Nguyễn ngọc nại là ai

Từ đó, dân làng Tứ Tổng lấy ngày này là ngày “giỗ trận” chung cho những người đã bị giết hôm ấy. Và ngày này là ngày giỗ Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Ngọc Nại cùng 7 đồng đội của anh.

Sau 60 ngày đêm Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, hoàn thành nhiệm vụ kìm chân và tiêu hao lực lượng của thực dân Pháp đồng thời bảo vệ 38 nghìn người dân Liên khu I [thuộc 36 phố phường Hà Nội cũ] tản cư an toàn, được lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đêm 17/2/1947, các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đã vượt qua vòng vây dày đặc của quân địch, vượt sông Hồng rút quân an toàn lên chiến khu. Một cuộc rút lui thần kỳ mà lịch sử mãi mãi ghi nhận.

Cuộc rút lui đã được tổ chức chặt chẽ, chu đáo và đã thành công.

Nhằm che mắt địch, ngày 16/2/1947, Ban chỉ huy Liên khu I thỏa thuận với lãnh sự Trung Hoa đồng ý cung cấp lương thực và tổ chức cho Hoa Kiều ở Liên khu I tản cư ra ngoài vào ngày 17 hoặc 18/2. Và, theo đề nghị của lãnh sự quán Trung Quốc, ta và Pháp đồng ý tạm ngừng bắn một ngày [18/2/1947] để Hoa kiều phố Hàng Buồm đi tản cư công khai ra khỏi Hà Nội. Vậy là thời cơ để tiến hành cuộc rút lui đã tới.

Để đánh lạc hướng chú ý của thực dân Pháp, ta mở cuộc tấn công mạnh vào Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy, Ô Chợ Dừa, tung nhiều phân đội vào nội thành tập kích. Ban chỉ huy mặt trận quyết định ngay trong đêm 17/2, phải đưa quân vượt sông Hồng.

Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, từ khi có lệnh của cấp trên, Ban Chỉ huy Trung đội tự vệ xã Tứ Liên đã huy động được 44 thuyền gỗ để làm nhiệm vụ đặc biệt.

Nguy hiểm nhất là việc qua gầm cầu Long Biên bởi khu vực đó, địch kiểm soát rất gắt gao. Hai bên đầu cầu đều có xe bọc thép, xe tăng địch… xếp hàng trên thành cầu chĩa súng xuống dưới, đèn pha quét liên tục.

Bắt đầu từ 17h ngày 17/2/1947, Đội liên lạc Hồng Hà của Nguyễn Ngọc Nại đã dẫn đường cho Trung đoàn Thủ đô gồm 1.200 người chia thành từng đơn vị nhỏ lặng lẽ đi từ đình Phất Lộc ra Cột đồng hồ qua gầm cầu Long Biên rồi men chân đê lên Tứ Tổng sang sông con, giấu quân ở chùa Tàm Xá và trong rừng dâu.

Trong sương mù dày đặc, những chiếc thuyền tam bản và thuyền gỗ lớn của dân Tàm Xá, Tứ Tổng, Tam Lạc đã vượt sông Hồng sang bến Dâu thuộc Xuân Canh [Đông Anh]. Đó chính là con đường mà Đội liên lạc Hồng Hà đã tìm ra trong quá trình liên lạc, tiếp tế cho Trung đoàn Thủ đô gần 1 tháng qua. Đến 8h ngày 18/2, toàn Trung đoàn đã vượt sông xong.

Sáng 18/2/1947, Hoa kiều phố Hàng Buồm mới phát hiện trạm quân y của ta đã rút hết. Họ không tản cư nữa mà chọn giải pháp ở lại cho an toàn. Quân Pháp không thấy Hoa kiều tản cư, mới biết quân ta đã rút, vội truy kích, nhưng đã muộn.

Đến trưa ngày 18/2, Trung đoàn trưởng Hoàng Siêu Hải giao thêm nhiệm vụ cho đội liên lạc Hồng Hà chuẩn bị đưa Trung đoàn qua sông sang vùng tự do Phúc Yên ngay trong ngày. Nhận lệnh, Đội liên lạc lại khiêng thuyền ngược bãi giữa lên Tàm Xá để sẩm tối tổ chức cho Trung đoàn vượt sông, đồng thời huy động thêm được hai chiếc thuyền to, chở được năm sáu chục người mỗi chuyến. Vì thế, việc đưa bộ đội qua sông được tiến hành rất nhanh gọn, chỉ quá nửa đêm 18/2 Trung đoàn Thủ đô đã sang đến đất Phúc Yên an toàn tuyệt đối.

Sáng 19/2/1947, khi những chiến sĩ cuối cùng sang sông thì cũng là lúc thực dân Pháp huy động thủy - lục - không quân lên Tàm Xá hòng tiêu diệt Trung đoàn. Chúng điên cuồng nã đại bác và thả quân truy sát theo đoàn quân về tận hai làng Tàm Xá và Tứ Tổng. Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại phân công 2 đội viên nhanh chóng đưa nốt các chiến sĩ của Trung đoàn sang sông, còn anh và 7 đội viên ở lại bến Dâu - Tàm Xá chiến đấu.

Các chiến sĩ Đội Liên lạc đã chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, thu hút hỏa lực địch về phía mình, kìm chân địch để đoàn quân vượt sông an toàn. Ông Đỗ Văn Túc là một trong hai người của Đội còn sống kể lại rằng “đồng chí Nại chỉ đạo phải để địch tiến giáp lá cà mới được bắn vì đạn của ta ít, không được phung phí”.

Trong cuộc chiến đấu không cân sức ấy, cả tám chiến sĩ anh dũng hy sinh sau khi đã bắn hết đạn, ném hết lựu đạn. Cũng theo ông Túc, Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại và 7 đội viên Đội Liên lạc còn bị “… bọn ác ôn bắn nát người, mặt, xé rách quần áo, trên cổ mỗi người đã hy sinh đều có một vết cắt sâu… chúng tôi chỉ nhận ra mỗi người qua hình dáng…”

Sáng sớm hôm đó, 19/2/1947, quân Pháp đã tấn công cả đường thủy lẫn đường bộ vào khu B làng Tứ Tổng ở bãi giữa sông Hồng [nay là phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội]. Tại đây, chúng đã gây ra một cuộc thảm sát, thiêu trụi 196 ngôi nhà, phá sập đình Vạn và đình Xuyên, đập nát 44 chiếc thuyền, 27 người bị giết và 70 người bị bắt khi thực dân Pháp phát hiện người dân nơi đây đã trực tiếp đưa toàn bộ Trung đoàn Thủ đô vượt sông.

Khoảng 11h trưa, địch rút về phía Hà Nội.

Từ đó, ngày 19/2 [29 tháng Giêng âm lịch] là ngày giỗ của Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại và 7 đội viên Đội liên lạc Hồng Hà, đồng thời là ngày “giỗ trận”, giỗ chung của 27 người dân làng Tứ Tổng. Đây cũng là dịp mỗi người dân trong làng, nhất là thế hệ trẻ nhớ về truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của thế hệ đi trước.

Những ngôi mộ của các đội viên Đội Liên lạc Hồng Hà

Ngay khi Nguyễn Ngọc Nại hy sinh, gia đình ông và xóm làng đã tận tay chôn cất ông và 7 người đồng đội ở bờ sông. Đến năm 1954, hòa bình lập lại, gia đình quay lại bờ sông tìm 8 phần mộ thì không thấy nữa. Sau này mới biết người dân Xuân Canh đã cẩn thận chuyển 8 ngôi vào phía trong vì sợ đất lở, nhưng vì không có bia nên họ không biết lai lịch của những ngôi mộ này, chỉ biết là chiến sĩ tự vệ của ta.

Đến năm 1991, khi xây nghĩa trang liệt sĩ, UBND xã Xuân Canh đã quy tập luôn 8 ngôi mộ liệt sĩ vô danh vào đây. Năm 1997, nghĩa là đúng 50 năm kể từ khi Đội liên lạc đặc biệt Nguyễn Ngọc Nại ngã xuống, các phần mộ được gia đình và quê hương Ngọc Thụy tìm lại được. Từ đó 8 ngôi nằm song song thành 2 hàng vẫn tại Nghĩa trang Xuân Canh, nhưng phía trên có tấm bia chung ghi: Đội liên lạc đặc biệt Nguyễn Ngọc Nại, vì không ai biết ngôi mộ nào là của ai.

Đến ngày 18/3/2009, khi Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác [Chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý VN] cùng với hai nhà ngoại cảm đã xác định danh phận của 8 ngôi mộ đặc biệt trong nghĩa trang xã Xuân Canh sau hơn 60 năm.

Giờ đây, 8 ngôi mộ trong nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân Canh, ngoài một tấm bia chung phía trên, ghi tên Đội liên lạc đặc biệt Nguyễn Ngọc Nại, còn có 8 tấm bia trên 8 ngôi mộ nằm thành 2 hàng song song với những dòng tên trang trọng: Anh hùng - liệt sĩ Nguyễn Ngọc Nại và các liệt sĩ sau đây:

1- Nguyễn Ngọc Nại

2- Nguyễn Công Lực

3- Nguyễn Công Quảng

4- Nguyễn Như Văn

5- Ngô Chí Thông

6- Nguyễn Ngọc Dung

7- Ngô Đăng Mão

8- Nguyễn Văn Hát [hiện vẫn chưa tìm thấy thân nhân].

Các Anh đã trở thành Phúc Thần linh thiêng của cả Phúc Xá và Xuân Canh.

Hai đội viên được Đội trưởng giao nhiệm vụ nhanh chóng dẫn nốt số anh em Trung đoàn ra bến đò đến làng Dâu, còn sống sót là ông Đỗ Văn Túc và bà Nguyễn Thị Chén.

Năm 1996, Đội liên lạc và Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại, một đảng viên Cộng sản mới 18 tuổi đời [theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây] được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; bảy đội viên được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

Một đường phố ở Hà Nội đã được mang tên Nguyễn Ngọc Nại - đường phố này ở quận Thanh Xuân, song song với phố Hoàng Văn Thái và vuông góc với phố Vương Thừa Vũ.

Phạm Thúy Loan [tổng hợp]

Như thể tâm linh thôi thúc, tôi đội nắng hè chang chang sang nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân Canh [huyện Đông Anh], nơi các chiến sĩ của Đội Liên lạc Nguyễn Ngọc Nại đang yên giấc ngàn thu. Thắp nén hương thơm dâng lên hương hồn các anh, lòng tôi xiết bao ngậm ngùi khi không thấy tên các anh trên hai hàng bia mộ.

Đội Liên lạc ra đời trong 60 ngày “Hà Nội cháy khói lửa ngút trời”... Tháng 1/1947, thực dân Pháp đánh chiếm cửa ô Yên Phụ, Đội giao thông liên lạc Trúc - Lãng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp tế, liên lạc cho Trung đoàn Thủ đô đang bám trụ giữa vòng vây của địch trong Liên khu I. Theo lệnh của Chính ủy  Trung đoàn Thủ đô Lê Trung Toản và đồng chí Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch Ủy ban  kháng chiến hành chính khu Phúc Xá, trung đoàn đã chọn lựa các chiến sĩ tự vệ gan dạ, dũng cảm của khu để thành lập Đội Liên lạc, Đồng chí Nguyễn Ngọc Nại được cử làm Đội trưởng. Địa điểm nhận công văn, thư từ, lương thực, thực phẩm của hậu phương là chùa Tàm Xá.

Từ tháng 1 đến 16/2/1947, các chiến sĩ liên lạc đã giữ vững mạch máu thông tin, tiếp tế cho Trung đoàn. Đêm 17/2/1947, các anh dẫn đường cho Trung đoàn rút khỏi Liên khu I, từ Hàng Bạc qua ngõ Phất Lộc xuống gầm cầu Long Biên, men theo chân đê lên bãi Tàm Xá rồi qua sông Hồng sang bến Dâu [Đông Anh] ra hậu phương an toàn.

Sáng 19/2/1947, khi những chiến sĩ cuối cùng sang sông thì cũng là lúc thực dân Pháp huy động thủy - lục - không quân lên Tàm Xá hòng tiêu diệt Trung đoàn. Các chiến sĩ Đội Liên lạc, dưới sự chỉ huy của Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại đã chiến đấu quyết liệt với kẻ thù trên bãi dâu Tàm Xá. Và trong cuộc chiến đấu không cân sức ấy, tám chiến sĩ hy sinh anh dũng. Hai đội viên là: Nguyễn Thị Chén và Đỗ Văn Túc bị thương, được bờ sông che chở đã thoát hiểm.

Năm tháng qua đi, bãi dâu Tàm Xá không còn. [Do sự biến đổi của dòng chảy cuối những năm 50 của thế kỷ XX, bãi Tàm Xá không còn ở giữa sông Hồng nữa, nhân dân sang Đông Anh sinh sống, thuộc đơn vị hành chính huyện Đông Anh]. Thân nhân các liệt sĩ ở quê hương Bắc Biên [Gia Lâm] những tưởng hài cốt các anh đã theo dòng phù sa trôi dạt đâu đó. Nhưng không, tám chiến sĩ vẫn nằm bên nhau, trong lòng đất xã Xuân Canh [Đông Anh] từ ngày tháng xa xưa ấy.

Câu chuyện bất ngờ tìm thấy hài cốt các anh bắt đầu từ năm 1992. Tính đến lúc đó ông Nguyễn Minh Tiến, Chủ tịch UB Kháng chiến hành chính khu Phúc Xá ngày ấy [và sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Công an] đã trải 25 năm kiên trì, nhẫn nại ôm tập hồ sơ đến các cơ quan chức năng, đề nghị phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Đội Liên lạc.

Trong những tháng ngày lao tâm khổ tứ đi “gõ cửa” các cấp có thẩm quyền, ông vẫn đau đáu nỗi đau chưa tìm được hài cốt các liệt sĩ, trong đó có em ruột mình là Nguyễn Công Quảng. Ông la cà hỏi các bô lão ở Tứ Tổng, Tứ Liên, Vạn Ngọc nhưng không ai biết gì về hài cốt của các anh. Những lần đến nhà ông ở phố Trần Bình Trọng, tôi được ông giở cho xem tập hồ sơ dày cộp mà những tờ trình từ năm 1957 đến năm 1980 đã ố vàng. Đôi mắt ông đỏ hoe khi sống lại hồi ức của một thời gian khổ.

Hy vọng tìm được hài cốt các liệt sĩ là rất mong manh. Nhưng thật bất ngờ - bao năm “đáy bể mò kim”, hay đâu có một ngày người bạn cũ thuở “nếm mật nằm gai” những năm 1949 - 1950 là ông Hoàng Minh Tiến cho biết mộ tám chiến sĩ nằm trong nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân Canh. Nửa tin, nửa ngờ, ông cùng bạn đến tận nơi và cứ để cho nước mắt buồn tủi tuôn trào trước hai hàng bia mộ vô danh. Khi gặp gỡ ông Hoàng Minh Tiến và đồng chí Phó chủ tịch phụ trách văn - xã tại trụ sở UBND xã Tàm Xá, tôi cũng hết sức ngạc nhiên hỏi ông: “Vì sao các liệt sĩ Đội Liên lạc vẫn nằm ở đất Xuân Canh mà không ai biết tung tích các anh?”.

Vẻ mặt quắc thước, cương trực, thông tuệ, ông kể lại những nỗi vất vả, khó khăn và sự ngẫu nhiên trời cho: Trong quá trình sưu tầm tư liệu để viết lịch sử xã Tàm Xá, khi đến xã Xuân Canh, nhìn thấy tám ngôi mộ vô danh, ông lần hỏi những người cao tuổi đã từng tham gia chiến đấu cuối năm 1946 đầu năm 1947. So sánh và khớp lại các chi tiết của các nhân chứng lịch sử hai xã Xuân Canh và Tàm Xá, ông có đủ tư liệu thực tế xác đáng để khẳng định: đây chính là hài cốt các chiến sĩ Đội Liên lạc.

Thì ra ít ngày sau khi  thực dân Pháp tàn sát thảm khốc dân làng Tứ Liên, Tàm Xá, Vạn Ngọc [19/12/1947], những người lánh nạn trở về làng đã nhận mặt những người thân bị chúng giết hại. Riêng tám chiến sĩ Đội Liên lạc, không ai biết là người của làng Bắc Biên nên đã đưa sang bãi nhãn và chân đê xã Xuân Canh chôn cất. Mãi đến năm 1991, có nghĩa trang liệt sĩ, chính quyền xã Xuân Canh đưa hài cốt các liệt sĩ, trong đó có cả liệt sĩ của Đội Liên lạc vào nghĩa trang; nhưng vẫn không ai biết danh tính và quê quán nên đành đặt các anh quây quần bên nhau trong khu mộ vô danh.

Năm 1993, sau sự phát hiện, khảo cứu của ông Hoàng Minh Tiến và cuộc hội thảo khoa học với Viện Khoa học Lịch sử quân sự Việt Nam, Quân khu Thủ đô, Trung đoàn Thủ đô, các anh mới được trả lại danh tính chung: liệt sĩ Đội Liên lạc khu Phúc Xá, đội viên Đội tự vệ thành Hoàng Diệu.

Ngày đến nghĩa trang liệt sĩ Xuân Canh để nhận hài cốt, ông Nguyễn Minh Tiến đã đọc bài điếu hương hồn các liệt sĩ bằng thơ rất xúc động. Ông và mọi người đều khóc trong nỗi đau xót, ngậm ngùi. Sau đó, theo nguyện vọng một số thân nhân liệt sĩ, nhà ngoại cảm Đỗ Bá Hiệp đến tận nơi để xác định tên từng người nhưng cũng chỉ tìm được bốn liệt sĩ còn đủ hài cốt, bốn liệt sĩ khác, hài cốt đã trộn lẫn với nhau. Trong nỗi đau chung, thân nhân các liệt sĩ phải để các anh ở lại Xuân Canh.

Năm 1996, Đội Liên lạc và Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại được Nhà nước truy tặng Anh hùng LLVTND; bảy đội viên được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Vinh dự tự hào và ghi nhớ công ơn các anh, năm 1997, nhân kỷ niệm Ngày thương binh liệt sĩ, Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Thụy dựng  tấm bia lớn sau hai hàng mộ liệt sĩ khắc dòng chữ: Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ Đội Liên lạc đặc biệt Đặc khu Phúc Xá - Liên khu I Hà Nội.

Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Trên bia cũng ghi rõ tên 8 liệt sĩ và các danh hiệu cao quý mà Nhà nước đã truy tặng các anh. Nhưng trên từng bia mộ, tôi thật xót lòng khi đọc dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên. 29/1 Đinh Hợi - đội viên tự vệ Thành Hà Nội”. 29/1 Đinh Hợi chính là ngày 19/2/1947 - ngày giỗ chung của các anh!

Cùng với các liệt sĩ xã Xuân Canh, các anh nằm giữa cánh đồng thơm hương lúa chín. Xuân Canh đã trở thành quê hương thứ hai của các liệt sĩ Bắc Biên - Ngọc Thụy trong nghĩa tình sâu nặng thiêng liêng. Chuyện về các liệt sĩ Đội Liên lạc Nguyễn Ngọc Nại hiến dâng tuổi thanh xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc, và hài cốt của các anh được lưu giữ trong lòng đất Xuân Canh, nhưng nửa thế kỷ sau mới xác định được danh tính chung là một trong hàng ngàn huyền thoại bi hùng trong sử thi giữ nước của dân tộc

Phạm Kim Thanh

Video liên quan

Chủ Đề