì vẫn có những bộ phận khác thay thế.

Khi quân Pháp nhảy dù tập kích, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một bộ phận của tiểu đoàn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một tiểu đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và một số cơ quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng in tiền và công binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của Công Ty Ngân khố, nhưng còn quá xa so với mục tiêu "phá huỷ tiềm năng chiến tranh của Việt Minh" mà Pháp đề ra.

Raoul Salan coi cuộc hành binh Léa ngày 7 tháng 10 năm 1947 là một đòn quyết định "đánh thẳng vào tim kẻ thù". Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sauvagnac từ mặt đất báo cáo qua vô tuyến điện: "Ông Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh". Salan vội bay về Hà Nội báo tin mừng với Sài Gòn. Cao uỷ Bollaert và quyền Tổng chỉ huy Battet bay ngay ra Hà Nội. Nhưng ít giờ sau, Salan đã biết mình lầm, đành phải xin lỗi. Hai quan chức trên quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salan nặng nề... Thực chất hôm ấy, lính dù bắt được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên tưởng lầm. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn chết cụ Tố khi cụ tìm cách chạy trốn.

Ngày 8 tháng 10 năm 1947, 200 lính dù Pháp khác đổ bộ xuống chiếm Chợ Đồn. Cùng lúc các lực lượng khác theo hai đường thủy-bộ. Đạo thủy quân dưới quyền chỉ huy của Trung tá Pierre Communal theo đường thủy ngược sông Đà, sông Gầm tiến chiếm Phủ Đoan ngày 12, chiếm Tuyên Quang ngày 13 và Chiêm Hoá ngày 17 tháng 10. Đạo bộ binh khoảng 8.000 quân do Đại tá André Beaufre chỉ huy, tiến từ Lạng Sơn dọc theo đường thuộc địa số 4 tiến qua Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê tới Cao Bằng ngày 12 tháng 10, rồi từ Cao Bằng dọc theo quốc lộ 3 xuống Bắc Kạn để bao vây Chiến khu Việt Bắc từ hướng Đông.

Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích Việt Minh liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí: Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo vệ 15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ - Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144 - Bộ Quốc phòng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan trung ương khẩn trương sơ tán đến nơi an toàn.

Ngày 9 tháng 10, khẩu đội 12,7 mm của Đại đội 675, Trung đoàn 74 bố trí ở đồi Thiên Văn, thị xã Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Junkers Ju 52 chở sĩ quan tham mưu chiến dịch Pháp đi thị sát chiến trường, 12 sĩ quan tham mưu, trong đó có Lambert, đại tá, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Đông Dương thiệt mạng. Việt Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc của trung đoàn đã chạy bộ, vượt rừng, mang "bản kế hoạch tiến công Việt Bắc" về cho Bộ Tổng chỉ huy.[8]

Ngày 13 tháng 10, Bộ Tổng chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh, tổ chức lại lực lượng. Lực lượng gồm các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và khu. Cụ thể:

  • Mặt trận Sông Lô - Đường số 2 do Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo. Nhiệm vụ là đánh quân thủy, bộ vận động, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ gãy gọng kìm phía tây.
  • Mặt trận Bắc Kạn - Đường số 3 do Hoàng Văn Thái phụ trách. Nhiệm vụ tiêu diệt địch cơ động trên đường Bắc Kạn - Cao Bằng và nống ra xung quanh thị xã Bắc Kạn; bảo vệ cơ quan Trung ương.
  • Mặt trận đường số 4 do Võ Nguyên Giáp trực tiếp theo dõi, chỉ đạo.

Chiều ngày 14 – 10, Thường vụ Trung ương Đảng họp thông qua Chỉ thị: "Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp." Hội nghị nhận định: nếu biết lợi dụng khai thác những chỗ yếu của Pháp thì nhất định cuộc tiến công sẽ thất bại. Thường vụ nhất trí thực hiện ngay công thức "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", nhất trí tổ chức ba mặt trận như báo cáo của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp. Kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tình hình cực kỳ rối ren về chính trị ở Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp đến chỗ muốn sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu. Nếu ta thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó, chúng sẽ thất bại. Ta giữ gìn được chủ lực qua mùa đông này là coi như thắng lợi. Nếu chuyến này không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới có lợi cho ta"

Trên khắp các mặt trận, quân Việt Minh ngăn chặn và đẩy lui bước tiến của quân Pháp, đặc biệt là thủy binh[9]. Ngày 15 tháng 10, hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ có một khẩu đội pháo phối hợp, tiến công vào 200 quân Pháp đóng tại Chợ Mới. Ngày 21, một tiểu đoàn của Trung đoàn Thủ đô tiến công một đại đội Pháp đóng trong Chợ Đồn. Ngày 22, tự vệ thị xã Tuyên Quang dùng địa lôi đánh phục kích ở kilômét số 7 trên Quốc lộ 2, diệt và làm bị thương gần 100 lính Pháp. Cùng với đó là 17 trận phục kích nhỏ trên đường Phủ Thông - Bắc Kạn, Chợ Mới - Bắc Kạn, đã làm cho quân Pháp nhụt chí, không dám sục sạo rộng ra ngoài vị trí đóng quân.

Nhận rõ chỗ yếu chí mạng của Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương "Đánh mạnh ở Mặt trận Sông Lô và đường 4, phá giao thông vận tải tiếp tế của địch, kết hợp chặt việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống, triệt nguồn tiếp tế tại chỗ của địch".

Pháo binh thực hiện nghi binh, cơ động linh hoạt, bố trí sát bờ sông, đã đánh hai trận phục kích vào trưa 24 tháng 10: một đoàn tàu Pháp năm chiếc từ Tuyên Quang xuống đến Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của Trung đội Pháo binh Xuân Canh (Trung đội Pháo đài Xuân Canh - Hà Nội tháng 12 năm 1946) và Trung đội Lục tỉnh. Khi tàu chiến Pháp đổ bộ lên bờ sông thì bị bộ đội Việt Minh phục kích bằng sơn pháo và Bazooka[10], bị bắn chìm tại chỗ hai chiếc, toàn bộ quân Pháp trên tàu chết đuối; bắn hỏng nặng hai chiếc khác. Chiếc còn lại quay đầu về Tuyên Quang. Sau trận này, tuyến đường sông Lô bị cắt 10 ngày, Pháp phải thả dù tiếp tế cho Tuyên Quang và Chiêm Hoá. Báo chí Pháp gọi đây là "Thảm hoạ Đoan Hùng".

Ngày 29 tháng 10, tiểu đoàn 374 trung đoàn 11 tổ chức trận địa phục kích đoạn đường Bản Sao - đèo Bông Lau. Tại đèo Bông Lau, đoàn xe 30 chiếc của quân Pháp lọt vào ổ phục kích của bộ đội và chịu thương vong khá lớn. Cả đoàn xe, có cả xe bọc thép hộ tống, với khoảng 250 binh lính bị diệt và bị bắt (một số ít bỏ chạy vào rừng sâu). Bộ đội thu chiến lợi phẩm rồi đốt xe, Việt Minh chỉ mất một chiến sĩ, bị thương năm người.

Kinh nghiệm đánh hai trận Sông Lô và Bông Lau nhanh chóng được phổ biến trên toàn chiến trường Việt Bắc, mở đầu cho hàng loạt trận phục kích lớn sau này. Bộ Tổng chỉ huy quyết định tặng danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau" cho Tiểu đoàn 374.

Do sự chống trả quyết liệt của Việt Minh mà cuộc tiến công diễn ra không thuận lợi, hai mũi tiến công đã không hợp vây được với quân nhảy dù.

Việt Minh liên tiếp tấn công trên mặt trận Đường số 3, Đường số 4, sông Lô. Quân đội Việt Minh đã chủ động bao vây và tiến công quân Pháp ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông (nay thuộc Bắc Kạn), v.v. Quân Pháp buộc phải rút lui cục bộ: ngày 28 tháng 10 rời bỏ Bản Thi, Yên Thịnh. Ngày 13 tháng 11 rút khỏi Chợ Đồn, ngày 16 rút khỏi Chợ Rã, Ngân Sơn. Kế hoạch Léa bị phá sản.

Giai đoạn 2Sửa đổi

Ngày 20 tháng 11, Pháp mở đợt tấn công mới Ceinture. Từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 14 tháng 12 năm 1947 quân Pháp hành quân càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Phủ Lạng Thương - Việt Trì, nơi trú đóng của các cơ quan chính phủ Việt minh, phá vỡ đài phát thanh, bắt được máy in giấy bạc, nhiều dụng cụ khí giới đủ loại, súng cá nhân, súng tự động và đại bác, bắt giữ hơn 1.000 người Việt, giải thoát các con tin người Pháp, chiếm lại được mỏ kẽm Tĩnh Túc (Cao Bằng) và mỏ chì (Tuyên Quang) và có tin đồn là họ đã suýt bắt được cơ quan đầu não của Việt minh. Về sau có một giai thoại nói rằng: "Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng rồi quân Pháp đi qua không trông thấy nên hai người thoát được."[cần dẫn nguồn]

Quân Pháp thiệt hại khá nhiều, nhất là bộ binh của Đại tá André Beaufre. Qua cơn bất ngờ lúc đầu, bộ đội Việt Minh tổ chức các ổ phục kích trên đường thuộc địa số 4 (RC4) Lạng Sơn - Cao Bằng, đánh các đoàn công-voa và các đồn bót do Pháp đặt rải rác để giữ trục giao thông đó. Trong đợt 2, Quân Việt Minh đánh trên sông Gâm đoạn từ Chiêm Hóa về Tuyên Quang, phủ Lạng Thương, Km 6 Đường Tuyên Quang – Trung Giang. Pháp phải rút khỏi thị xã Tuyên Quang, Chợ Chu.

Nhiều chiến trường khác có những hoạt động chiến đấu phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Ở Hà Nội, bộ đội biệt động hoạt động mạnh trong nội thành, diệt trừ Trương Đình Tri, thủ hiến Bắc kì Việt Nam. Du kích quấy rối ở Chèm, Cầu Giấy, Văn Điển, Vĩnh Tuy. Đại đội độc lập phối hợp với du kích tập kích ở Đan Phượng, Hoài Đức và Cần Kiệm (Thạch Thất). Cuộc tổng phá tề ở ngoại thành Hà Nội đã bắt giữ gần 300 tề. Ở nam phần Bắc Ninh, toàn bộ tề bị phá. Khu 14, bộ đội Tây tiến giải phóng Chiềng Sai. Ở Nam Bộ, bộ đội Gia Định phục kích tại Gò Nổi. Nửa đêm 14 tháng 11 năm 1947, tất cả các vị trí Pháp ở ven Sài Gòn: Thị Nghè, Gia Định, Gò Vấp, Bến Cát, Bà Quẹo, Bà Điểm, Phú Lộc, Phú Thọ, Ngã Năm đều bị tập kích. Bộ đội Thủ Dầu Một đánh phục kích ở Phú Văn Hưng. Trận phục kích trên đường Thủ Dầu Một - Phú Riềng phá 10 xe, diệt 60 lính Pháp. Ở Biên Hoà, Lộc Ninh, Tây Ninh, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, nhiều vị trí bị tập kích.[cần dẫn nguồn]

Đêm 30 tháng 11, tiểu đoàn 160 cùng với một đại đội thuộc trung đoàn 72 và du kích thị xã Bắc Kạn tập kích đồn Phủ Thông, diệt hơn 50 lính đang canh gác. Đây là trận đầu tiên quân Pháp bị diệt trong công sự.

Sau khi không thể hợp vây, các chỉ huy Pháp quyết định rút lui khỏi Việt Bắc trong tháng 12. Ngày 6 tháng 12 rút khỏi Định Hóa; 7 tháng 12, rút Võ Nhai. Nắm chắc thời cơ, ngày 15 tháng 12, bộ đội trung đoàn 165 đánh trận phục kích xuất sắc tại đèo Giàng (trên Quốc lộ 3, giáp ranh giữa hai huyện Bạch Thông và Ngân Sơn của tỉnh Bắc Kạn), phá huỷ 17 xe, diệt 60 lính, thu 2 triệu tiền Đông Dương và nhiều vũ khí, quân dụng. Các cánh quân Pháp trên đường rút chạy đều bị đánh thiệt hại. Ngày 19 tháng 12, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Cuộc hành quân kết thúc.[cần dẫn nguồn]

Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947

26/03/2018 10:06:00 Xem cỡ chữ

Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì
Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì
Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì
Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

Nhằm giành thắng lợi quyết định, sớm chấm dứt chiến tranh bằng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, từ giữa năm 1947, Bộ Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị Kế hoạch tiến công lên Việt Bắc với mục tiêu bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, đánh phá bộ đội chủ lực Việt Nam, triệt phá căn cứ địa Việt Bắc, khóa chặt biên giới Việt - Trung.

Khi biết được âm mưu của thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc quyết định của Trung ương Đảng ta là gì

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hội đồng Chính phủ nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình Chiến dịch Việt Bắc, Thu – Đông 1947 (Ảnh tư liệu)

Chiến dịch Việt Bắc thắng lợi, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn Việt Bắc làm căn cứ địa của cuộc kháng chiến trường kỳ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc được Người tin tưởng trao cho sứ mệnh lịch sử “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi.” [1]

Sau hơn một năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, đến Thu - Đông năm 1947, đứng trước nguy cơ thất bại của chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” và áp lực từ những khủng hoảng về chính trị, kinh tế, tài chính tại nước Pháp, Chính phủ Pháp muốn lợi dụng ưu thế tuyệt đối về trang bị kỹ thuật, tập trung lực lượng nhanh chóng giải quyết cuộc chiến tranh Pháp- Việt bằng tiêu diệt quân chủ lực của Việt Nam;“đánh đòn quyết định” nhằm vô hiệu hóa, thậm chí bắt sống cả Chính phủ Hồ Chí Minh để đưa Bảo Đại về lập một chính phủ bù nhìn [2], “làm cơ sở cho niềm hy vọng chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương”[3].

Kế hoạch tiến công Việt Bắc do tướng Xalăng - Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương soạn thảo, được Chính phủ Pháp thông qua đầu tháng 7/1947, chia thành 2 bước với số quân 12.000 người nhằm đánh thẳng vào trung tâm căn cứ ở Việt Bắc, trọng điểm là tam giác Bắc Kạn- Chợ Mới- Chợ Đồn.

Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán được âm mưu, hành động của thực dân Pháp sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, nếu muốn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, thì chúng ta phải kháng chiến lâu dài. Điều kiện cơ bản để kháng chiến lâu dài là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn... Khu căn cứ kháng chiến quan trọng nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn là Việt Bắc, nơi mà lòng yêu nước của đồng bào hòa nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch để chống lại kẻ thù. Phạm Văn Đồng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân công nhiệm vụ tiếp tục ở lại Việt Bắc để củng cố căn cứ địa cách mạng sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời về Hà Nội năm 1945. Đến tháng 10-1946, Nguyễn Lương Bằng, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây đựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong trường hợp phải rời khỏi Thủ đô.

Tháng 11-1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt do Trần Đăng Ninh phụ trách, chuyên lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ quan Trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Giữa tháng 12-1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ.

Sau một thời gian khảo sát thực tế, cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Đội công tác đặc biệt quyết định chọn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên) cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Kạn) làm nơi xây dựng ATK của Trung ương. Đó là những nơi có đủ các yếu tố địa lợi và nhân hòa bảo đảm sự an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến hoạt động.

Đúng như Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán, sau khi ký Hiệp định sơ bộ (6-3) và Tạm ước Việt-Pháp (14-9-1946), thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước, liên tiếp gây ra các hoạt động khiêu khích xâm lược ngày càng trắng trợn. Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác, buộc phải cầm vũ khí chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ những thành quả cách mạng và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Ngay sau đó, cùng với việc giam chân địch tại Hà Nội, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường trực Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Quân đội, các đoàn thể chính trị và các nhà máy quan trọng đã được chuyển dần lên Việt Bắc. Việt Bắc, từ “Thủ đô cách mạng” đã trở thành “Thủ đô kháng chiến”, từ “Thủ đô kháng chiến”, Trung ương Đảng, Bác Hồ, Bộ Tổng tư lệnh ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc.

Sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại Việt Bắc để lãnh đạo cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Việt Bắc có vị trí quan trọng: “Việt Bắc trước kia là căn cứ của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy cái địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình… ”[4].

Ngày 2-9-1947, trong Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Hồ Chí Minh xúc động ghi nhớ tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào dân tộc giúp đỡ cán bộ làm cách mạng: “Tôi không bao giờ quên được, trong những ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị em phụ nữ, anh em nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng hái giúp đỡ… Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo, cho đến anh em Hoa kiều, người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh”[5].

Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc thì trong đêm ngày 7/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận định về yếu điểm của địch, thế mạnh căn bản của ta: “Nước Pháp không đủ sức để theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Chúng phải cố gắng đánh một đòn quân sự quyết định tạo điều kiện cho Bôla đưa Bảo Đại về để tìm cách kết thúc chiến tranh. Dù Valuy có huy động được cả hai vạn quân vào cuộc tiến công này thì với địa bàn rừng núi hiểm trở của Việt Bắc, với tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc ở căn cứ địa, cũng không có gì đáng ngại”[6].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy đề ra nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ cơ quan đầu não bằng mọi giá, chủ trương đều chỉnh kế hoạch tác chiến, giành lại chủ động; chỉ đạo khắc phục những thiếu sót trong chuẩn bị và đánh địch, triệt để phá hoại đường sá, nhà cửa, sơ tán bệnh viện, công xưởng, kho tàng, di chuyển và bảo vệ các cơ quan, làm vườn không nhà trống...

Sau một tuần chiến đấu chống địch, nhận thấy những hạn chế cần phải khắc phục, như bộ đội thiên về đánh tập trung, chuẩn bị vội vã, đánh địch không đạt nhiều hiệu quả, bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, phong trào du kích chưa phát triển mạnh, việc phá hoại các đường sá chưa triệt để, một số nơi nhân dân có phần hoang mang…, đặc biệt là ngay sau khi nắm được kế hoạch tấn công của địch[7], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương họp khẩn cấp vào chiều ngày 14 -10-1947 phân tích rõ hơn những điểm yếu chí tử của địch khi tấn công quân ta vào địa bàn núi rừng hiểm trở. Người nhấn mạnh đến điểm yếu trong cuộc tấn công lần này của Pháp là không mạnh nên phải mạo hiểm, sẽ gặp nhiều khó khăn to lớn vì rải quân trên một địa bàn quá rộng; mọi hoạt động của cuộc hành binh đều phụ thuộc vào khả năng tiếp tế, tăng viện bằng đường bộ và đường thuỷ. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nếu ta biết lợi dụng triệt để những nhược điểm của địch, phát triển những ưu điểm của ta thì cuộc tấn công của chúng nhất định sẽ thất bại.

Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Phải phá cuộc chiến công mùa đông của giặc Pháp” chỉ đạo quân và dân cả nước phối hợp với quân dân Việt Bắc đánh bại cuộc tấn công của địch. Chỉ thị nhận định: "địch càng dàn quân ra càng mỏng lực lượng. Chúng đem quân lên mạn ngược là một dịp cho ta để đánh chúng ở miền xuôi. Chúng đóng quân nơi xa càng dễ cho ta bao vây chặt đường tiếp tế, đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động"[8].

Ngày 15-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân du kích Việt Bắc ra sức diệt địch. Người cho rằng địch mưu hội quân ở Bắc Kạn, tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, dưới đánh lên, trên đánh xuống để tiêu diệt chủ lực ta và phá cho được cơ quan đầu não kháng chiến. Người chỉ rõ: Chúng chỉ mạnh về hai gọng kìm. Gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành cái ô rách, cuộc tấn công của địch sẽ thất bại[9].

Những tư tưởng chỉ đạo về phát huy những điều kiện thuận lợi, khuyết sâu chỗ yếu căn bản của địch để đánh bại cuộc tấn công của chúng tiếp tục được Người quán triệt trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch. Ngày 19-12-1947, trả lời câu hỏi của các nhà báo về cuộc tấn công mùa đông của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như các cuộc hành quân khác, kết quả địch sẽ thất bại vì: a (Địch chỉ hoạt động được mấy tháng. Sau mùa mưa thì chúng hết thiên thời. b) Việt Bắc địa thế hiểm trở, quân địch không có địa lợi. c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức người càng mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng giở thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là địch không có nhân hoà”[10]

Đúng như dự đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua hơn hai tháng đánh lên Việt Bắc, vấp phải sự chống trả kiên cường, sáng tạo của quân và dân ta, bị đánh mạnh ở cả đường bộ, đường sông, chịu nhiều tổn thất, hàng ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều phương tiện chiến tranh phá huỷ và đánh chìm, quân Pháp buộc phải co cụm vào các thị xã, thị trấn rồi rút đại bộ phận quân khỏi Việt Bắc. Sự chỉ huy mưu lược của Đảng, Bác Hồ và Bộ Tổng chỉ huy kết hợp với sự nỗ lực vượt bậc, trí thông minh, sáng tạo, tinh thần chiến đấu dũng cảm, của các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã tạo nên nhiều chiến công vang dội trên Sông Lô, tại Đoan Hùng (ngày 25-10-1947), ở đèo Bông Lau (ngày 30-10-1947)…Chiến thuật quấy rối, phục kích, đánh tiêu hao, tiêu diệt địch ở mọi nơi đã vô hiệu hoá, tiến tới bẻ gảy từng gọng kìm của địch, đẩy chúng vào tình thế lúng túng trong những cuộc hành binh sục sạo và nhảy dù vô vọng. Thất bại tại Việt Bắc cùng với khủng hoảng về chính trị, khó khăn về kinh tế làm cho Pháp nhận ra rằng không thể giải quyết chiến tranh bằng một cuộc hành quân lớn và cũng không thể tiến hành chiến tranh bằng sức lực đã cạn kiệt của nước Pháp, buộc Pháp chuyển sang chiến lược mới là đánh kéo dài, chuyển sang bình định các vùng chiếm đóng hòng vơ vét sức người, sức của,…

Cuộc tiến công quy mô lớn mà tướng Xalăng, chỉ huy cuộc tấn công ngạo ngược tuyên bố“ Chỉ cần ba tuần lễ để đập tan đầu não Việt Minh”[11] đã thất bại. Quân Pháp tuy có phá hoại một số cơ sở vật chất kháng chiến nhưng đã không thực hiện được bất cứ mục tiêu chiến lược nào đề ra cho cuộc tiến công. Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Pháp, tướng Yves Gra nhận xét: “ Kết quả của 3 tháng hành quân ở vùng thượng du Bắc Kỳ đối với chúng ta hình như có phần nào đáng thất vọng”[12]. Những người cộng tác với Pháp sau này cũng nhận định: “ Kết quả của chiến dịch qui mô này là Pháp đánh vào chỗ không người ( …) không thực hiện được ý muốn tiêu diệt chủ lực quân của Việt Minh (…) Pháp còn bị thất bại về chiến thuật trước lối đánh du kích và tiêu thổ của Việt Minh dựa vào rừng núi”[13].

Đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc Thu Đông 1947 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến với sự chuyển hoá lực lượng ngày càng có lợi. Căn cứ địa Việt Bắc ngày càng vững vàng và trưởng thành, bộ đội chủ lực và dân quân du kích đều được tôi luyện trong thực tế chiến đấu, được bổ sung khá nhiều trang bị, vũ khí. Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn được bảo vệ an toàn với những vị bộ trưởng luôn ba lô trên vai vừa liên tục di chuyển trong các huyện Võ Nhai, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)…vừa tiếp tục điều hành công việc kháng chiến trên toàn quốc.

Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947 thắng lợi, địa danh Việt Bắc đánh dấu mốc thắng lợi đầu tiên, quan trọng trong những năm đầu cuộc kháng chiến của quân dân ta. Từ căn cứ địa Việt Bắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, đến Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ, khẳng định tầm nhìn chiến lược, thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn địa thế rừng núi hiểm trở để đánh Pháp và trong những giờ phút khó khăn của cuộc chiến đấu luôn bình tĩnh, sáng suốt lãnh đạo nhân dân di chuyển cơ quan đầu não kháng chiến, nhân lực, vật lực,…phục vụ chiến dịch.

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 239.

[2] Thông điệp của Valluy - Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương gửi Ramadier - Thủ tướng Cộng hoà Pháp ngày 2-10-1947 (Note Valluy à Ramadier, 2.10.47), có nội dung chuẩn bị các điều kiện lập chính phủ tay sai “gây ra một thứ nội chiến giữa người Việt Nam với nhau”. Dẫn theo Philippe Devillers, Paris - Saigon - Hanoi, Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944 -1947, Nxb tp Hồ Chí Minh, 1993, tr. 487.

[3] Général Yves Gras, Histoire de la guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương), Plon, Paris, 1979. Bản dịch tiếng Việt, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.

[4] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 239.

[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 238.

[6] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, sđd, tr. 167.

[7] Chiều 9-10-1947, bộ đội trợ chiến Trung đoàn 74 bố trí tại phía Nam thị xã Cao Bằng đã bắn rơi chiếc máy bay chở các sĩ quan tham mưu chiến dịch của Pháp đang đi thị sát mặt trận, trên máy bay có đại tá Lăm-be (Lambert), Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Đông Dương. Bộ đội ta thu được chiếc cặp có bản kế hoạch và bản đồ cuộc tiến công Việt Bắc của thực dân Pháp. Bản kế hoạch đã được chuyển cấp tốc về Bộ tổng tham mưu lúc đó đóng tại khu vực núi Hồng, huyện Định Hoá, Thái Nguyên ngày 13-10- 1947.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 8, tr. 318.

[9] Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh- Viện Hồ chí Minh, Hồ chí Minh Biên niên tiểu sử, tập 4 (1946-1950), Nxb CTQG, H.2006, 129.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, sdd, tr. 328.

[11] Yvơ Gra, Lịch sử chiến tranh Đông Dương, sđd, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.

[12] Yvơ Gra, Lịch sử chiến tranh Đông Dương, sđd, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.

[13] “Quân sử 4”, Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu quân đội nguỵ Sài Gòn xuất bản, sđd, tr. 31, 34.

Nhằm giành thắng lợi quyết định, sớm chấm dứt chiến tranh bằng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, từ giữa năm 1947, Bộ Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị Kế hoạch tiến công lên Việt Bắc với mục tiêu bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, đánh phá bộ đội chủ lực Việt Nam, triệt phá căn cứ địa Việt Bắc, khóa chặt biên giới Việt - Trung.Chiến dịch Việt Bắc thắng lợi, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn Việt Bắc làm căn cứ địa của cuộc kháng chiến trường kỳ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc được Người tin tưởng trao cho sứ mệnh lịch sử “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi.” [1] Sau hơn một năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, đến Thu - Đông năm 1947, đứng trước nguy cơ thất bại của chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” và áp lực từ những khủng hoảng về chính trị, kinh tế, tài chính tại nước Pháp, Chính phủ Pháp muốn lợi dụng ưu thế tuyệt đối về trang bị kỹ thuật, tập trung lực lượng nhanh chóng giải quyết cuộc chiến tranh Pháp- Việt bằng tiêu diệt quân chủ lực của Việt Nam;“đánh đòn quyết định” nhằm vô hiệu hóa, thậm chí bắt sống cả Chính phủ Hồ Chí Minh để đưa Bảo Đại về lập một chính phủ bù nhìn [2], “làm cơ sở cho niềm hy vọng chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương”[3]. Kế hoạch tiến công Việt Bắc do tướng Xalăng - Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương soạn thảo, được Chính phủ Pháp thông qua đầu tháng 7/1947, chia thành 2 bước với số quân 12.000 người nhằm đánh thẳng vào trung tâm căn cứ ở Việt Bắc, trọng điểm là tam giác Bắc Kạn- Chợ Mới- Chợ Đồn. Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán được âm mưu, hành động của thực dân Pháp sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, nếu muốn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, thì chúng ta phải kháng chiến lâu dài. Điều kiện cơ bản để kháng chiến lâu dài là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn... Khu căn cứ kháng chiến quan trọng nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn là Việt Bắc, nơi mà lòng yêu nước của đồng bào hòa nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch để chống lại kẻ thù. Phạm Văn Đồng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân công nhiệm vụ tiếp tục ở lại Việt Bắc để củng cố căn cứ địa cách mạng sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời về Hà Nội năm 1945. Đến tháng 10-1946, Nguyễn Lương Bằng, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây đựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong trường hợp phải rời khỏi Thủ đô. Tháng 11-1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt do Trần Đăng Ninh phụ trách, chuyên lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ quan Trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Giữa tháng 12-1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Sau một thời gian khảo sát thực tế, cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Đội công tác đặc biệt quyết định chọn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên) cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Kạn) làm nơi xây dựng ATK của Trung ương. Đó là những nơi có đủ các yếu tố địa lợi và nhân hòa bảo đảm sự an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến hoạt động. Đúng như Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán, sau khi ký Hiệp định sơ bộ (6-3) và Tạm ước Việt-Pháp (14-9-1946), thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước, liên tiếp gây ra các hoạt động khiêu khích xâm lược ngày càng trắng trợn. Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác, buộc phải cầm vũ khí chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ những thành quả cách mạng và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Ngay sau đó, cùng với việc giam chân địch tại Hà Nội, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường trực Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Quân đội, các đoàn thể chính trị và các nhà máy quan trọng đã được chuyển dần lên Việt Bắc. Việt Bắc, từ “Thủ đô cách mạng” đã trở thành “Thủ đô kháng chiến”, từ “Thủ đô kháng chiến”, Trung ương Đảng, Bác Hồ, Bộ Tổng tư lệnh ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc. Sau khi ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở lại Việt Bắc để lãnh đạo cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Việt Bắc có vị trí quan trọng: “Việt Bắc trước kia là căn cứ của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy cái địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình… ”[4]. Ngày 2-9-1947, trong Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Hồ Chí Minh xúc động ghi nhớ tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào dân tộc giúp đỡ cán bộ làm cách mạng: “Tôi không bao giờ quên được, trong những ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị em phụ nữ, anh em nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng hái giúp đỡ… Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo, cho đến anh em Hoa kiều, người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh”[5]. Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc thì trong đêm ngày 7/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận định về yếu điểm của địch, thế mạnh căn bản của ta: “Nước Pháp không đủ sức để theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Chúng phải cố gắng đánh một đòn quân sự quyết định tạo điều kiện cho Bôla đưa Bảo Đại về để tìm cách kết thúc chiến tranh. Dù Valuy có huy động được cả hai vạn quân vào cuộc tiến công này thì với địa bàn rừng núi hiểm trở của Việt Bắc, với tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc ở căn cứ địa, cũng không có gì đáng ngại”[6]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy đề ra nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ cơ quan đầu não bằng mọi giá, chủ trương đều chỉnh kế hoạch tác chiến, giành lại chủ động; chỉ đạo khắc phục những thiếu sót trong chuẩn bị và đánh địch, triệt để phá hoại đường sá, nhà cửa, sơ tán bệnh viện, công xưởng, kho tàng, di chuyển và bảo vệ các cơ quan, làm vườn không nhà trống... Sau một tuần chiến đấu chống địch, nhận thấy những hạn chế cần phải khắc phục, như bộ đội thiên về đánh tập trung, chuẩn bị vội vã, đánh địch không đạt nhiều hiệu quả, bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, phong trào du kích chưa phát triển mạnh, việc phá hoại các đường sá chưa triệt để, một số nơi nhân dân có phần hoang mang…, đặc biệt là ngay sau khi nắm được kế hoạch tấn công của địch[7], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương họp khẩn cấp vào chiều ngày 14 -10-1947 phân tích rõ hơn những điểm yếu chí tử của địch khi tấn công quân ta vào địa bàn núi rừng hiểm trở. Người nhấn mạnh đến điểm yếu trong cuộc tấn công lần này của Pháp là không mạnh nên phải mạo hiểm, sẽ gặp nhiều khó khăn to lớn vì rải quân trên một địa bàn quá rộng; mọi hoạt động của cuộc hành binh đều phụ thuộc vào khả năng tiếp tế, tăng viện bằng đường bộ và đường thuỷ. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nếu ta biết lợi dụng triệt để những nhược điểm của địch, phát triển những ưu điểm của ta thì cuộc tấn công của chúng nhất định sẽ thất bại. Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Phải phá cuộc chiến công mùa đông của giặc Pháp” chỉ đạo quân và dân cả nước phối hợp với quân dân Việt Bắc đánh bại cuộc tấn công của địch. Chỉ thị nhận định: "địch càng dàn quân ra càng mỏng lực lượng. Chúng đem quân lên mạn ngược là một dịp cho ta để đánh chúng ở miền xuôi. Chúng đóng quân nơi xa càng dễ cho ta bao vây chặt đường tiếp tế, đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động"[8]. Ngày 15-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân du kích Việt Bắc ra sức diệt địch. Người cho rằng địch mưu hội quân ở Bắc Kạn, tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, dưới đánh lên, trên đánh xuống để tiêu diệt chủ lực ta và phá cho được cơ quan đầu não kháng chiến. Người chỉ rõ: Chúng chỉ mạnh về hai gọng kìm. Gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành cái ô rách, cuộc tấn công của địch sẽ thất bại[9]. Những tư tưởng chỉ đạo về phát huy những điều kiện thuận lợi, khuyết sâu chỗ yếu căn bản của địch để đánh bại cuộc tấn công của chúng tiếp tục được Người quán triệt trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch. Ngày 19-12-1947, trả lời câu hỏi của các nhà báo về cuộc tấn công mùa đông của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như các cuộc hành quân khác, kết quả địch sẽ thất bại vì: a (Địch chỉ hoạt động được mấy tháng. Sau mùa mưa thì chúng hết thiên thời. b) Việt Bắc địa thế hiểm trở, quân địch không có địa lợi. c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức người càng mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng giở thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là địch không có nhân hoà”[10] Đúng như dự đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua hơn hai tháng đánh lên Việt Bắc, vấp phải sự chống trả kiên cường, sáng tạo của quân và dân ta, bị đánh mạnh ở cả đường bộ, đường sông, chịu nhiều tổn thất, hàng ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều phương tiện chiến tranh phá huỷ và đánh chìm, quân Pháp buộc phải co cụm vào các thị xã, thị trấn rồi rút đại bộ phận quân khỏi Việt Bắc. Sự chỉ huy mưu lược của Đảng, Bác Hồ và Bộ Tổng chỉ huy kết hợp với sự nỗ lực vượt bậc, trí thông minh, sáng tạo, tinh thần chiến đấu dũng cảm, của các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã tạo nên nhiều chiến công vang dội trên Sông Lô, tại Đoan Hùng (ngày 25-10-1947), ở đèo Bông Lau (ngày 30-10-1947)…Chiến thuật quấy rối, phục kích, đánh tiêu hao, tiêu diệt địch ở mọi nơi đã vô hiệu hoá, tiến tới bẻ gảy từng gọng kìm của địch, đẩy chúng vào tình thế lúng túng trong những cuộc hành binh sục sạo và nhảy dù vô vọng. Thất bại tại Việt Bắc cùng với khủng hoảng về chính trị, khó khăn về kinh tế làm cho Pháp nhận ra rằng không thể giải quyết chiến tranh bằng một cuộc hành quân lớn và cũng không thể tiến hành chiến tranh bằng sức lực đã cạn kiệt của nước Pháp, buộc Pháp chuyển sang chiến lược mới là đánh kéo dài, chuyển sang bình định các vùng chiếm đóng hòng vơ vét sức người, sức của,… Cuộc tiến công quy mô lớn mà tướng Xalăng, chỉ huy cuộc tấn công ngạo ngược tuyên bố“ Chỉ cần ba tuần lễ để đập tan đầu não Việt Minh”[11] đã thất bại. Quân Pháp tuy có phá hoại một số cơ sở vật chất kháng chiến nhưng đã không thực hiện được bất cứ mục tiêu chiến lược nào đề ra cho cuộc tiến công. Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Pháp, tướng Yves Gra nhận xét: “ Kết quả của 3 tháng hành quân ở vùng thượng du Bắc Kỳ đối với chúng ta hình như có phần nào đáng thất vọng”[12]. Những người cộng tác với Pháp sau này cũng nhận định: “ Kết quả của chiến dịch qui mô này là Pháp đánh vào chỗ không người ( …) không thực hiện được ý muốn tiêu diệt chủ lực quân của Việt Minh (…) Pháp còn bị thất bại về chiến thuật trước lối đánh du kích và tiêu thổ của Việt Minh dựa vào rừng núi”[13]. Đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc Thu Đông 1947 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến với sự chuyển hoá lực lượng ngày càng có lợi. Căn cứ địa Việt Bắc ngày càng vững vàng và trưởng thành, bộ đội chủ lực và dân quân du kích đều được tôi luyện trong thực tế chiến đấu, được bổ sung khá nhiều trang bị, vũ khí. Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn được bảo vệ an toàn với những vị bộ trưởng luôn ba lô trên vai vừa liên tục di chuyển trong các huyện Võ Nhai, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)…vừa tiếp tục điều hành công việc kháng chiến trên toàn quốc. Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947 thắng lợi, địa danh Việt Bắc đánh dấu mốc thắng lợi đầu tiên, quan trọng trong những năm đầu cuộc kháng chiến của quân dân ta. Từ căn cứ địa Việt Bắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, đến Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ, khẳng định tầm nhìn chiến lược, thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn địa thế rừng núi hiểm trở để đánh Pháp và trong những giờ phút khó khăn của cuộc chiến đấu luôn bình tĩnh, sáng suốt lãnh đạo nhân dân di chuyển cơ quan đầu não kháng chiến, nhân lực, vật lực,…phục vụ chiến dịch. [1] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 239. [2] Thông điệp của Valluy - Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương gửi Ramadier - Thủ tướng Cộng hoà Pháp ngày 2-10-1947 (Note Valluy à Ramadier, 2.10.47), có nội dung chuẩn bị các điều kiện lập chính phủ tay sai “gây ra một thứ nội chiến giữa người Việt Nam với nhau”. Dẫn theo Philippe Devillers, Paris - Saigon - Hanoi, Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944 -1947, Nxb tp Hồ Chí Minh, 1993, tr. 487. [3] Général Yves Gras, Histoire de la guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương), Plon, Paris, 1979. Bản dịch tiếng Việt, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng. [4] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 239. [5] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 ( 1947-1948), Nxb CTQG, HN, 2011, tr 238. [6] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, sđd, tr. 167. [7] Chiều 9-10-1947, bộ đội trợ chiến Trung đoàn 74 bố trí tại phía Nam thị xã Cao Bằng đã bắn rơi chiếc máy bay chở các sĩ quan tham mưu chiến dịch của Pháp đang đi thị sát mặt trận, trên máy bay có đại tá Lăm-be (Lambert), Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Đông Dương. Bộ đội ta thu được chiếc cặp có bản kế hoạch và bản đồ cuộc tiến công Việt Bắc của thực dân Pháp. Bản kế hoạch đã được chuyển cấp tốc về Bộ tổng tham mưu lúc đó đóng tại khu vực núi Hồng, huyện Định Hoá, Thái Nguyên ngày 13-10- 1947. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 8, tr. 318. [9] Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh- Viện Hồ chí Minh, Hồ chí Minh Biên niên tiểu sử, tập 4 (1946-1950), Nxb CTQG, H.2006, 129. [10] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, sdd, tr. 328. [11] Yvơ Gra, Lịch sử chiến tranh Đông Dương, sđd, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng. [12] Yvơ Gra, Lịch sử chiến tranh Đông Dương, sđd, Lưu tại Viện Lịch sử Đảng. [13] “Quân sử 4”, Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu quân đội nguỵ Sài Gòn xuất bản, sđd, tr. 31, 34.

Các bài khác

  • Hồ Chí Minh - vị dũng sĩ cách mạng
  • Đẩy mạnh công tác tuyên truyền theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh
  • Hồ Chí Minh - Người kiến tạo văn hóa tương lai
  • Quyết định sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và niềm tin mãnh liệt vào nhân dân
  • “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - Biểu tượng mẫu mực về nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân
  • Người mang lại mùa Xuân cho đất nước
  • Góp phần tìm hiểu rõ hơn về hành trình lịch sử tìm đường cứu nước mang tầm thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
  • Hồ Chí Minh - Người mở đường vĩ đại của cách mạng Việt Nam
  • Bác Hồ và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
  • Mùa Xuân đầu tiên Bác Hồ trở về Pác Bó