Sắc bất dị không, không bất dị sắc sắc tức thị không, không tức thị sắc nghĩa là gì

Âm:

Xá-lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Nghĩa:

Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.

Giảng:

Đây là chặng thứ hai, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Bây giờ tôi trở lại ví dụ nắm tay ở trên. Nắm tay do năm ngón hợp lại có hình sắc không? Nắm tay có hình sắc. Nắm tay có hình sắc nên gọi là sắc, nhưng bản chất nắm tay có thật không? Bản chất nắm tay không thật, vì do duyên hợp. Bản chất nắm tay không nên gọi là Tánh không. Như vậy ngay nơi sắc tức là không, không này không phải là trống không, mà không ngay trong nắm tay. Nắm tay duyên hợp có hình sắc, nhưng bản chất nó là không. Vậy sắc tức là không.

Không tức là sắc, là ngay nơi bản tánh không này mà duyên hợp thì thành sắc. Như tôi xoè năm ngón ra đâu có nắm tay. Từ không có nắm tay, co năm ngón lại thì có nắm tay. Nắm tay có là do năm ngón hợp lại nên bản chất của nắm tay là không. Năm ngón co lại thành có, nên không tức là sắc. Nắm tay đang có nhưng bản tánh nó là không nên sắc tức là không. Từ ví dụ nắm tay này, chúng ta suy ra các pháp khác cũng như vậy.

Lâu nay người ta hay cho rằng sắc là sắc, không là không. Thí dụ cái bàn là sắc, chỗ trống là không. Bàn có hình tướng sờ mó được nên nói có, chỗ trống không có hình tướng nên nói không. Hai thứ khác nhau, tại sao Phật lại nói sắc tức là không, không tức là sắc? Không ở đây không phải là cái trống không, mà là không chủ thể. Ngay nơi nắm tay là sắc, không có chủ thể nên sắc tức là không. Không chủ thể nhưng duyên hợp lại thành có, nên không tức là sắc, chớ không phải cái không đối với cái có. Ngay nơi hình sắc mà thấy, biết tánh nó là không. Tánh không duyên hợp thành có nên gọi sắc tức thị không, không tức thị sắc.

Vậy ngay thân hình sắc này, chúng ta biết do duyên hợp mới có nên hình sắc này tánh nó là không. Bởi Tánh không nên duyên hợp mới có. Như vậy là hiểu được chữ Không trong Bát-nhã. Nếu không hiểu thế thì không hiểu chữ Không trong Bát-nhã. Chẳng hạn như nhìn căn nhà, thử hỏi cái gì là chủ thể của căn nhà: Gạch, xi măng hay cát? Không phải cái gì hết, mà chỉ đủ duyên hợp lại thì thành căn nhà. Như vậy căn nhà không chủ thể nên tánh nó là không, duyên hợp tạm có.

Con người cũng vậy, duyên hợp nên tánh không. Tất cả muôn sự muôn vật đều do duyên hợp nên đều tánh không. Vậy tất cả được mất, sanh tử ở thế gian có còn quan trọng không? Đã là tánh không duyên hợp giả có, thì quan trọng cái gì. Thấy được như vậy rồi thì trên đời này có nỗi khổ nào thật đâu. Thân không thật, cảnh không thật, thì cái khổ cũng không thật luôn. Có gì đâu phải kêu, phải khóc, phải than thở. Như vậy chúng ta sống trong cuộc đời mà tự tại, giải thoát. Chỉ cần hiểu được lý Bát-nhã, thì chúng ta tu được an lành, tự tại rồi. Chớ không phải học thật nhiều mà không chịu tu, thì cũng không đi tới đâu hết.

Như tôi đã nói trong Trung Quán, dẫn bài kệ của đức Phật:

Nhân duyên sở sanh pháp,
Ngã thuyết tức thị Không,
Diệc danh vi Giả danh,
Diệc danh Trung đạo nghĩa.

Phật nói rằng các pháp do nhân duyên sanh, nên tánh nó là Không, cũng gọi là Giả danh, cũng gọi là nghĩa Trung đạo. Bốn câu kệ này là một bài học hay vô cùng, chúng ta ứng dụng tu cả đời sẽ được kết quả rất tốt đẹp. Tại sao? Biết rõ các pháp do nhân duyên sanh nên biết tánh nó không. Tánh không, duyên hợp giả có. Vì vậy ngã thuyết tức thị không, diệc danh vi giả danh. Giả danh là giả có.

Như vậy chúng ta biết từ nhân duyên sanh cho nên các pháp không tự tánh, không tự tánh nhưng giả có hiện tại. Rõ biết nó có tạm bợ hư dối, đó là thấy đúng nghĩa trung đạo. Như đồng hồ trên bàn này là thật có hay thật không? Thông thường chúng ta nói hiện thấy trước mắt nên thật có. Nếu nói thật có thì ông thợ sửa đồng hồ mở ra từng bộ phận, lúc bấy giờ đồng hồ ở đâu? Như vậy đồng hồ không thật có. Nói thật có, nói thật không là nói hai bên, chấp hai bên.

Nếu ai hỏi đồng hồ thật có không, chúng ta chỉ trả lời đồng hồ này duyên hợp giả có. Giả có thì không phải thật có, cũng không phải thật không. Nói giả có là nói đúng nghĩa trung đạo. Nghĩa trung đạo là nghĩa chân thật. Nhưng thế gian này không ai chịu nói như vậy hết, hoặc có hoặc không thôi. Họ đâu biết nói có cũng sai, nói không cũng sai. Chỉ nói đồng hồ do duyên hợp nên giả có, không phải không cũng không phải có. Hiểu như vậy là hiểu đúng lý trung đạo.

Lý trung đạo không có nghĩa là bên này có, bên kia không, ở giữa là trung đạo. Mà biết ngay nơi bản chất không, do duyên hợp tạm có nên hư giả, không thật. Rõ biết như vậy là Trung đạo. Trung đạo là lẽ thật. Chúng ta tu theo đạo Phật là từ trí tuệ của Phật mà thắp sáng trí tuệ của mình. Có trí tuệ như Phật rồi thì hết khổ. Ngược lại, không có trí tuệ thì khổ hoài. Đời này khổ, đời sau khổ, muôn đời đều khổ.

Do thấy đúng lẽ thật nên chúng ta không tham luyến thứ gì. Thí dụ chúng ta thấy bình bông, nếu nói bình bông thật, liền khởi niệm đẹp xấu. Nếu đẹp thì kiếm tiền mua bình bông. Kiếm không có tiền thì buồn, vậy là trong lòng hơi khó chịu rồi. Giả sử có người cho mình bình bông ấy, mình rất vui mừng, tìm chỗ để trong nhà. Chợt có kẻ lén lấy đi. Khi thấy được, mình rượt theo tát tai kẻ ấy và nói sao ăn cắp bình bông của tôi.

Như vậy lúc tát tai đó có sân hận không? Sân hận và gây oan khiên rồi. Như vậy từ chấp thật, sanh ra được thì vui, mất thì buồn, bị cướp mất thì giận đủ thứ phiền não. Phiền não nên khổ đau. Nếu biết bình bông này tánh không, duyên hợp hư giả, không thật, nên chỉ nhìn chơi thôi, không có gì quan trọng. Được cũng không mừng, mất cũng không buồn, như vậy thì sống khỏe. Cho nên cũng một cuộc sống, mà có người khổ đau, có người an lành. Người biết tu, khéo ứng dụng lời Phật dạy thì mọi thứ khổ không còn. Người không biết tu thì khổ chồng thêm khổ. Đó là lẽ thật.

Nên chúng ta đến với đạo Phật là phải mở sáng trí tuệ. Mở sáng trí tuệ thì hết cố chấp. Ai cố chấp nhiều, đó là si mê. Biết chấp là si mê mà còn chấp thì si mê thêm lớp nữa. Vì vậy muốn hết khổ phải hết chấp. Muốn hết chấp phải có trí tuệ thấy đúng như thật, thì tất cả si mê theo đó tan hết.

Trên đường tu chúng ta muốn giải thoát sanh tử luân hồi, nhưng nhân của luân hồi chúng ta không gỡ bỏ, không dẹp, thì làm sao giải thoát được. Nhân luân hồi là nhân si mê, cố chấp. Từ cố chấp nên tạo nghiệp đi trong sanh tử. Bây giờ chúng ta mở sáng con mắt trí tuệ, thấy đúng lẽ thật, buông hết không còn chấp nê gì nữa, thì ngay trong cuộc sống hiện tại chúng ta đã giải thoát rồi.

Hiện tại giải thoát thì ngày mai cũng giải thoát, không nghi ngờ gì hết. Còn ngày nay đang mê si, đang bị bó buộc trong mọi thứ cố chấp thì ngày mai cũng bị dẫn đi trong luân hồi sanh tử, không chạy đâu khỏi hết. Như vậy muốn giải thoát sanh tử, tức là ra khỏi vòng luân hồi thì chúng ta phải hết si mê. Si mê là nhân sanh tử, trí tuệ là nhân giải thoát sanh tử.

Chúng ta cứ để si mê che lấp hoài nên trí tuệ mù mờ. Khi nào được nhắc thì nhớ, không nhắc thì quên. Quên thì chìm sâu trong sanh tử. Vì vậy người học đạo phải thực hành lời Phật dạy mới có kết quả an vui. Chúng ta ứng dụng thấu đáo rồi thì sẽ được giải thoát, khỏi phải học hết Tam tạng kinh điển chi cho nhọc. Chỉ vì không ứng dụng nổi nên học hoài, học mãi mà vẫn không thuộc.

Phải hiểu học Bát-nhã là học trí tuệ. Trí tuệ thấy được lẽ thật của muôn sự muôn vật, bản tánh nó là không, duyên hợp giả có. Vì vậy trong kinh Kim Cang Phật dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai. Nghĩa là, phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai. Tại sao? Vì thấy các tướng duyên hợp hư giả không thật, đó là thấy được pháp, thấy được pháp tức là thấy được Phật. Thấy được Phật là thấy Phật nào, Phật Thích-ca hay Phật Di-đà. Đó là thấy được Tánh giác của mình, thấy được thật tướng các pháp, chớ không phải thấy Phật Thích-ca hay Phật Di-đà...

Thấy thân này duyên hợp hư giả nên không chấp thân, thấy cảnh duyên hợp hư giả nên không chấp cảnh. Không chấp thân, không chấp cảnh là đã giác ngộ chưa? Giác ngộ rồi. Quí vị ngồi niệm Phật mà tâm không yên, nghĩ nhớ chuyện này chuyện kia là vì còn thấy có ngã thật, pháp thật. Hoặc ngồi thiền vọng tưởng hoài cũng bởi thấy thân thật, cảnh thật. Một khi thấy thân giả, cảnh giả thì còn gì phải bận tâm, còn gì phải lo nghĩ. Như vậy niệm Phật được nhất tâm, tọa thiền được định. Nên Bát-nhã là trí tuệ đưa người tu hành tới chỗ đạt đạo. Do đó người tu pháp môn nào cũng phải tụng Bát-nhã.

Âm:

Xá-lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử diệt, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Nghĩa:

Xá-lợi Tử! Tướng Không của các pháp không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong tướng Không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc.

Giảng:

Kinh Bát-nhã này là trọng tâm của toàn bộ Bát-nhã nên hết sức cô đọng. Đức Phật bảo ngài Xá-lợi Tử: Tướng Không của các pháp không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Như tôi đã nói thể tướng của nắm tay là không; thể tướng này không sanh, không diệt. Tôi ví dụ như chỗ cái bàn là có, chỗ không bàn là không. Bất thần ai đem vật gì để ở chỗ trống không thì nó thành có. Cái có này dời đi thì thành không. Như vậy cái có cái không tương đối, nên nó luôn sanh diệt tăng giảm.

Tánh Không của tất cả các pháp không thêm không bớt, không sanh không diệt, nên đâu có nhơ sạch. Tánh không của bản thân mình, tánh không của muôn sự muôn vật đều như thế. Chúng ta phải hiểu tánh Không đó là thể tánh không, không có một tướng gì cả. Do duyên hợp các pháp tạm có, thành tướng thành hình rồi, thì tướng đó tánh nó vẫn là không. Tánh Không này dùng trí biết, chớ không phải dùng mắt thấy. Thấy bằng mắt là hình sắc luôn đổi thay sanh diệt.

Thí dụ hư không không có mùi vị nên ta nói nó sạch, nếu đem mùi gì để vào đó thì nó thành nhơ. Còn tánh Không của các pháp, của bản thân chúng ta không có thêm bớt, nhơ sạch, sanh diệt nên nó không bao giờ thay đổi. Hiểu như vậy mới thấy lý của tánh Không. Nếu không hiểu thế, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao hư không không có nhơ sạch, mà khi đi ngang chỗ ủ meo, ta nghe hôi; đi ngang các tiệm trà ta nghe thơm. Như vậy hư không chỗ này nhơ chỗ kia sạch. Đó là hư không trong đối đãi, không phải cái không của lý tánh Không.

Hồi xưa tôi đi thăm các chùa, nghe nhiều vị nhắc câu: Thà là chấp có bằng núi Tu-di, còn hơn chấp không bằng hạt cải. Nghĩa là chấp có bằng núi Tu-di cũng không có hại, còn chấp không chỉ bằng hạt cải cũng có hại. Chấp không là chấp đây có kia không, đó là lỗi lầm. Hai thứ chấp ấy gọi là biên kiến, tức chấp một bên. Còn lý tánh Không thuộc về trung đạo. Tại sao lý Không thuộc về trung đạo?

Tôi dẫn lại bài kệ trong Trung Quán Luận của ngài Long Thọ:

Nhân duyên sở sanh pháp, là các pháp do nhân duyên sanh ra, ngã thuyết tức thị Không, Phật nói tức là không. Không đó là tánh không. Những gì do nhân duyên sanh ra, thể tánh nó là không. Diệc danh vi Giả danh, tuy thể tánh không nhưng duyên hợp thì có hình có tướng; hình tướng đó gọi là giả danh.

Thí dụ chúng ta gọi cái bàn, thì tên cái bàn không phải là chân lý. Mình gọi cái bàn, nhưng người khác gọi tên khác, tùy theo mỗi địa phương mà ngôn ngữ khác nhau. Không thể nói cái bàn là tên cố định được. Cho nên tên gọi chỉ là giả danh mà thôi. Nếu người ta thay hình đổi dạng, thì cái bàn không còn là bàn nữa, có thể nó sẽ trở thành cái ghế hoặc vật gì khác, tùy duyên chuyển biến. Giả danh không phải là không, cũng không phải là có hẳn. Nó tạm có, không thật nên gọi là giả danh.

Diệc danh Trung đạo nghĩa, cũng gọi nghĩa Trung đạo. Tại sao gọi nghĩa Trung đạo? Sự vật do duyên hợp giả có, thể tánh nó là không. Thể tánh không duyên hợp giả có, thì nói có hay nói không? Giả có thì đâu nói không được, vì tướng có hiện bày. Có nhưng giả chớ không phải thật có, nên đâu thể nói có được. Thấy rõ như vậy là hiểu đúng nghĩa Trung đạo.

Chúng ta đừng lầm Trung đạo là khoảng giữa hai bên có và không. Ngay nơi giả tướng có, mà biết nó không thật, đó là thấy được lý Trung đạo. Ngược lại, nếu chấp hoặc có thật hoặc không thật là biên kiến, là hai bên. Chúng ta học Phật để đi tới chỗ chân thật không còn kẹt bên này bên nọ, nên cần phải thấy được lý Trung đạo.

Thế nên trong tánh Không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức gọi chung là ngũ uẩn. Ngũ uẩn tức thân chúng ta, gồm có hai phần, phần vật chất và phần tinh thần. Phần vật chất là sắc, phần tinh thần là thọ, tưởng, hành, thức. Xét về lý nhân duyên thì sắc do duyên hợp nên tánh sắc là Không. Thọ do duyên hợp nên tánh thọ là Không. Tưởng do duyên hợp nên tánh tưởng là Không. Hành do duyên hợp nên tánh hành là Không. Thức do duyên hợp nên tánh thức là Không. Như vậy thân năm uẩn của chúng ta đều do duyên hợp nên tánh nó là Không.

Trong tánh Không đó, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tánh Không đó không có năm uẩn, không có sáu căn, không có sáu trần. Và cũng chính vì tánh Không, nên duyên hợp có sáu căn, sáu trần. Như con mắt duyên hợp nên tánh nó không, lỗ tai lỗ mũi cũng vậy. Xét cho tường tận sáu căn đều là duyên hợp, nên thể tánh của nó đều không.

Thiền sư Động Sơn, lúc còn nhỏ đã xuất gia. Tối nào Ngài cũng lên chùa tụng kinh Bát-nhã. Một hôm tụng Bát-nhã xong, Ngài xuống bạch với thầy: Thưa Thầy, con có mắt, có tai, có mũi, có lưỡi, có thân, có ý. Tại sao trong kinh nói không có? Thầy Ngài không trả lời được, nên khuyên Ngài qua phương Nam tìm các Thiền sư thưa hỏi.

Rõ ràng chúng ta có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cụ thể, mà Bát-nhã nói không có là sao? Cho nên nếu không đạt được lý Không này, tự nhiên chúng ta nghi ngờ. Tại sao đang có đây mà nói không? Thậm chí nhiều người còn cho rằng đạo Phật nói dối. Mắt, tai, mũi, lưỡi sờ sờ đây mà nói không. Nếu chúng ta không nắm vững lý Bát-nhã thì sẽ bị mâu thuẫn lớn.

Không ở đây là vì lý do duyên hợp, chớ không phải không là không có mắt, tai, mũi v.v Lý Bát-nhã thâm trầm vô cùng mà chúng ta hiểu hời hợt, nông cạn thì làm sao giải được. Không giải được thì khi bị người ta hỏi, chỉ có nước ngậm bồ hòn thôi. Cho nên học Bát-nhã phải hiểu mới tu được. Nếu không hiểu, dù học Phật mười năm hai mươi năm cũng chỉ ngoài da thôi, chớ không thấm được.

Nên nhớ tánh Không này thấy bằng trí tuệ, chớ không phải bằng con mắt nhìn thấy hư không trống rỗng. Tánh không đó không phải mắt, tai, mũi, lưỡi; không phải sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không phải hình thức đối đãi vật chất, như hư không đối với sự vật.

Ở trên đã nói tánh Không không phải là năm uẩn. Kế đây, nói tánh Không không phải sáu căn, sáu trần. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần là sự sanh hoạt hàng ngày của chúng ta. Trong tánh Không đó, không có ngũ uẩn, không có sáu căn, không có sáu trần; cho đến không có nhãn giới, ý thức giới. Trong nhà Phật gọi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là lục xứ. Mắt, tai, mũi, lưỡi duyên với sắc, thanh, hương, vị Bên trong có sáu căn, bên ngoài có sáu trần, cộng thêm sáu thức phân biệt thành mười tám giới. Như vậy trùm cả thân tâm và thế giới bên ngoài gọi chung là thập bát giới.

Trong tánh Không, không có luôn cả mười tám giới. Tức con người, thế gian đều không phải là tánh Không. Tánh Không là lý thật, còn con người sự vật đều chịu chung luật duyên hợp. Đã chịu chung luật duyên hợp nên nói tất cả đều tánh Không. Nhưng tánh Không không phải là những thứ đó.

Không có vô minh, cũng không có hết vô minh. Tánh Không đó không phải mười hai nhân duyên. Tại sao? Vì mười hai nhân duyên là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Đó là mười hai nhân duyên theo chiều lưu chuyển. Chúng ta xét cho kỹ, tánh Không này không phải vô minh, cho tới không phải sanh lão bệnh tử. Vậy tánh Không không phải mười hai nhân duyên theo chiều lưu chuyển, cũng không phải mười hai nhân duyên theo chiều hoàn diệt. Nghĩa là không có vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt v.v cho tới sanh lão bệnh tử thảy đều diệt. Bởi vì trong tánh Không, không có vô minh, nên cũng không có hết vô minh.

Mười hai nhân duyên là vòng trầm luân, hết mười hai nhân duyên là giải thoát sanh tử. Tánh Không này không phải là nhân duyên trầm luân, cũng không phải là nhân duyên hết trầm luân. Tại sao? Vì tánh Không không phải tướng, không phải sự vật thì làm gì có sanh diệt và hết sanh diệt. Không có già chết, cũng không có hết già chết, rõ ràng tánh Không không phải mười hai nhân duyên trong vòng luân hồi, cũng không phải mười hai nhân duyên trong vòng giải thoát.

Chúng ta thường nghe trong kinh Phật dạy, Phật vì thấy chúng sanh mê lầm khổ não, nên mới chế ra phương pháp tu để diệt mê lầm. Diệt mê lầm thì hết khổ não, giống như thầy thuốc biết người bệnh đang bị bệnh hoành hành đau đớn, mới dùng thuốc trị bệnh. Người bệnh dùng thuốc sẽ hết bệnh, hết bệnh thì hết khổ não. Khi hết bệnh hết khổ rồi thì thuốc cũng đâu cần nữa. Bệnh đã không thật thì thuốc có thật không? Nếu bệnh là thật thì thuốc trị sẽ không lành. Vì nó không thật nên thuốc mới phá dẹp được. Nếu bảo thuốc hay quá, hôm nay uống hai viên, mai uống thêm hai viên nữa là bốn viên, mốt uống thêm hai viên nữa là sáu viên, thì mau hết bệnh hay tăng thêm bệnh? Thuốc có là vì bệnh có. Bệnh hết thì thuốc cũng bỏ luôn.

Bởi chúng ta có vô minh mới có hành v.v dẫn đi trong luân hồi sanh tử, nên Phật mới dạy tiêu diệt vô minh để dứt dòng sanh tử. Vô minh diệt rồi thì vòng sanh tử hết. Dòng sanh tử không thật, thì thuốc diệt nó cũng không thật. Còn tánh Không, không cả vô minh lẫn hết vô minh. Đó là Phật dạy thuốc để trị bệnh chúng sanh. Lục Tổ nói một câu rất hay: Phật lập tất cả pháp để trị tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu cần tất cả pháp.

Do chúng ta vọng tưởng tham, sân, si đủ thứ phiền não, nên Phật dạy pháp nào trị tham, pháp nào trị sân, pháp nào trị si, pháp nào trị ngã mạn, thành ra có cả trăm ngàn pháp. Nếu tất cả tâm tham sân si sạch hết thì đâu cần thuốc nữa. Vậy tùy bệnh mà Phật chế thuốc, cho thuốc. Chúng ta có bệnh gì Phật chế thuốc đó, pháp đó. Bệnh do duyên hợp không thật, thì thuốc cũng duyên hợp không thật. Vì vậy kể cả mười hai nhân duyên cũng duyên hợp không thật luôn.

Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có khổ, tập, diệt, đạo là không có pháp Tứ đế. Khổ là khổ đế, tập là tập đế, diệt là diệt đế, đạo là đạo đế. Đức Phật khi mới thành đạo, Ngài giảng pháp Tứ đế cho các vị Tỳ-kheo như Kiều-trần-như v.v nghe. Nên pháp Tứ đế được xem như chân lý bất di bất dịch. Tại sao ở đây nói không khổ tập diệt đạo?

Chúng ta hiểu được mười hai nhân duyên thì cũng hiểu được chỗ này. Bởi vì Tứ đế là một pháp Phật phương tiện chế ra để trị bệnh. Khi thành đạo dưới cội bồ-đề, bảy ngày đầu đức Phật phân vân không biết có nên đem pháp đã đạt được chỉ dạy cho mọi người hay không? Tại sao phân vân? Vì cái thấy biết của Ngài khác hẳn thấy biết của người phàm tục. Đã khác hẳn thì làm sao dạy người phàm tục được, nên Ngài phân vân không muốn dạy.

Lúc ấy trời Phạm thiên thị hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn, Ngài đã giác ngộ viên mãn nên đem pháp giáo hóa chúng sanh.

Phật nói:

- Pháp của ta cao siêu, kẻ phàm phu không thể lãnh hội được.

Phạm thiên thưa:

- Bạch Thế Tôn, trong thế gian cũng có những người có duyên nhiều đời, họ nghe Thế Tôn dạy sẽ hiểu và tu được. Vì vậy xin Ngài hãy dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sanh.

Phật liền chấp nhận lời thỉnh cầu ấy. Nên sau đó, Ngài đi tìm năm anh em Kiều-trần-như ở vườn Lộc Uyển và thuyết bài pháp Tứ đế. Cái thấy của Phật siêu thoát, phi thường nên muốn chỉ dạy lại cho người phàm tục như chúng ta thật là khó. Ví như chúng ta không ai dám nhận mình nhơ nhớp hôi hám, mà lúc nào cũng thầm tưởng mình tốt đẹp, quí báu. Cho nên hôm nào đổ mồ hôi chưa kịp thay áo, đi ngang người ta bụm mũi thì mình liền không vui. Mình hôi mà người ta bịt mũi là ghét người ta liền. Có phải lúc nào mình cũng tưởng mình sạch sẽ, tưởng mình quí mình đẹp không?

Đức Phật khi ngồi tu dưới cội bồ-đề, bọn ma vương giả ra mỹ nữ đến phá, Ngài liền quở: Các ngươi là đãy da hôi thối, đi! Ta không có dùng. Như vậy dưới mắt Phật thân này là đãy da hôi thối. Còn dưới mắt chúng ta thân này là đẹp là quí Vì thế mà sanh thương ghét đủ chuyện. Nếu thấy mình là đãy da hôi thối thì ráng giữ phận, lo tu hành không nghĩ gì khác. Cho nên cái thấy của Phật ngược với cái thấy của thế gian. Vậy cái thấy nào đúng sự thật? Đức Phật thấy đúng chân lý đúng lẽ thật, còn chúng ta thấy qua tưởng tượng, chớ không phải sự thật. Do đó phiền não phát sanh. Đó là tại mê lầm không thấy được lẽ thật.

Đức Phật muốn đem chỗ chân thật đó giáo hóa rất là khó, vì người ta không chịu nghe. Phật nói tất cả là khổ, con người là khổ. Người ta bảo Phật bi quan quá, mọi người đang sống hạnh phúc an vui mà nói là khổ. Ngài chỉ ra những nỗi khổ đó, nhưng chúng sanh đang mải mê chạy theo dục lạc thế gian thì cho rằng Phật bi quan, Phật dạy buồn quá, chán quá. Vì vậy giáo pháp của Phật ngược lại với cái thấy của thế gian.

Thế gian thấy lầm lẫn nên mới đi trong trầm luân sanh tử, còn Phật giải thoát khỏi sanh tử rồi nên Ngài thấy khác thế gian. Nên nói pháp của Phật rất khó nghe, vì nó ngược lại với tâm tư, hiểu biết của người thế gian. Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế đối với kinh A-hàm là bốn chân lý, bốn lẽ thật. Nhưng với tinh thần Bát-nhã thì bốn chân lý đó cũng là đối đãi, chớ không phải thật.

Vì để đối trị với các bệnh của con người, cho nên Phật nói Tứ đế. Bây giờ nếu bệnh lành thì thuốc cũng phải bỏ. Nên bốn chân lý đó cũng là Tánh không, không phải cố định. Nghĩa là không có khổ thật, không có tập thật, không có diệt thật, không có đạo thật. Tất cả đều là phương tiện do Phật lập ra, để chỉ dạy chúng ta diệt các cố chấp, phiền não. Cố chấp phiền não hết thì Tứ đế cũng không dùng nữa, vì vậy mà nói không có Tứ đế.

Không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc. Thường nhiều người không biết cứ nói không trí cũng không đắc là tu không được trí cũng không được đắc. Vô trí, vô đắc ở đây là pháp của Bồ-tát. Bồ-tát là giác hữu tình hay hữu tình giác. Nếu Bồ-tát thấy có trí thật, có đạt đạo thật thì chưa phải là cái nhìn của trí tuệ Bát-nhã. Tại sao? Vì đứng trên trí tuệ Bát-nhã, không có cái gì được cả.

Như tôi đã nói Bát-nhã chia ra ba thứ: Văn tự Bát-nhã, Chiếu kiến Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Văn tự Bát-nhã như con thuyền, chèo bơi như Chiếu kiến Bát-nhã, lên bờ như Thật tướng Bát-nhã. Vậy chèo bơi là phương tiện hay chân lý? Thường người ta hay nói si mê thì dùng trí tuệ để dẹp. Si mê là thấy sai hiểu lầm nên dùng trí tuệ quán chiếu để dẹp bỏ si mê đó. Như vậy quán chiếu năm uẩn đều không là chèo bơi. Khi lên bờ rồi có bơi chèo nữa không? Lên bờ rồi thì thuyền bỏ lại, chèo bơi cũng ngừng. Cho nên tới chỗ Thật tướng không còn dùng chiếu kiến nữa. Vì vậy gọi là vô trí.

Thế nên chúng ta phải hiểu quán chiếu là trí tạm thời, không phải thật. Vì mê lầm nên phải dùng trí này để trừ dẹp mê lầm. Đến lúc đã nhận đúng lẽ thật rồi thì trí ấy cũng bỏ luôn. Đến chỗ thật tướng là chúng ta đã lên được bờ, đã tự tại. Chúng ta đã đến chỗ an toàn rồi thì tất cả phương tiện không cần dùng nữa.

Người ta thường bảo lên được bờ là chứng Thánh. Bên này là phàm phu, bên kia là Thánh nhân; bên này là bờ mê, bên kia là bến giác. Nhưng nếu xét kỹ một người từ bờ bên này qua bờ bên kia, khi ở bờ bên này và khi đến bờ bên kia, con người đó là một hay khác? Cũng con người đó thôi. Cho nên Bát-nhã nói cứu kính không có chỗ được. Tại sao? Vì được là được một cái gì ngoài mình.

Ví dụ quí vị đi đường, gặp người ta bỏ rơi một cái bóp, quí vị lượm lên thì gọi là tôi lượm được cái bóp. Được cái bóp là do mình lượm từ dưới đất. Còn việc tu của chúng ta từ mê đến tỉnh, không có hai nên nói không chỗ được. Người xưa nói: Như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng Thánh khác nhau ngàn trùng là thế. Cùng là mũi dọc mày ngang như nhau, hồi mê là chúng sanh thì cũng là mày ngang mũi dọc. Tới chừng thức tỉnh thì cũng mày ngang mũi dọc chớ có khác gì đâu. Tuy nhiên khác ở chỗ lòng phàm lòng Thánh, chớ con người không có hai.

Như vậy chúng ta tu, nếu nói được một cái gì, thì cái đó ở bên ngoài đến, chớ không phải từ trong ra. Chúng ta mê là từ tâm mình mê, giác là từ tâm mình giác. Bỏ cái mê thì cái giác hiện bày. Giống như đứa học trò lúc bảy tám tuổi, cha mẹ đem vào trường là còn dốt. Nhưng học năm mười năm, nó ra trường lúc đó là người giỏi, hay chữ chớ đâu có dốt. Như vậy thì đứa bé dốt và người biết chữ cũng là một thôi. Tâm dốt ngày xưa và tâm biết chữ này ở đâu lại? Thì cũng ở nó, không học thì không biết, học rồi thì biết, cũng từ tâm mà ra.

Cũng vậy, chúng ta chưa biết tu thì tâm mê lầm chạy theo ngũ dục, đắm chìm trong khổ đau. Khi thức tỉnh biết tu, biết ngũ dục là họa thì không mê nữa. Chúng ta buông bỏ, không theo đó là tỉnh. Tỉnh thì không bị kẹt trong khổ đau. Như vậy ngày xưa bị kẹt nên khổ đau, bây giờ tỉnh không bị kẹt nên hết khổ đau. Sự an vui đó ở đâu đem lại? Không ở đâu hết, chính tâm mình chuyển. Mê tối thì khổ đau, tỉnh giác thì an lạc, chớ không chứng không được cái gì cả.

Chúng ta vì ham đạt được cái này cái kia, cho nên không đạt được chân lý, không thấy được lẽ thật. Giả sử có hai người học ngang nhau, một người thi đậu được cấp bằng, một người không thi không được cấp bằng, vậy ai hơn ai? Không có ai hơn ai cả. Nếu có hơn là hơn cái ngã mạn một chút thôi, chớ sự hiểu biết chưa chắc đã hơn. Như vậy lẽ thật nằm ở chỗ chúng ta chuyển được nội tâm mình từ mê lầm trở thành tỉnh giác. Đó là việc của mình chớ không phải ở đâu đem đến. Đã không phải ở đâu đem đến thì không có cái được. Vì vậy nên nói không có trí tuệ cũng không có chỗ được, là hạnh của Bồ-tát.

Video liên quan

Chủ Đề