Nguyễn Trãi là con người như thế nào

Đề bài: Em hiểu gì về tác giả Nguyễn Trãi?

Bạn đang xem: Em hiểu gì về tác giả Nguyễn Trãi?

Bài làm:

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn hóa, tư tưởng và văn thơ kiệt xuất mà ông còn là một nhà quân sự, chính trị và ngoại giao tài ba. Sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Nguyễn Trãi có đóng góp to lớn vào sự nghiệp của văn học – tư tưởng nước nhà, và có tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với văn hóa thế giới. Có thể khẳng định rằng cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành một bức tượng đài hùng vĩ sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Trãi 1380 – 1442 [hiệu là Ức Trai], sinh ra tại làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, Hà Đông [nay là huyện Thường Tín, Hà Nội]. Ông được sinh ra trong một gia đình Nho giáo có truyền thống hiếu học, nghĩa khí hào hiệp và lòng yêu nước sâu sắc, cha ông là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái [con gái của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán]. Ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã thông minh và hiếu học, chính vì thế ông là một người học rộng tài cao, năm 1400 đã đỗ thái học sinh, giữ chức Ngự sử đài Chính chưởng, cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Tuy nhiên, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh bắt cha ông sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi có ý đi theo phục vụ và chăm sóc cha nhưng đã được cha ông khuyên nên trở về để tìm cơ hội trả nợ nước, báo thù nhà. Nguyễn Trãi nghe lời cha, đi theo nghĩa quân Lam Sơn, trở thành trợ thủ đắc lực cho Lê Lợi đánh giặc Minh, thống nhất đất nước. Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phụng Đại Phu Thừa chỉ học sĩ Hàn Lâm Viện, có thể nói, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự, ngoại giao đại tài khi đưa ra nhiều chiến lược và sách lược cho Lê Lợi, mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với bài cáo bất hủ “Bình Ngô đại cáo”. Tài năng và tấm lòng trung quân ái quốc của Nguyễn Trãi là không thể phủ nhận, thế nhưng cuộc đời của ông lại đầy thăng trầm, sóng gió và trắc trở, đỉnh điểm là cái chết đầy oan khuất của ông. Nguyễn Trãi không chỉ giỏi về quân sự, chính trị mà còn thông thạo ở nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lí… đại diện như các tác phẩm: Dư địa chí, Lam Sơn thực lực, đặc biệt đối với văn học nước nhà, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng đầu tiên cho văn học chữ Nôm bằng tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập”.

“Quân trung từ mệnh tập” là tập văn chiến có ý nghĩa sức mạnh hơn mười vạn quân, nói về đường lối chính trị, sức mạnh chiến đấu kết hợp giữa tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được coi như bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, là một áng “Thiên cổ hùng văn” sáng ngời. Nói về văn chương của Nguyễn Trãi, ta thấy được thơ văn của ông thấm đậm tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo, tinh thần yêu nước thương dân. Nguyễn Trãi đã để lại một di sản thơ ca đồ sộ với hàng nghìn bài thơ, đặc biệt là tập thơ “Ức trai thi tập” được viết bằng chữ Hán với 105 bài thơ và tập thơ “Quốc âm thi tập” viết bằng chữ Nôm, đây cũng là tập thơ được vinh danh là tập thơ Nôm tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam suốt hơn 500 năm. Tư tưởng bao trùm thơ văn Nguyễn Trãi chính là yêu nước – thương dân, bên cạnh đó, ông còn gửi gắm nhiều triết lí sâu sắc và giản dị được đúc kết bằng cả một đời trải nghiệm. Giá trị nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Trãi rất phong phú, đối với văn chính luận, nét đặc sắc nằm ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén và bút pháp linh hoạt. Đối với thơ của Nguyễn Trãi, đó là cả một thế giới thẩm mĩ phong phú và đa dạng, vừa hào hùng lại lãng mạn bay bổng, vừa cảm hóa trí tuệ lại vừa sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm. Đặc biệt thơ ông dành nhiều cho tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống, với ngôn ngữ thơ bình dị, dân giã cho thấy một phong cách thơ thanh cao mà trong sáng. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi được thể hiện trên hai khía cạnh đó chính là lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng, lí tưởng của ông chính là “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, còn phẩm chất anh hùng bộc lộ ở lòng kiên trung, cứng cỏi, thanh khiết. Hòa hợp với con người anh hùng chính là con người trần thế trong tâm hồn của Nguyễn Trãi, ông biết đau nỗi đau con người và yêu tình yêu của con người. Ông đau cho mình thì ít còn đau cho đời lại nhiều, luôn dành tình cảm nồng hậu và chân thành cho bạn bè, người thân, làng xóm và quê hương của mình.

Đối với dân tộc Việt Nam ta, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi mãi là một bản trường ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ông đã để lại một di sản to lớn cho thế hệ mai sau về nhiều lĩnh vực văn hóa, quân sự, chính trị, ngoại giao, lịch sử, địa lí, văn học,… Nguyễn Trãi không chỉ tạo dựng nền tảng cho văn học nước nhà, lại có công lớn trong dựng nước và giữ nước, xứng đáng là một trong 14 vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.

Ngoài bài làm văn thuyết minh Em hiểu gì về tác giả Nguyễn Trãi? các bạn cũng có thể tham khảo thêm nhiều hơn nữa những bài làm văn mẫu khác như Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?, Giới thiệu một tác giả văn học mà em yêu thích, Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi, Viết bài văn thuyết minh về tác gia Nguyễn Du, hay rất nhiều những tài liệu hay khác như Cách làm bài văn thuyết minh các bạn cùng tham khảo để ứng dụng cho quá trình học tập và làm văn tốt nhất.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục

-  Nét chính về tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Trãi.

+ Tên hiệu ức Trai [1380-1442], quê gốc Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây, Cha là Nguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh, ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

+ Sống trong giai đoạn lịch sử nhiều biến động [triều đại nhà Trần suy vong, nhà Hồ cướp ngôi, giặc Minh xâm lược].

+ Nguyễn Trãi tìm đến khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, có công lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc thế kỉ XV.

+ Do nhiều biến động, năm 1439 Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, rồi trở lại làm quan dưới thời Lê Thái Tông.

+ Năm 1442 vụ án oan khốc Lệ Chi Viên khiến Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc.

+ Năm 1464 ông được minh oan, và được Lê Thánh Tông tặng bảy chữ: “ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” [Tấm lòng ức Trai sáng như sao Khuê buổi sáng].

+ Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử phong kiến Việt Nam, ông để lại cho đời sau một di sản to lớn trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự nghiệp văn học.

+ Các tác phẩm lớn: Quân trung từ mệnh tập, Lam Sơn thực lục, Bình Ngô đại cáo, ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập...

-   Những nét lớn trong giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi.

+ Tư tưởng bao trùm là tư tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc.

+ Những tư tưởng triết lí sâu sắc, thể hiện sự trải nghiệm, nhân cách cứng cỏi, thanh khiết.

+ Tình yêu bao la với thiên nhiên tạo vật.

+ Tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, lãng mạn.

+ Nghệ thuật thơ văn đạt đến độ tinh luyện, giàu tính trí tuệ, vẻ đẹp thẩm mĩ, chất nhân văn,ngôn ngữ trong sáng, hình thức nhiều sáng tạo.

-   Tóm lại

+ Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao thiên tài, nhà văn hóa tư tưởng, nhà văn thơ kiệt xuất. Con người lỗi lạc bậc nhất mà cũng có số phận oan khiên bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

I - CUỘC ĐỜI

Nguyễn Trãi [1380 – 1442] hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại [Chí Linh, Hải Dương] sau dời về Nhị Khê [Thường Tín, Hà Tây]. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long [sau đổi là Nguyễn Phi Khanh], một nho sinh nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh [Tiến sĩ] thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ [ngang Tể tướng] Trần Nguyên Đán.

Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà bên nội cũng như bên ngoại đều có hai truyền thống lớn: yêu nước và văn hoá, văn học. Thuở thiếu thời, Nguyễn Trãi đã phải chịu những mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi mới vừa 10 tuổi. Năm 1400, Nguyễn Trãi đõ Thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. “Nợ nước, thù nhà”, Nguyễn Trãi khắc sâu lời cha dặn: “Con trở về lập chí, rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã từ Đông Quan [Hà Nội ngày nay] tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa. Ông đã góp phần to lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Cuối năm 1427 đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Ông hăm hở tham gia vào công cuộ xây dựng lại đất nước. Nhưng rồi những mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến dẫn đến sự sát hại các công thần, bản thân Nguyễn Trãi bị nghi oan, bị bắt giam. Sau đó ông được tha nhưng không còn được tin dùng như trước. Năm 1439, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được Lê Thái Tông mời ra giúp việc nước. Năm 1442, giữa lúc Nguyễn Trãi đang gánh vác trọng trách với dân với nước thì oan án Lệ Chi viên [Trại Vải] bỗng đổ ập xuống gia đình, dòng họ ông. Nhân cái chết đột ngột của Lê Thái Tông ở Lệ Chi viên [Đại Lại, Gia Lương, Bắc Ninh], bọn gian thần trong triều vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội “tru di tam tộc” [giết cả ba họ]. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn của ông và tìm con cháu còn sống sót để bổ làm quan. Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhà văn hoá lớn. Năm 1980, Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc [UNESCO] đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hoá thế giới.

II - SỰ NGHIỆP THƠ VĂN

1. Những tác phẩm chính

Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị.

Những tác phẩm chính viết bằng chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại. Sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn [sáu chữ]. Ngoài sáng tác văn học, Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí, một bộ sách địa lí cổ nhất của Việt Nam.

Sau thảm hoạ tru di tam tộc, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị thiêu huỷ nhiều. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh sưu tập lại trước tác của ông và phải đến thế kỉ XIX, tác phẩm của Nguyễn Trãi mới được sưu tầm tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, di sản văn học Nguyễn Trãi còn đến ngày nay chắc chắn chưa phải là toàn bộ sự nghiệp văn học vĩ đại của ông.


2. Nguyễn Trãi – nhà văn chính luận kiệt xuất

Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Ông đã để lại khối lượng khá lớn văn chính luận: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, chiếu biểu viết dưới triều Lê,... Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các áng văn chính luận của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân.

Quân trung từ mệnh tập gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh,... Tác phẩm là tập văn chiến đấu “có sức mạnh của mười vạn quân” [Phan Huy Chú]. Sức mạnh ấy có được từ sự kết hợp tuyệt diệu giữa tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước với nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy. Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở Bình Ngô đại cáo, sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng yêu nước đã hoà làm một:


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyễn Trãi quan niệm khi đất nước có ngoại xâm thì yêu nước, nhân nghĩa, anh hùng là chống xâm lược. Trong cảnh thái bình, ông vẫn ước vọng nhà nước phong kiến dùng nhân nghĩa để “trị” dân, “khoan” dân,... Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

3. Nguyễn Trãi – nhà thơ trữ tình sâu sắc

Hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.

Lí tưởng của người anh hùng là sự quyện hoà giữa nhân nghĩa với yêu nước, thương dân. Lí tưởng ấy lúc nào cũng thiết tha, mãnh liệt: “Bui[1] một tấc lòng ưu ái[2] cũ – Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.” [Thuật hứng – bài 2].

Phẩm chất, ý chí của người anh hùng luôn ngời sáng trong chiến đấu chống ngoại xâm cũng như trong đấu tranh chống cường quyền, bạo ngược vì chân lí: “Vườn quỳnh dầu chim kêu hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn.” [Tự thán – bài 40].

Dáng ngay thẳng, cứng cỏi của cây trúc, vẻ thanh tao, trong trắng của cây mai, sức sống khoẻ khoắn của cây tùng - những phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử - đều có ở Nguyễn Trãi. Điều đáng quý là tất cả những phẩm chất ấy không phải để làm đẹp cho riêng bản thân mà là để giúp dân, giúp nước “Dành còn để trợ dân này” [Tùng ].


Là bậc anh hùng với lí tưởng cao cả, Nguyễn Trãi cũng là một con người trần thế. Ông đau nỗi đau của con người, yêu tình yêu của con người. Nguyễn Trãi đau khi chứng kiến nghịch cảnh éo le của xã hội cũ: “Phượng những tiếc cao diều hãy liệng – Hoa thường hay héo cỏ thường tươi.” [Tự thuật – bài 9]. Từ nỗi đau trước thói đời đen bạc “Bui một lòng người cực hiểm thay”, nhà thơ khao khát sự hoàn thiện của con người và mơ ước xa hội thái bình, thịnh trị “Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn”. Tình yêu của Nguyễn Trãi dành nhiều cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống.

Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thể hiện qua mảng thơ thiên nhiên rất có giá trị ở Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Trong thơ chữ Hán có những bức tranh thiên nhiên hoành tráng: “Kình ngạc băm vằm non mấy khúc – Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng” [Cửa biển Bạch Đằng - bản dịch]. Thiên nhiên trong thơ Nôm có những béc tranh lụa xinh xắn, phảng phất phong vị thơ Đường: “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi – Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” [Bảo kính cảnh giới – bài 26]. Thiên nhiên bình dị, dân dã, từ quả núc nác, lảnh mồng tơi, bè rau muống, đến “ngõ cày đất ải”, con đòng đong,... đều đi vào thơ Nguyễn Trãi một cách tự nhiên, tạo nên những rung động thẩm mĩ.

Thiên nhiên trở thành môi trường sống thanh tao, con người gắng giữ gìn vẻ đẹp nguyên sơ, không làm tổn thương đến cảnh vật. Nhà thơ không nỡ thả mái chèo vì sợ làm tan vỡ bóng trăng in trên nước: “Nước còn nguyệt hiện xá[3] thôi chèo”; hớp chén rượu in bóng trăng mà tưởng đang hớp ánh trăng: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”; gánh nước về pha trà, nước im bóng trăng tưởng mang cả trăng về theo: “Chè tiên[4] nước ghín[5] nguyệt đeo về”. Có thể nói, ở Nguyễn Trãi “lòng yêu thiên nhiên vạn vật là một kích thước để đo một tâm hồn” [Xuân Diệu].

Thơ Nguyễn Trãi có những câu nói về nghĩa vua tôi, về tình cha con xiết bao cảm động: “Quân thân[6] chưa báo lòng canh cánh – Tình phụ cơm trời áo cha.” [Ngôn chí – bài 7].

Ức Trai thường hay nói tới lòng bạn. Lòng bạn bao giờ cũng sáng trong như vầng nguyệt: “Lòng bạn trăng vằng vặc cao”. Nguyễn Trãi gắn bó tha thiết với quê hương. Nỗi nhớ quê trong thơ Ức Trai cụ thể, sâu sắc. Quê ấy là Chi Ngại, Côn Sơn, nơi Nguyễn Trãi sống với ông ngoại từ thuở thiếu thời. Quê ấy còn là cánh đồng Nhị Khê mà tuổi thơ Nguyễn Trãi cùng bạn từng đội nón, vác cuốc làm đồng trong ngày xuân.

Những vần thơ Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên đất nước, về tình cha con, tình bạn,... xiết bao gần gũi, thân thương. Khía canh “con người” trong người anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản đã góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.

Video liên quan

Chủ Đề