Kỹ năng sống các môn học ở lớp 5

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

     1. Lí do chọn đề tài

     “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”[Luật Giáo dục, Điều 27, khoản 2]. Nhân cách của học sinh được hình thành qua hai con đường cơ bản trong nhà trường là con đường dạy học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được hình thành qua hai con đường cơ bản đó. Trong công cuộc đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông của mọi môn học đều được biên soạn thống nhất chung dưới một quan điểm chỉ đạo quan trọng là tích hợp nhiều môn khoa học trong mỗi môn học, nhằm đáp ứng xu thế phát triển của khoa học và nhu cầu học tập ngày càng cao của xã hội ngày nay.

      Thực tiễn giáo dục trong các trường tiểu học, giáo viên đã tìm hiểu và thực hiện tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống vào dạy học chính khóa của nhiều môn học, đặc biệt môn Đạo Đức nhằm góp phần phát triển và giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục đạo đức cho học sinh. Kết quả đạt được trong dạy học và giáo dục của các trường tiểu học đã khẳng định tính khả thi, tính cấp thiết và bổ ích của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên việc tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống vào dạy học các môn học, đặc biệt môn Đạo Đức còn đang gặp nhiều lúng túng. Nhiều khi băn khoăn trăn trở trong việc phải tích hợp quá nhiều chủ đề khác nhau vào mọi môn học [như Giáo dục môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn ma tuý học đường, giáo dục kĩ năng sống...]. Chính vì vậy tôi chọn “Một số biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 5” làm đề tài nghiên cứu chọn nhằm đưa ra được giải pháp hữu hiệu góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục tiểu học. Trong các môn học tôi chú trọng nhiều hơn đến môn Đạo đức bởi tôi thấy rằng trong môn Đạo đức có nhiều nội dung có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

     2. Mục đích nghiên cứu

     Mục đích của đề tài nghiên cứu này là nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học môn Đạo đức trong các trường tiểu học, đồng thời góp phần giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh các trường tiểu học.

     3. Phương pháp nghiên cứu:

     Để thực hiện được mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đề ra tôi xây dựng các biện pháp nghiên cứu sau đây:

     3.1. Nhóm các phương pháp lý thuyết : Tìm hiểu Sách giáo khoa và các tài liệu liên quan đến môn Đạo đức.

     3.2. Nhóm các phương pháp thực tiễn :

- Phương pháp quan sát,

- Phương pháp dạy thực nghiệm,

- Phương pháp kiểm tra đánh giá,…

     4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống cho học sinh

- Các kĩ năng sống trong môn đạo đức.

     4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài tập trung nghiên cứu một số biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong mông Đạo đức cho học sinh lớp 5

- Nghiên cứu tâm - sinh lí học sinh lớp 5, kĩ năng sống của học sinh lớp 5.

- Học sinh lớp 5A1 năm học 2018-2019.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

     1. Cơ sở lí luận của việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 5.

     1.1 Một số khái niệm cơ bản:

     Giáo dục tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp có hệ thống ở những mức độ khác nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau trở thành một nội dung thống nhất.

     Xã hội hiện đại có những thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối sống, một mặt sự phát triển của xã hội hiện đại làm cho chất lượng cuộc sống của con người ngày càng tốt hơn, nhưng mặt khác làm nảy sinh những vấn đề mới mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa biết cách đương đầu, đồng thời mức độ phức tạp, khó khăn của những vấn đề cũ đã gặp trước đây cũng có xu hướng tăng lên. Như vậy trong xã hội hiện đại con người càng cần có kỹ năng sống để thích nghi tốt hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống.

     Bên cạnh đó, để có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì trước hết giáo viên phải hiểu được kĩ năng sống là gì? Kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học bao gồm những yếu tố nào?

     Có nhiều góc nhìn khác nhau xem xét về khái niệm về kĩ năng sống như:

 - Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc [UNESCO] thì  kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày - đó là những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng đọc, viết, làm tính,…

 - Theo Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] thì kĩ năng sống  là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khoẻ mạnh. Đó là những kĩ năng mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày.

- Theo thuyết hành vi thì  kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và những thái độ - là những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.

Con người cần có những kĩ năng nhất định để sống [tồn tại và phát triển]

khi xem xét nó trong ba mối quan hệ: Con người với chính bản thân mình; Con

người với tự nhiên; Con người với cỏc mối quan hệ xã hội.

Dù nhìn từ gúc độ nào thì các kĩ năng sống đều nhằm giúp người học biết  vận dụng những kiến thức đã học thành hành động thực tế để có thể phát triển hài hòa, gúp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển bền vững.

Kĩ năng sống mang tính cá nhân, tính dân tộc và quốc gia, tính xã hội - toàn cầu. Kĩ  năng sống vừa mang tính sinh học vừa mang tính xã hội nghĩa là nó chủ yếu được hình thành, vận động , phát triển và hoàn thiện dần trong hoạt động và thực tiễn cuộc sống. 

Kĩ năng sống cơ bản  trong lứa tuổi học sinh tiểu học thường là kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng kiên định, kĩ năng đặt mục tiêu, … Những kĩ năng này thường gắn với một nội dung giáo dục cụ thể như giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục lòng nhân ái, giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, giáo dục sống an toàn, khoẻ mạnh, v.v..

     1.2 Ý nghĩa của vấn đề giáo dục tích hợp kĩ năng sống cho học sinh:

     Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên thiết yếu bởi nó góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “ đức, trí, thể, mĩ”, “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” , hình thành cho các em cách tư duy linh hoạt, phong thái tự tin khi hoà nhập với cộng đồng đồng thời giúp các em sống nhân văn, biết yêu thương, sống có trách nhiệm hơn với những người xung quanh và với chính bản thân mình. Giáo dục lồng ghép kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh nhằm giúp học sinh có được một số kĩ năng sống cơ bản như: tự nhận thức về bản thân, biết lắng nghe, biết ứng xử phù hợp với chuẩn mực hành vi đạo đức trong các mối quan hệ với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, biết nhận xét, đánh giá hành vi của người khác theo chuẩn mực đạo đức, hiểu và vận dụng những kĩ năng trên trong cuộc sống hàng ngày.

     1.3 Chuẩn yêu cầu cần đạt trong môn Đạo đức đối với học sinh lớp 5:

      Điều 3 - Luật Giáo dục tiểu học chỉ rõ: giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết cần thiết về tự nhiên và con người, có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em, kính trọng thầy cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi, giúp đỡ bạn bè và các em nhỏ, yêu lao động, có kỉ luật, có nếp sống văn hoá, có thói quen rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh, yêu quê hương, đất nước, yêu hoà bình.

      Còn trong môn Đạo đức, chuẩn Kiến thức - Kĩ năng có nêu những cầu cần đạt đối với học sinh là: học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực về hành vi đạo đức phù hợp với lứa tuổi trong mối quan hệ với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, hình thành kĩ năng nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học, thực hiện những hành vi ứng xử phù hợp, từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người, biết phân biệt cái đúng, cái tốt.

       2. Thực trạng của việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh lớp 5:

       2.1 Đặc điểm chung của trường, lớp:

     Về phía nhà trường, năm học 2018-2019, nhà trường được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất có các phương tiện thiết bị hiện đại, phục tốt cho việc dạy và học. Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các hoạt động của cả thầy và trò. Đó là những điều kiện thuận lợi giúp cho việc triển khai các biện pháp giáo dục lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh của tôi được dễ dàng hơn.

     Năm học 2018-2019, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A1. Đây là lớp học tập trung nhiều học sinh trên nhiều địa bàn khác nhau. Cha mẹ các em phần lớn là công nhân hoặc làm nghề buôn bán nhỏ. Bên cạnh những bậc phụ huynh rất quan tâm đến con em mình thì còn có nhiều bậc phụ huynh chưa quan tâm đúng mức tới tình hình học tập và rèn luyện của các em. Điều đó đã mang đến những khó khăn cho tôi trong quá trình giáo dục học sinh ở lớp chủ nhiệm.

      2.2. Những ưu điểm và bất cập khi triển khai các biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh:

       a.Ưu điểm:

       Trong thực tế, việc dạy kĩ năng sống cho học sinh không phải là một vấn đề quá mới mẻ bởi từ khi thực hiện đổi mới về nội dung, chương trình và sách giáo khoa thì kĩ năng sống đã được nói tới trong tất cả các môn học. Chúng ta vẫn thường nói tới việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tất cả những điều đó đều là những biện pháp hình thành cho học sinh kĩ năng sống. Với cá nhân, tôi hiểu rằng việc dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, được diễn ra trong môi trường giáo dục thân thiện chính là những biểu hiện của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nói như vậy có nghĩa là vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã được đề cập đến từ trước đó chứ không hoàn toàn là những điều quá mới mẻ.

       Bên cạnh đó, Ban giám hiệu luôn có sự chỉ đạo sát sao về việc thực hiện nhiệm vụ năm học, khối chuyên môn luôn có những buổi sinh hoạt chuyên môn đều đặn để cùng bàn bạc thống nhất những nội dung giáo dục và cùng tháo gỡ những khó khăn khúc mắc trong quá trình giảng dạy.

      Ngoài ra, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề cập đến việc   cha mẹ học sinh cùng phối hợp với nhà trường trong việc trang bị cho các em những kĩ năng sống cơ bản. Vì thế nhiều bậc phụ huynh đã rất quan tâm và có những hỗ trợ cùng giáo viên.

      Tất cả những điều này đã tạo cho tôi rất nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy.

      b. Những bất cập trong quá trình thực hiện các biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống cho học sinh trong môn Đạo đức:

       - Về phía giáo viên:

     Việc xác định mục tiêu của bài dạy chưa thể hiện sự tích hợp kĩ năng sống, chưa chú ý khai thác và khai thác chưa triệt để nội dung về giáo dục kĩ năng sống; chưa thể hiện rõ phương pháp, phương tiện đặc trưng để giáo dục kĩ năng sống; tổ chức các tình huống để tạo cơ hội cho học sinh thực hành trải nghiệm còn quá hạn chế; học sinh chưa được trao đổi về những điều chúng được tự làm.

- Về phía học sinh: 

      Do sự nhận thức cũng như môi trường sống các em còn nhiều hạn chế nên những hiểu biết cũng như những kĩ năng cơ bản cần có ở các em còn rất hạn hẹp. Nhiều em còn nhút nhát, rụt rè, chưa tích cực, chủ động khi tham gia các hoạt động trải nghiệm để tạo lập và rèn luyện kĩ năng sống. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục kĩ năng sống cho các em.

     3 . Các biện pháp giáo dục tích hợp kĩ năng sống trong môn Đạo đức cho học sinh:

      3.1. Biện pháp 1: Trang bị kiến thức về kĩ năng sống cho giáo viên và tạo động cơ học tập cho học sinh       

     3.1.1. Mục tiêu:

      Trang bị kiến thức về kĩ năng sống nhằm giúp cho giáo viên có những hiểu biết căn bản về điều đó. Không thể tiến hành giáo dục cho học sinh về kĩ năng sống nếu bản thân giáo viên không hiểu được những vấn đề của kĩ năng sống.

      Tạo động cơ học tập cho học sinh nhằm mục đích đem đến cho các em sự hứng thú khi tham gia các hoạt động, giúp các em thấy được ích lợi cũng như sự cần thiết của vấn đề này, từ đó các em có ý thức tự giác với việc trau dồi và rèn luyện kĩ năng sống.

     3.1.2. Cách tiến hành:

      Để khắc phục những thiếu hụt về mặt kiến thức, bản thân tôi đã phải tìm hiểu vấn đề này ở rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau như qua các tạp chí, qua mạng Internet, qua các bạn đồng nghiệp ở các trường đang dạy thí điểm về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Từ đó tôi đã tự đúc rút cho mình những khái niệm về kĩ năng sống, những nội dung kĩ năng sống cần trang bị cho học sinh lớp 5 trong môn Đạo đức và đưa ra những biện pháp giáo dục lồng ghép sao  phù hợp với đối tượng học sinh lớp tôi. Dưới đây là những kĩ năng sống cơ bản và cần thiết đối với học sinh lớp 5 trong môn Đạo đức:

     3.1.2.1.   Kĩ năng tự nhận thức.

Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân.

Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu, của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.

Tự nhận thức là một kĩ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.

     3.1.2.2. Kĩ năng xác định giá trị.

Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó…

Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế,…

Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kĩ năng xác định giá trị  là khả năng con người hiểu rõ được những  giá trị của bản thân mình. Kĩ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kĩ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác.

Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo các giai đoạn trưởng thành của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền văn hóa, vào môi trường sống, học tập và làm việc của cá nhân.

     3.1.2.3. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc

Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình hống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kĩ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc , kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.

Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.

Kĩ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng xử  với người khác và kĩ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kĩ năng này.

     3.1.2.4. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.

Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường gặp những tình huống gây căng thẳng cho bản thân. Tuy nhiên, có những tình huống có thể gâu căng thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người khác và ngược lại.

Khi bị căng thẳng mỗi người có tâm trạng, cảm xúc khác nhau: cũng có khi là những cảm xúc tích cực nhưng thường là những cảm xúc tiêu cực gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Ở một mức độ nào đó, khi một cá nhân có khả năng đương đầu với căng thẳng thì đó có thể là một tác động tích cực, tạo sức ép buộc cá nhân đó phải tập trung vào công việc của mình, bứt phá thành công. Nhưng mặt khác, sự căng thẳng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu căng thẳng đó quá lớn, kéo dài và giải tỏa nổi.

Kĩ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng  như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng.

Kĩ năng ứng phó với căng thẳng có được nhờ sự kết hợp  của các kĩ năng sống khác như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xử lý cảm xúc, kĩ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ và kĩ năng giải quyết vấn đề.

     3.1.2.5. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác.

Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ,  giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta có cái nhìn mới và hướng đi mới.

Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần  thiết để giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kĩ năng này, cần kĩ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn.

     3.1.2.6. Kĩ năng thể hiện sự tự tin

Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.

Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống.

Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm.

     3.1.2.7. Kĩ năng giao tiếp

Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng  thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.

Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết  gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.

     3.1.2.8. Kĩ năng lắng nghe tích cực

Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác [bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười], biết cho ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp.

Người có kĩ năng lắng nghe tích cực thường được nhìn nhận là biết tôn trọng và quan tâm đến ý kiến của người khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và hợp tác của họ hiệu quả hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp phần giải quyết mâu  thuẫn một cách hài hòa và xây dựng.

Kĩ năng lắng nghe tích cực có quan hệ mật thiết với các kĩ năng giao tiếp, thương lượng, hợp tác, kiềm chế cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn.

     3.1.2.9. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông

Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác,  giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ

Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ.

Kĩ năng thể hiện sự cảm thông  được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm xúc.

     3.1.2.10. Kĩ năng thương lượng.

Thương lượng là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.

Kĩ năng thương lượng bao gồm nhiều yếu tố của kĩ năng giao tiếp như lắng nghe, bày tỏ suy nghĩ và một phần quan trọng của giải quyết vấn đề và giải quyết mâu thuẫn. Một người có kĩ năng thương lượng tốt sẽ giúp giải quyết  vấn đề hiệu quả, giả quyết mâu thuẫn một cách xây dựng và có lợi cho tất cả các bên.

Kĩ năng thương lượng có liên quan đến sự tự tin, tính kiên định, sự cảm thông, tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác và khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân.

     3.1.2.11.   Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.

Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay nhiều người về một vấn đề nào đó.

Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với  thái độ tích cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên và giải quyết cả mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình.

Kĩ năng giải quyết  mâu thuẫn là một dạng đặc biệt của kĩ năng giải quyết vấn đề. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn cần được sử dụng kết hợp với nhiều kĩ năng liên quan khác như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng ra quyết định…

      3.1.2.12.   Kĩ năng hợp tác.

Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.

Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiêu quả với những thành viên khác trong nhóm.

Để có được sự hợp tác hiệu quả, chúng ta cần vận dụng tốt nhiều KNS khác như: tự nhận thức, xác định giá trị, giao tiếp, thể hiện sự cảm thông, đảm nhận trách nhiệm, ra quyết định, giải quyết mâu thuẫn, kiên định, ứng phó với căng  thẳng…

     3.1.2.13.   Kĩ năng tư duy phê phán.

Kĩ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng…xảy ra. Để phân tích một cách có phê phán, con người cần:

Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp…thì kĩ năng tư duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân.

Kĩ năng tư duy phê phán phụ thuộc vào hệ thốn giá trị cá nhân. Một người có được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị.

     3.1.2.14. Kĩ năng tư duy sáng tạo.

Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.

Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.

Tư duy sáng tạo là một kĩ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp.

Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất.

     3.1.2.15. Kĩ năng ra quyết định

Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình huống, những vấn đề cần giả quyết buộc chúng ta phải lực chọn, đưa ra quyết định hành động.

Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời.

Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ, phụ thuộc vào người khác; mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định.

     3.1.2.16. Kĩ năng giải quyết vấn đề.

Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải  trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên quan tới kĩ năng ra quyết định và cần nhiều KNS khác như: Giao tiếp, xác định giá trị, tư duy phê phán,  tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định…

Cũng như kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng, giúp con người có thể ứng phó tích cực và hiệu quả trước những vấn đề,  tình huống của cuộc sống.

     3.1.2.17. Kĩ năng kiên định.

Kĩ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người khác.

Kiên định khác với hiếu thắng, nghĩa là luôn chỉ nghĩ đến quyền và nhu cầu của bản thân, bằng mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình, không quan tâm đến quyền và nhu cầu của người khác.

Kĩ năng kiên định sẽ giúp chúng ta tự bảo vệ được chính kiến, quan điểm, thái độ và những quyết định của bản thân, đứng vững trước những áp lực tiêu cực của những người xung quanh. Ngược lại, nếu không có kĩ năng kiên định, con người sẽ bị mất tự chủ, bị xúc phạm, mất lòng tin, luôn bị người khác điều khiển hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng. Kĩ năng kiên định giúp cá nhân giải quyết vấn đề và thương lượng có hiệu quả.

Để có kĩ năng kiên định, con người cần xác định được các giá  trị của bản thân, đồng thời phải kết hợp tốt với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp.

     3.1.2.18. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.

Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa  trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.

Khi các thành viên trong nhóm có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo được một không khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết vấn đề, đạt được mục tiêu chung của cả nhóm, đồng thời tạo sự thỏa mãn và  thăng tiến cho mỗi thành viên.

Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm có liên quan đến kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự cảm thông, kĩ năng hợp tác và kĩ năng giải quyết vấn đề.

     3.1.2.19. Kĩ năng đạt mục tiêu.

Mục  tiêu là cái đích mà chúng ta muốn đạt tới trong một khoảng thời gian hoặc một công việc nào đó. Mục tiêu có thể về nhận thức, hành vi hoặc thái độ.

Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.

Muc tiêu có thể được đặt ra trong một khoảng thời gian ngắn, như một ngày, một tuần [mục tiêu ngắn hạn]. Mục tiêu cũng có thể cho một thời gian dài như một năm hoặc nhiều năm [mục tiêu dài hạn].

Kĩ năng đặt mục tiêu được dựa trên kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ,…

     3.1.2.20.   Kĩ năng quản lý thời gian.

Kĩ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định.

Kĩ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp con người tránh được căng thẳng do áp lực công việc.

Quản lý thời gian là một trong những kĩ năng quan trọng trong nhóm kĩ năng làm chủ bản thân. Quản lý thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân và của nhóm.

     3.1.2.21. Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.

    Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một KNS quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp  thời.

     Cùng với việc trau dồi kiến thức về kĩ năng sống cũng như việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì bản thân tôi cũng phải tự rèn luyện cho mình những kĩ năng sống ở nơi làm việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Kĩ năng giao tiếp là một trong những kĩ năng cơ bản nhất mà hàng ngày tôi cần dùng, Vì vậy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp, phụ huynh học sinh, thậm chí là từ học sinh của mình để có những cách giao tiếp hoàn hảo nhất. Đặc biệt trong công việc không tránh khỏi những lúc căng thẳng vì vậy kĩ năng ứng phó với tình huống căng thẳng cũng rất cần thiết và cần được tích lũy, trau dồi Và còn rất nhiều kĩ năng khác đang được tôi học hỏi tích lũy và rèn luyện.

      Từ việc hiểu các kĩ năng sống, tự rèn các kĩ năng sống cho bản thân, để tạo hứng thú cũng như tâm thế học tập cho học sinh, tôi thường bắt đầu việc giáo dục lồng ghép những nội dung về kĩ năng sống trong các tiết học bằng những câu chuyện kể, những cuộc thi tìm hiểu kiến thức, những câu đố hay nêu ra những tình huống có vấn đề, để thu hút sự chú ý của các em cũng như kích thích sự tò mò, khám phá những điều mới mẻ ở học sinh.

Ví dụ:

Khi giáo dục cho học sinh về kĩ năng đảm nhận trách nhiệm trong bài “Có trách nhiệm với việc làm của mình” tôi thay ngữ liệu bằng một đoạn phim cho học sinh xem. Đây là một đoạn phim xuất hiện tình huống có vấn đề và có nội dung khá gần gũi với học sinh, hình ảnh sinh động, hấp dẫn. Sau khi học sinh xem song tôi chiếu 4 bức tranh có nội dung chính của đoạn phim.

Đồng thời đưa ra hệ thống câu hỏi để học sinh biết thế nào là có trách nhiệm với việc làm của mình:

- Nhân vật chính trong đoạn phim vừa rồi là ai?

- Bình đã gây ra chuyện gì?

- Sau khi gây ra chuyện Bình cảm thấy như thế nào?

- Theo con Bình nên giải quyết việc này thế nào cho tốt? Vì sao?

- Qua đoạn phim con rút ra bài học gì cho mình?

- Vậy theo con thế nào là người có trách nhiệm?

Tương tự như vậy, khi giáo dục học sinh kĩ năng đặt mục tiêu vượt khó vươn lên trong học tập trong bài “Có chí thì nên”, tôi thay ngữ liệu trong bài bằng một đoạn phim “Bé Thảo đọc thơ” được lấy từ chương trình “Quà tặng cuộc sống” cho học sinh xem. Đây là đoạn phim có nội dung rất gần gũi và chân thực với học sinh. Tôi nghĩ học sinh xem xong sẽ có cảm nhận dường như chính mình trong nội dung phim. Sau đó tôi lưu lại 4 tranh có nội dung liên quan trên màn hình.

Và đưa ra hệ thống các câu hỏi :

+ Nhân vật chính trong đoạn phim vừa rồi là ai?

+ Bạn Thảo gặp những khó khăn gì?

+ Thảo vượt qua khó khăn này như thế nào?

+ Đoạn phim khuyên chúng ta điều gì?

Qua các đoạn phim và các câu hỏi học sinh tìm hiểu để học sinh thấy được nếu chúng ta kiên trì, cố gắng và tự tin thì ắt có ngày thành công.

      3.2. Biện pháp 2:  Điều tra hiện trạng sự hiểu biết của học sinh về kĩ năng sống

      3.2.1. Mục tiêu: Biện pháp này giúp giáo viên xác định được những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh. Qua việc điều tra thực trạng, giáo viên sẽ xác định được học sinh trong lớp còn yếu ở những kĩ năng gì? Những kĩ năng nào cần bổ sung và điều chỉnh.

      3.2.2. Cách tiến hành: Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành điều tra cơ bản để nắm tình hình học sinh, biết được địa bàn cư trú cũng như hoàn cảnh gia đình của các em. Ngoài ra, trong các giờ học và cả những giờ nghỉ tôi luôn cố gắng dành thời gian trao đổi và trò chuyện với các em, tạo sự gần gũi giữa cô và trò. Đội ngũ cán bộ lớp luôn có sự phản ánh kịp thời về tình hình học tập và rèn luyện của các thành viên. Tất cả những điều này giúp cho tôi có thể hiểu học sinh nhiều hơn, phát hiện tốt hơn những điểm mạnh và yếu của các em để từ đó có thể đưa ra những định hướng trong giáo dục.

      Bên cạnh đó, tôi tiến hành một số bài kiểm tra nhỏ như đặt câu hỏi  để các em trả lời hoặc tạo ra một số tình huống cho học sinh giải quyết  để các em được thể hiện những kĩ năng sống hiện có của mình. Qua đó tôi có thể nắm bắt được những kĩ năng sống mà các em còn yếu hoặc thiếu để xây dựng nội dung và phương pháp giáo dục cho phù hợp.

      Ví dụ: Khi dạy bài đạo đức đầu tiên Em là học sinh lớp 5, tôi tổ chức cho các em được nói những suy nghĩ của mình về học sinh lớp 5 có đặc điểm khác so với các lớp khác, có những em rất mạnh dạn tự tin trình bày xong có những em lại rất nhút nhát, không dám nói, nói được rất ít hoặc thậm chí có em còn không nói được gì. Sau giờ học đó tôi đã lập một danh sách những học sinh còn yếu về kĩ năng giao tiếp, tìm hiểu nguyên nhân vì sao em không thể nói : do em không biết diễn đạt hay em biết diễn đạt nhưng lại quá nhút nhát xấu hổ nên em không dám nói, để từ đó tôi đưa ra biện pháp khắc phục cho các em trong những giờ học sau .

       Khi tiến hành điều tra về hiện trạng kĩ năng sống của học sinh trong lớp, tôi tập trung chủ yếu vào một số kĩ năng sống cơ bản như là: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói trước đám đông, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng xử lí tình huống [với một số tình huống tiêu biểu]. Kết quả điều tra về thực trạng một số kĩ năng sống cơ bản của học sinh lớp tôi giai đoạn đầu năm học như sau:

THỨ TỰ

NỘI DUNG ĐIỀU TRA

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

Tốt

Đạt

Cần cố gắng

1

Kĩ năng giao tiếp với thầy cô

9 em

= 17,3 %

17 em

= 32,7%

26 em

= 50 %

2

Kĩ năng giới thiệu trước lớp về bản thân và gia đình

7 em

= 13,5 %

19 em

= 36,5  %

26 em

= 50 %

3

Kĩ năng hợp tác khi làm việc nhóm

9 em

= 17,3 %

24 em

= 46,2 %

19 em

= 36,5%

4

Kĩ năng xử lí một số tình huống

7 em

=  13,5 %

23 em

= 44,2 %

22 em

= 42,3 %

     3.3. Biện pháp 3: Triển khai nội dung và các biện pháp giáo dục lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh trong các bài Đạo đức

      3.3.1. Mục tiêu: Biện pháp này giúp giáo viên xác định được những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh cũng như các phương pháp/ kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng trong từng bài học.

      3.3.2. Cách tiến hành: Qua  một số năm triển khai giáo dục kĩ năng sống trong các nhà trường, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa các các kĩ năng cơ bản được giáo dục trong mỗi bài học như sau:

Tuần

Tên bài học

Các KNS cơ bản được giáo dục

Các phương pháp/ 

 kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng

Bài 1. Em là HS lớp 5

- Kĩ năng tự nhận thức [tự nhận thức được mình là học sinh lớp 5].

- Kĩ năng xác định giá trị [xác định được giá trị của học sinh lớp 5].

- Kĩ năng ra quyết định [biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp trong một số tình huống để xứng đáng là HS lớp 5]

- Thảo luận nhóm

- Động não

- Xử lí tình huống.

Bài 2. Có trách nhiệm về việc làm của mình

- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm [biết cân nhắc trước khi nói hoặc hành động; khi làm điều gì sai, biết nhận và sửa chữa].

- Kĩ năng kiên định bảo vệ những ý kiến, việc làm đúng của bản thân.

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán những hành vi vô trách nhiệm, đổ lỗi cho người khác].

- Thảo luận nhóm.

- Tranh luận.

- Xử lí tình huống.

-  Đóng vai.

Bài 3. Có chí thì nên

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán, đánh giá những quan niệm, những hành vi thiếu ý chí trong học tập và trong cuộc sống].

- Kĩ năng đặt mục tiêu vượt khó khăn vươn lên trong cuộc sống và trong học tập.

- Trình bày suy nghĩ ý tưởng.

- Thảo luận nhóm.

- Làm việc cá nhân.

- Trình bày 1 phút.

Bài 5. Tình bạn

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán, đánh giá những quan niệm sai, những hành vi ứng xử không phù hợp với bạn bè].

- Kĩ năng ra quyết định phù hợp trong các tình huống có liên quan tới bạn bè.

- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với bạn bè trong học tập, vui chơi và trong cuộc sống.

- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông chia sẻ với bạn bè.

- Thảo luận nhóm.

- Xử lí tình huống.

- Đóng vai.

Bài 6. Kính già yêu trẻ

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán, đánh giá những quan niệm sai, những hành vi ứng xử không phù hợp với người già và trẻ em.

-  Kĩ năng ra quyết định phù hợp trong các tình huống có liên quan tới người già, trẻ em.

- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với người già, trẻ em trong cuộc sống ở nhà, ở trường, người xã hội.

- Thảo luận nhóm.

- Xử lí tình huống.

- Đóng vai.

Bài 7. Tôn trọng phụ nữ

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán, đánh giá những quan niệm sai, những hành vi ứng xử không phù hợp với phụ nữ

-  Kĩ năng ra quyết định phù hợp trong các tình huống có liên quan tới phụ nữ.

- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với bà mẹ, chị em gái,cô giáo, các bạn gái và những người phụ nữ khác ngoài xã hội.

- Thảo luận nhóm.

- Xử lí tình huống.

- Đóng vai.

Bài 8. Hợp tác với những người xung quanh

- Kĩ năng hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh trong công việc chung.

- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm hoàn tất một nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác.

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết hê phán những quan niệm sai, các hành vi thiếu tinh thần hợp tác].

- Kĩ năng ra quyết định [biết ra quyết định đúng để hợp tác có hiệu quả trong các tình huống]

- Thảo luận nhóm.

- Động não.

- Dự án.

Bài 9. Em yêu quê hương

- Kĩ năng xác định giá trị [yêu quê hương].

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán đánh giá những quan điểm, hành vi, việc làm không phù hợp với quê hương].

- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng về danh lam thắng cảnh, con người của quê hương.

- Kĩ năng trình bày những hiểu biết của bản thân về quê hương mình.

- Thảo luận nhóm.

- Động não.

- Trình bày 1 phút.

- Dự án.

Bài 11. Em yêu Tổ quốc Việt Nam

- Kĩ năng xác định giá trị [yêu Tổ quốc Việt Nam].

- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về đất nước và con người Việt Nam.

- Kĩ năng hợp tác nhóm.

- Kĩ năng trình bày những hiểu biết về đất nước, con người Việt Nam

- Thảo luận nhóm.

- Động não.

- Trình bày 1 phút.

- Đóng vai.

- Dự án.

Bài 12. Em yêu hòa bình

- Kĩ năng xác định giá trị [nhận thức được giá trị của hòa bình, yêu hòa bình].

- Kĩ năng hợp tác với bạn bè.

- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.

- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về các hoạt động bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh ở Việt Nam và trên thế giới.

- Kĩ năng trình bày suy nghĩ/ ý tưởng về hòa bình và bảo vệ hòa bình.

- Thảo luận nhóm.

- Động não.

- Dự án

- Trình bày 1 phút.

- Phòng tranh.

- Hoàn tất một nhiệm vụ.

Bài 14. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về tình hình tài nguyên ở nước ta.

- Kĩ năng tư duy phê phán [biết phê phán, đánh giá những hành vi phá hoại tài nguyên thiên nhiên].

- Kĩ năng ra quyết định [biết ra quyết định đúng trong các tình huống để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên].

- Kĩ năng trình bày suy nghĩ/ ý tưởng của mình về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

- Thảo luận nhóm.

- Xử lí tình huống

- Dự án

- Động não.

- Trình bày 1 phút.

- Chúng em biết 3.

- Hoàn tất một nhiệm vụ.

     Các nội dung giáo dục tích hợp kĩ năng sống ở trên chủ yếu được tôi lồng ghép trong nội dung mỗi bài. Có thể là đưa vào phần khởi động, giới thiệu bài hoặc đưa trực tiếp vào nội dung bài dạy hay trò chơi củng cố, liên hệ thực tế. Trong quá trình giảng dạy, tôi kết hợp sử dụng giáo án điện tử, các đồ dùng trực quan sinh động với các hình thức “học mà chơi, chơi mà học” như: trò chơi học tập, kể chuyện, đố vui, đóng kịch, xem phim, thực hành giải quyết tình huống để các em tự suy ngẫm, từ đó rút ra ý nghĩa của bài học.

Ví dụ: Để giáo dục học sinh kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về đất nước và con người Việt Nam trong bài “Em yêu Tổ quốc Việt Nam” tôi dặn dò học sinh từ tiết học trước về nhà sưu tầm tranh ảnh, thông tin về các phong cảnh đẹp của Việt Nam. Khi tiến hành tìm hiểu thông tin của bài học tôi cho các em làm việc trong nhóm 4, chia sẻ với các bạn trong nhóm thông tin của mình rồi gọi đại diện các nhóm trình bày trước lớp với kĩ thuật trình bày 1 phút. Và qua hoạt động này tôi rèn cho học sinh kĩ năng hợp tác nhóm khi chia sẻ trong nhóm những thông tin mà mình tìm được và kĩ năng trình bày trước đám đông.

Ví dụ: Để giáo dục kĩ năng tư duy phê phán trong bài “Có chí thì nên” tôi thay đổi ngữ liệu trong SGK bằng những tình huống gần gũi, có thật với học sinh như:

a] Gia đình nhà Lan ngheo, bố mất sớm, mẹ thường xuyên đau ốm nhưng Lan vẫn học giỏi.

b] Nhà Hương ở xa, đường đến trường hay bị tắc nên Hương thường đi học muộn.

c] Chữ bạn Tâm rất xấu nhưng sau hai năm kiên trì rèn luyện, nay Tâm viết vừa đẹp, vừa nhanh.

d] Sáng mùa đông, chuông đồng hồ báo thức reo nhiều lần nhưng Nam tắt chuông rồi chùm chăn ngủ tiếp.

Tiếp theo tôi yêu cầu học sinh giơ thẻ để thể hiện những biểu hiện mình cho là có ý chí. Thẻ màu xanh là biểu hiện có ý chí, thẻ màu đỏ là biểu hiện không có ý chí, thẻ màu vàng là lưỡng lự. Sau mỗi lựa chọn của học sinh tôi sẽ hỏi học sinh vì sao lại lựa chọn đáp án đó. Qua lời giải thích của học sinh có thể khẳng định được kĩ năng tư duy phê phán đối với những biểu hiện chưa có ý chí.

Ví dụ: Khi giáo dục học sinh kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình trong bài “Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên” qua bài tập 5, tôi cho các em thảo luận nhóm 6 đưa ra các biện pháp sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên hoặc đưa ra những ý tưởng để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên dưới hình thức chúng em biết ba. Qua đó phát huy được khả năng tư duy, óc sáng tạo của các em.

        3.4. Biện pháp 4: Kết hợp rèn kĩ năng sống trong môn Đạo đức và các môn học khác

        3.4.1. Mục tiêu: Biện pháp này giúp cho giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh không chỉ trong môn Đạo đức mà còn trong các môn học khác có trong chương trình lớp 5.

        3.4.2. Cách tiến hành: Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân tôi đã vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An toàn giao thông .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.

       Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.

Ví dụ:            

Bài : Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai [Tuần 4]         Kĩ năng sống cần đạt : Thể hiện sự cảm thông. [Cảm thông với những nạn nhân của vụ thảm sát Mĩ Lai, đồng cảm với hành động dũng cảm của người Mĩ có lương tri]        Phương pháp/Kĩ thuật dạy học: Trao đổi về ý nghĩa câu chuyện; Tự bộc lộ.       Với bài này các em sẽ được bộc lộ những suy nghĩ của mình sau khi nghe giáo viên và các bạn của mình kể câu chuyện.       Các em có thể đặt các câu hỏi để phỏng vấn bạn mình sau khi nghe bạn kể lại câu chuyện, ví dụ như:         - Chuyện giúp bạn hiểu được điều gì?         - Bạn suy nghĩ gì về chiến tranh?         - Hành động của những người lính Mĩ có lương tâm giúp bạn hiểu được ra điều gì?        Mỗi câu trả lời sẽ là những suy nghĩ được các em bộc lộ ra và từ đó các em sẽ hiểu được ý nghĩa của câu chuyện và có sự cảm thông chia sẻ với những nạn nhân của vụ thảm sát ở Mĩ Lai và có nhận thức về những tội ác man rợ của quân đội Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam.         Mục tiêu rèn kĩ năng sống này được thực hiện ở phần học sinh tham gia kể lại câu chuyện và trao đổi về ý nghĩa của câu chuyện.

        Bài : Luyện tập thuyết trình tranh luận [Tuần 9]


        Kĩ năng sống cần đạt: Thể hiện sự tự tin[Nêu được những lí lẽ,dẫn chứng cụ thể, thuyết phục; diễn đạt gẫy gọn, thái độ bình tĩnh , tự tin]; Hợp tác [Hợp tác luyện tập thuyết trình tranh luận]

Video liên quan

Chủ Đề