Nhà Lý ban hành bộ luật a hình luật B Hình thư C hình văn D Hoàng triều luật lệ

Top 1 ✅ Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A. Hình thư B. Hình luật C. Luật Hồng Đức D. Hoàng Việt luật lệ nam 2022 được cập nhật mới nhất lúc 2022-02-14 08:48:02 cùng với các chủ đề liên quan khác

Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A.Hình thư B.Hình luật C.Luật Hồng Đức D.Hoàng Việt luật lệ

Hỏi:

Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A.Hình thư B.Hình luật C.Luật Hồng Đức D.Hoàng Việt luật lệ

Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A.Hình thư B.Hình luật C.Luật Hồng Đức

D.Hoàng Việt luật lệ

Đáp:

tuvi:tuvi:tuvi:

Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A.Hình thư B.Hình luật C.Luật Hồng Đức D.Hoàng Việt luật lệ

Xem thêm : ...

Vừa rồi, seonhé.vn đã gửi tới các bạn chi tiết về chủ đề Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A. Hình thư B. Hình luật C. Luật Hồng Đức D. Hoàng Việt luật lệ nam 2022 ❤️️, hi vọng với thông tin hữu ích mà bài viết "Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A. Hình thư B. Hình luật C. Luật Hồng Đức D. Hoàng Việt luật lệ nam 2022" mang lại sẽ giúp các bạn trẻ quan tâm hơn về Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A. Hình thư B. Hình luật C. Luật Hồng Đức D. Hoàng Việt luật lệ nam 2022 [ ❤️️❤️️ ] hiện nay. Hãy cùng seonhé.vn phát triển thêm nhiều bài viết hay về Câu 10 : Bộ luật nào được ban hành dưới thời Trần? A. Hình thư B. Hình luật C. Luật Hồng Đức D. Hoàng Việt luật lệ nam 2022 bạn nhé.

Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên Hoàng triều luật lệ, Quốc triều điều luật, Nguyễn triều hình luật, bộ luật Gia Long là bộ luật chính thức của Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn do Bắc thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn thảo và vua Gia Long cho ban hành năm 1815.

Vua Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ [còn được gọi là Luật Gia Long], gồm 22 quyển và 398 điều[1] sau đó vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815. Bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh[2] Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ Quốc triều Hình luật thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của nhà Thanh, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật lệ”[3]

Giống như “Đại Thanh luật lệ”, Hoàng Việt luật lệ ngoài quyển đầu là mục lục các điều luật, bảng [hay đồ], thể lệ về phục tang, diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được chia thành 6 thể loại, tương ứng với việc của 6 bộ: Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, cách trình bày in ấn của “Hoàng Việt luật lệ” cũng giống với bộ luật nhà Thanh. Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” đã lược bỏ, thay đổi một số tiểu tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp với cách gọi tại Việt Nam [Một số điều luật thay đổi đơn vị hành chính "tỉnh" của Trung Quốc thành "doanh, trấn" của Việt Nam, chức danh lý trưởng của Trung Quốc bằng xã trưởng của Việt Nam].

Hoàng Việt luật lệ được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam[4].

Hoàng Việt luật lệ có 398 điều và 30 điều tỷ dẫn,[5] chép trong 22 cuốn. Có sáu thể loại do ứng với việc sáu Bộ Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình phụ trách. Chi tiết như sau:

  • Cuốn thứ 1: mục lục điều luật, bảng [hay đồ], thể lệ về trang phục tang, diễn giải thuật ngữ
  • Cuốn thứ 2 và 3: 45 điều danh lệ
  • Cuốn thứ 4 và 5: 27 điều lại luật
  • Cuốn thứ 6, 7 và 8: 66 điều hộ luật
  • Cuốn thứ 9: 26 điều lễ luật
  • Cuốn thứ 10 và 11: 58 điều binh luật
  • Cuốn thứ 12 đến 20: 166 điều hình luật
  • Cuốn thứ 21: 10 điều công luật
  • Cuốn thứ 22: dẫn điều luật

Tập tin:HVLL.pdf

Bìa sách, bản dịch của GS. Nguyễn Quyết Thắng

Hoàng Việt luật lệ được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức [tức Quốc triều Hình luật, là bộ luật của nhà Lê], nhưng chủ yếu là mượn bộ luật của nhà Thanh, dù đã được chỉnh sửa và cập nhật cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.[6] Trong 398 điều thì 397 là chép lại Đại Thanh luật lệ. Chỉ có một điều là rút từ Quốc triều Hình luật.[5]

Bảng [hay đồ]: quy định về phương hướng xử lý đối với những tài sản có được một cách bất hợp pháp. Thể lệ nộp phạt chuộc tội, chí tiết về ngũ hình, các dụng cụ dùng trong tù, và trang phục tang chế. Danh lệ quy định về những nguyên tắc tổng quát về tội phạm và hình thức trừng phạt. Phần dẫn đều luật dùng để hướng dẫn việc so sánh các hình phạt và vận dụng luật trong trường hợp vụ việc mà luật không quy định tới. Hộ luật là các luật về hộ tịch, tài sản, hôn nhân, thuế, nợ nần, tiền chợ búa.

Đặc biệt là điều luật về việc tuyển phi cho vua, Hoàng Việt luật lệ thừa hưởng các điều luật từ thời xưa mà không có bất kì sự thay đổi nào. Đó là độ tuổi tuyển phi từ 13 đến 16 tuổi [trừ các cuộc hôn nhân chính trị, tuy nhiên vẫn chưa ghi nhận bất kì trường hợp nào vi phạm điều luật trên vì hôn nhân chính trị].

  • Luật nhà Hậu Lê
  • Luật Hồng Đức
  • Quốc triều khám tụng điều lệ
Luật khác thời Nguyễn
  • Hội điển toát yếu
  • Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ
  • Minh Mệnh chính yếu
  • Đại Nam điển lệ toát yếu

  1. ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 283
  2. ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 177
  3. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2019.
  4. ^ Lương Ninh 2000, tr. 299-318
  5. ^ a b Nguyễn Ngọc Huy. Quốc triều Hình luật Quyển A. Viet Publisher, 1989. tr 177
  6. ^ Nguyễn Quyết Thắng: Lược khảo Hoàng Việt Luật lệ, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002, tr 15, 16

  • Trần Trọng Kim [1971], [[Việt Nam sử lược]], 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục Tựa đề URL chứa liên kết wiki [trợ giúp]
  • Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung [2008], 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân
  • Lương Ninh [2000], Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hoàng_Việt_luật_lệ&oldid=67767217”

Nhà Lý được xác định là nhà nước đầu tiên ở Việt Nam chính thức có hệ thống pháp luật từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc mà thời nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê trước đó chưa có[1].

Mục lục

  • 1 Cơ quan pháp luật
  • 2 Hình thư
  • 3 Trong lĩnh vực kinh tế
  • 4 Với đẳng cấp xã hội
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo
  • 7 Chú thích

Cơ quan pháp luậtSửa đổi

Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện. Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử[2].

Khi có dịp lễ hội, cầu đảo hay thay đổi thời tiết hoặc vua mới lên ngôi… thường có lệnh chẩn tế hoặc tha tù.

Năm 1077, Lý Nhân Tông tổ chức thi lại viên để tuyển chọn quan lại với 3 môn: thư [viết chữ], toán và hình luật[2].

Thời Lý Anh Tông, triều đình đặt ra hòm bằng đồng để tiếp nhận thư kêu oan của dân.

Hình thưSửa đổi

Năm 1042, Lý Thái Tông sai trung thư san định luật lệ, chấn chỉnh cho thích ứng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản thành sách Hình thư của một triều đại.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận việc này: từ khi sách làm xong, Lý Thái Tông xuống chiếu ban hành, nhân dân lấy làm tiện.

Theo Lê Quý Đôn trong Nghệ văn chí của sách Đại Việt thông sử, Hình thư gồm có 3 quyển, đã bị thất truyền[1].

Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội: những người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược tật, những người họ nhà vua và người có công nếu phạm tội có thể chuộc tội bằng tiền, trừ khi người đó phạm phải những tội trong thập ác[1]:

  1. Mưu phản: làm nguy xã tắc
  2. Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết
  3. Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc
  4. Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ
  5. Bất đạo: giết người vô tội
  6. Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua
  7. Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ
  8. Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần
  9. Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng, con giết cha
  10. Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha

Năm 1071, triều đình bổ sung thêm quy định về chuộc tội: tùy theo tội nặng nhẹ thì nộp tiền với mức độ nhiều ít khác nhau[1].

Người phạm tội ăn trộm sẽ bị chặt hết ngón chân, ngón tay. Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh 100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trượng và thích 30 chữ.

Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế[2].

Trong lĩnh vực kinh tếSửa đổi

Pháp luật nhà Lý phản ánh và chấp nhận sự xuất hiện của chế độ tư hữu ruộng đất. Lý Anh Tông quy định ra phép chuộc ruộng và nhận ruộng, theo đó ruộng cầm đợi trong 20 năm được chuộc; tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Ruộng đã bán có khế ước thì không được chuộc, ai trái lệnh sẽ bị đánh 80 trượng. Nếu khi tranh chấp ruộng ao mà dùng binh khí đánh người gây tử thương thì cũng bị xử đánh 80 trượng, bị tội đồ và phải trả ruộng cho người bị tử thương[3].

Pháp luật nhà Lý bảo vệ nguồn thu nhập của triều đình, đảm bảo dân đinh là sức lao động chủ yếu mà triều đình sử dụng. Năm 1146, Lý Anh Tông ra lệnh cho bách quan, quản giáp, chủ đô khi tuyển lính để bổ sung cho cấm quân thì phải chọn những hộ lớn là những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc. Ai làm trái sẽ bị trị tội.

Thể lệ thu thuế cũng được định rõ: các quan lại thu thuế của dân, ngoài khoản phải nộp cho triều đình, được thu riêng một phần gọi là "hoành đầu" làm tiền giấy bút. Những người thu quá số sẽ bị ghép vào tội ăn trộm. Nhân dân có ai tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm. Nếu quản giáp, chủ đô và người trưng thu thuế thông đồng với nhau thu quá quy định, tuy lâu ngày nhưng có người phát giác thì tất cả cùng bị tội như nhau[3].

Khố ti thu thuế lụa, nếu ăn lụa của nhân dân thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng, mỗi tấm lụa đến trên 10 tấm phạt thêm phối dịch 10 năm.

Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp, việc giết trâu bò được quy định chặt chẽ. Người giết trâu bò bừa bãi không theo quy định bị xử tội nặng.

Với đẳng cấp xã hộiSửa đổi

Pháp luật nhà Lý phản ánh rõ sự phân biệt đẳng cấp xã hội. Đẳng cấp của quý tộc quan liêu được hưởng đặc quyền, từ trang phục, nhà cửa cũng có sự phân biệt giữa vua quan và dân[3].

Thợ thuyền làm công cho triều đình không được chế các đồ dùng kiểu nhà quan mang ra bán cho nhà dân. Con cái nhà dân không được bắt chước theo cách trang sức trong cung.

Pháp luật nhà Lý coi nô tỳ là những người thấp kém nhất. Nô tỳ không được lấy con gái nhà dân. Tư nô không được xem mình như cấm quân xăm mình rồng, người nào phạm tội sẽ bị sung công.

Nô tỳ nhà vương hầu và các quan lại không được cậy thế đánh đập quân dân, nếu phạm tội thì chủ nô phải tội đồ, còn nô bộc bị sung công[3].

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Lý
  • Luật Hồng Đức

Tham khảoSửa đổi

  • Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên [2008], Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b c d Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 127
  2. ^ a b c Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 129
  3. ^ a b c d Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 128

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề