Tại sao Mỹ tuyên chiến với Nhật Bản

Tàu USS Arizona bị chìm sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, ngày 7 tháng 1941 năm XNUMX. từ Wikimedia Commons, CC BY-NĐ

James H. Liu, Đại học Massey

Ngày 7 tháng 1941 năm XNUMX. Một ngày sẽ sống trong ô nhục. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bị các lực lượng hải quân và không quân của Đế quốc Nhật Bản tấn công bất ngờ và có chủ ý. Hoa Kỳ đã hòa bình với quốc gia đó và, theo lời kêu gọi của Nhật Bản, vẫn đang đàm phán với chính phủ và hoàng đế của họ về việc duy trì hòa bình ở Thái Bình Dương.

Do đó, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt đã bắt đầu bài phát biểu tuyên chiến chống Nhật. Nhân kỷ niệm 79 năm Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng bất ngờ, chúng ta nên xem lại những từ này, vì họ cho rằng "casus belli": khiêu khích ở đâu chiến tranh là một phản ứng hợp lý.

Tổng thống Franklin D. Roosevelt Tuyên bố Chiến tranh với Nhật Bản [Toàn văn] | Lưu trữ Chiến tranh

Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên chiến với Nhật Bản một ngày sau khi lực lượng hải quân và quân đội Mỹ bị tấn công tại Trân Châu Cảng.

Churchill đã cầu xin Roosevelt tham gia cuộc chiến chống lại phe Trục [Nhật Bản, Đức, Ý] trong nhiều tháng, nhưng không có casus belli, Tổng thống Mỹ từ chối. Hoa Kỳ có truyền thống “không can thiệp” vào các vấn đề châu Âu và Quốc hội của họ đã thông qua Đạo luật Trung lập vào những năm 1930 để ngăn chặn Hoa Kỳ vướng vào nền chính trị quyền lực của thế giới cũ có thể dẫn đến chiến tranh. Cuộc tấn công Trân Châu Cảng đánh dấu sự kết thúc bạo lực cho kỷ nguyên này, và khởi đầu cho việc Mỹ vươn lên vị trí trung tâm quyền lực thế giới.

Tường thuật về sự chuộc lỗi

Chuyên gia tâm lý học Dan McAdams viết rằng câu chuyện về sự cứu chuộc - một câu chuyện chuyển từ xấu thành tốt - là điều cơ bản tạo nên bản sắc và tính cách dân tộc Mỹ. Roosevelt tuyên bố chiến tranh của mình đúng như vậy: sau khi kể lại các hành động quân sự của Nhật Bản, ông nói:

Bất kể chúng ta có thể mất bao lâu để vượt qua cuộc xâm lược đã được định trước này, nhân dân Hoa Kỳ với chính nghĩa của họ sẽ giành chiến thắng tuyệt đối.

Trong trường hợp Trân Châu Cảng, lịch sử đã minh chứng cho tuyên bố của Roosevelt. Có sự đồng thuận rằng việc Mỹ tham gia cuộc chiến là hợp lý, trong liên Hiệp Quốc và trong Dư luận Mỹ. Sự đồng thuận là rất quan trọng đối với lực lượng và độ lớn của ghi nhớ tập thể. Hơn thế nữa, hậu quả của việc người Mỹ tham gia vào nhà hát của chiến tranh bảo đảm một câu chuyện về sự cứu chuộc khiến Mỹ trở thành một dân tộc anh hùng trong quá trình xây dựng hiện đại.

Phe Trục chịu trách nhiệm về cái chết của hơn 20 triệu thường dân trên toàn thế giới [khoảng một nửa ở châu Á, một nửa ở châu Âu]. Việc Mỹ tham gia vào cuộc xung đột cùng với việc người Nga anh dũng bảo vệ tổ quốc của họ đã lật ngược tình thế chống lại sự tàn bạo đó.

Du khách tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Thế giới thứ hai Quốc gia. EPA / Matthew Cavanaugh, CC BY-NĐ

Sự thật và sự thật

Tường thuật định cấu hình sự kiện là “thức ăn cho suy nghĩ” theo nghĩa lớn hơn bên dưới các từ ngữ bề mặt của nó. Bởi vì Stalin là một nhà độc tài tàn bạo, và bởi vì các nền dân chủ phương Tây sẽ bước vào một nửa thế kỷ Chiến tranh Lạnh với những người Cộng sản mà hệ thống của họ sẽ thống trị, chủ nghĩa anh hùng của Nga trong Thế chiến II ít được cộng đồng thế giới nhớ đến hơn của Mỹ.

Churchill từng châm biếm:

Lịch sử sẽ tốt với tôi, vì tôi có ý định viết nó.

Những người chiến thắng viết lịch sử được chấp nhận rộng rãi như một phần của câu chuyện về lý do tại sao họ có quyền cai trị. Phiên bản lịch sử của kẻ thua cuộc thường bị lãng quên, cùng với những dữ kiện đã hỗ trợ họ.

Trích dẫn sai Alexis de Toqueville năm 1983, Tổng thống Ronald Reagan nói:

Mỹ là tốt. Nếu nước Mỹ không còn tốt nữa, thì nước Mỹ sẽ không còn vĩ đại.

Reagan phát minh ra câu trích dẫn này lập luận rằng “người thông minh nhất trong tất cả các nhà quan sát của nước Mỹ” cho rằng sự vĩ đại của nó là do việc đi nhà thờ. Ông đối chiếu điều này với sự vô thần của đối thủ lớn của họ, Liên Xô:

Trong khi họ rao giảng về quyền tối cao của Nhà nước, tuyên bố quyền toàn năng của nó đối với cá nhân con người, và dự đoán sự thống trị cuối cùng của nó đối với tất cả các dân tộc trên trái đất, họ là tâm điểm của cái ác trong thế giới hiện đại.

Lịch sử như quyền lực mềm

Reagan hiểu rằng chiến thắng trong Thế chiến II đã cung cấp cho cả Mỹ và Liên Xô quyền lực mềm và cứng. Ngay cả khi ông thực hành xây dựng quân đội, ông đã đàm phán để kiểm soát vũ khí, nhưng cuối cùng lại làm suy yếu sức mạnh mềm của Liên Xô bằng những bài phát biểu như thế này.

Đó là sức mạnh mềm, không phải cứng đã mang lại sự sụp đổ của Liên Xô. Điều này đòi hỏi nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev phải mua vào câu chuyện về khối lượng [tính cởi mở], một điều chắc chắn nhất là chìa khóa cho các chủ đề chính của phương Tây, không phải các câu chuyện của Liên Xô [hoặc hiến pháp của nó].

Sức mạnh của tường thuật là phi thường, và không được hiểu rõ như sức mạnh cứng [ví dụ như quân đội]. Những câu chuyện về những người như Hitler, kẻ ác nhất trong lịch sử thế giới theo giới trẻ ngày nay, có sức mạnh để biến con người và các dân tộc thành anh hùng và nhân vật phản diện. Những điều này làm tăng thêm hoặc làm suy yếu quyền lực cứng.

Mô hình gánh nặng lịch sử cho các quốc gia phe Trục Đức và Nhật Bản, được chọn vào vai những kẻ phản diện trong Thế chiến thứ hai, đã làm suy yếu khả năng khẳng định quyền lực chính trị toàn cầu của họ trong nửa cuối thế kỷ 20, mặc dù họ là một trong những nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới.

Sự hình thành của Liên minh Châu Âu được hỗ trợ bởi hai lực lượng bổ sung về quyền lực mềm: Người Đức cần một bản sắc tích cực [cao cấp] sau chiến tranh và bản sắc Pháp trở nên Âu hóa hơn như một cách để củng cố quyền lực của Pháp. Trong khi việc ký kết các hiệp ước hình thành Cộng đồng Kinh tế Châu Âu và sau đó là Liên minh Châu Âu có thể mang tính quyết định, các nhà sử học đã hỗ trợ bằng cách phát triển thêm các tài khoản đồng thuận về quá khứ đã cho phép danh tính mới xuất hiện, kết thúc hơn một thế kỷ cạnh tranh và chiến tranh trả thù giữa hai quốc gia này.

Ngược lại, Nhật Bản không có khả năng đi đến đồng thuận về ý nghĩa của Thế chiến II với các nước láng giềng đã khiến Châu Á không có khả năng đạt được mức thỏa thuận cần thiết cho một “Liên minh Châu Á”.

Sự liên quan của những ký ức tập thể này có thể đang mờ dần khi là tâm điểm chú ý của thế giới với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là hệ quả trực tiếp của Thế chiến thứ hai, mà là công trình của hai đến ba thế hệ tiếp nối sau đó. Lịch sử là một bữa tiệc xúc động với các bài học và các vị trí nhận dạng phát triển mạnh như giao tiếp hoặc “ký ức sống động”Của các thế hệ còn sống đang truyền đạt cho nhau những câu chuyện của cuộc đời họ.

Vụ đánh bom Trân Châu Cảng và chủ nghĩa anh hùng của Hoa Kỳ để đáp trả đã mang lại cho Hoa Kỳ một vị thế vô song của quyền lực mềm và cứng sau Thế chiến thứ hai: một câu chuyện về sự cứu chuộc. Việc Trung Quốc gần như bị chia cắt và sự đau khổ của nó dưới tay Nhật Bản đã cung cấp cho Trung Quốc một vị thế bản sắc khác và bài học khác. Khi Thế chiến thứ hai biến mất khỏi ký ức sống, và các cuộc khủng hoảng mới xuất hiện để thách thức thế giới của chúng ta, những bài học mới và vị trí nhận dạng nào trong thế kỷ mới sẽ khắc ra?

James H. Liu, Giáo sư Tâm lý học, Đại học Massey

Bài viết này được tái bản từ Conversation theo giấy phép Creative Commons. Đọc ban đầu bài viết.

Ngược dòng thời gian trở về với bối cảnh lịch sử trước trận chiến. Vào năm 1931, đế chế Nhật Hoàng đã mở rộng bành trướng với cuộc xâm lược Mãn Châu Lý rồi chiếm dần một phần rộng lớn lãnh thổ Trung Quốc. Năm 1940, quân đội Nhật Hoàng gia nhập liên minh với Đức và Ý tạo thành khối Trục. Với mục tiêu mở rộng tìm kiếm nguồn tài nguyên, Nhật Bản tiếp tục cuộc chinh phục thôn tín châu Á, xâm chiếm Đông Dương lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp.

Để ngăn chặn đà bành trướng của đế chế quân phiệt Nhật, Hoa Kỳ áp đặt trừng phạt kinh tế với nước Nhật vào mùa hè năm 1941. Người Nhật bị mất nguồn năng lượng, nguyên liệu sản xuất, lại càng trở nên hung hăng mở rộng thuộc địa tìm kiếm tài nguyên.Trong khi đó, nước Mỹ đang ở vào thời kỳ phồn thịnh kinh tế, người dân không muốn có chiến tranh, chính phủ Mỹ ban đầu còn dè dặt không muốn nhảy vào các mặt trận châu Âu cũng như Thái Bình Dương.

Nhưng ván bài của nước Mỹ đã thay đổi hoàn toàn khi quân đội Nhật Hoàng bí mật chuẩn bị hơn 400 chiến đấu cơ và 6 tàu sân bay bất ngờ mở cuộc tấn công cảm tử vào Trân Châu Cảng, một căn cứ lớn của Mỹ giữa Thái Bình Dương. Mục đích là không để người Mỹ cản trở cuộc chinh phục Đông Nam Á của đế quốc mặt trời mọc.

Sáng ngày 07/12/1941, các chiến đấu cơ của Nhật xuất phát từ nơi cách mục tiêu 350 km đã ồ ạt mở cuộc tấn công vào đảo Oahu, trong quần đảo Hawai. Đợt không kích đầu tiên bắt đầu lúc 7g55, rồi đợt thứ 2 sau đó 1 giờ. Bị tấn công bất ngờ không kịp trở tay, căn cứ Mỹ đã bị thiệt hại nặng nề. Hơn 2400 binh lính và nhân viên Mỹ bị thiệt mạng và hơn 1000 người bị thương. 21 chiến hạm bị đánh chìm hoặc hư hại nặng, 328 chiến đấu cơ bị phá hủy. Trong trận chiến này, người Nhật chỉ bị mất 64 người, 29 máy bay và 5 tàu ngầm loại nhỏ.

Cuộc giao chiến của quân đội Nhật Hoàng không chỉ dừng lại ở đó. Chưa đầy 24 giờ sau oanh kích vào Trân Châu Cảng, Nhật tiếp tục mở các cuộc tấn công vào các lực lượng Mỹ tại Philippines, tấn công quân Anh tại Hồng Kông, Singapore và Malaysia.

Đó là lần đầu tiên kể từ năm 1812, Hoa Kỳ bị tấn công ngay trên lãnh thổ của mình và thiệt hại nặng nề chưa từng thấy. Tổng thống Roosevelt gọi hôm đó là « ngày nhục nhã » của nước Mỹ.

Một ngày sau khi bị Nhật Bản dội bom đạn ồ ạt vào căn cứ lớn gây tổn thất nặng nề, Quốc Hội Mỹ đã chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, tiếp sau đó đến lượt Vương Quốc Anh cũng chính thức nhảy vào cuộc chiến với Nhật. Ba ngày sau đó, đến lượt nước Đức Quốc Xã của Hitler tuyên bố chiến tranh với Mỹ. Đến cuối tháng 12 năm đó, Churchill và Roosevelt quyết định tập hợp quân đội hai nước dưới sự chỉ huy thống nhất để chống lại quân Đức Quốc Xã.

Tại Mỹ, mọi nguồn lực kinh tế và con người bắt đầu được huy động tổng lực cho cuộc chiến tranh lớn. Toàn bộ hạm đội tàu chiến được xây dựng lại. Máy bay, đại bác, chiến xa và các phương tiện hậu cần cho quân đội được sản xuất hàng loạt trong các nhà máy chạy hết công suất. Tất cả các công dân Mỹ từ 20 đến 40 tuổi đều được huy động vào quân đội.

Cuộc chiến Thái Bình Dương

Sáu tháng sau trận chiến Trân Châu Cảng, quân đội Nhật Hoàng tiếp tục bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Các vùng đất Hồng Kông, Singapore, Philippines, các đảo lớn của Indonesia như Borneo, Sumatra, Java rồi Miến Điện lần lượt rơi vào tay quân Nhật. Kể từ năm 1942, Hoa Kỳ đã ngăn chặn được các cuộc tấn công của quân đội Nhật ở các hòn đảo như Midway, Guadalcana và lần lượt giành lại nhiều hòn đảo trong Thái Bình Dương.

Cuối năm 1944, người Mỹ mở cuộc tấn công ồ ạt bằng không quân vào đất Nhật và khi cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 sắp kết thúc, người Mỹ đã có một quyết định điên rồ nhất, có thể trong đó cũng ẩn chứa một chút hận thù với người Nhật, đó là ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 06/08/1945 và Nagasaki ngày 09/08/1945. Nhật Hoàng phải ký đầu hàng đồng minh, kết thúc Thế chiến thứ 2 tại châu Á.

Cùng lúc với mặt trên trên Thái Bình Dương, Hoa Kỳ còn mở rộng các cuộc ném bom ồ ạt vào Bắc Phi, miền nam nước Ý và Pháp cho đến tận khi đế chế Quốc Xã của Hitler sụp đổ hoàn toàn vào ngày 07/05/1945.

Trân Châu Cảng, nguồn cảm hứng cho kịch bản "Thế chiến thứ 3"?

75 năm đã trôi qua, cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng vẫn luôn là bài học lịch sử cho nước Mỹ nói chung và cho giới quân sự nói riêng. Bộ Quốc phòng Mỹ giờ đây đặc biệt chú đến « Ghost Fleet », tên một cuốn tiểu thuyết lấy cảm hứng từ trận Trân Châu Cảng, giả định về một cuộc chiến tranh trong tương lai giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc và Nga.

Rất nhiều quan chức cao cấp quân sự Mỹ đã khuyên các cấp dưới của mình nên đọc cuốn tiểu thuyết trên của hai đồng tác giả August Cole và P.W.Singer, xuất bản năm 2015. Hai tác giả này còn được quân đội Mỹ nhiều lần mời tọa đàm về cuốn sách của họ và nhất là các kịch bản chiến tranh mà họ viết trong sách.

Giới quân nhân Mỹ rất thích thú với cuốn tiểu thuyết đã mô tả chi tiết thế nào là một cuộc chiến tranh trong tương lai với sự tham gia của các loại máy bay được điều khiển từ xa, các máy tính với dung lượng cực mạnh, các hacker, laser và cả một phi thuyền không gian.

Đô đốc Harry Harris, tư lệnh các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, đã bình luận : « tác phẩm đã đặt lại vấn đề một số học thuyết quân sự trên cơ sở cấu thành các lực lượng của chúng ta, trên sức mạnh của hệ thống mới và trên cả cách thức chúng ta chiến đấu ».

Trong cuốn truyện « Ghost Fleet », tạm dịch : « Hạm đội ma », quân đội Trung Quốc bất ngờ tấn công vào căn cứ Trân Châu Cảng, lần này còn có sự hiện diện của các tàu chở hàng dân sự. Một lần nữa, giống như kịch bản cuộc tấn công của người Nhật năm 1941, hạm đội Mỹ cũng bị phá hủy nặng nề.

Cuộc tấn công được quyết định bởi một « ban lãnh đạo » tức một nhóm tỷ phú và chỉ huy quân đội Trung Quốc vừa chiếm quyền tại Bắc Kinh. Nhóm này muốn đế chế của họ được tiếp cận các nguồn tài nguyên năng lượng ở vùng biển sâu giữa Thái Bình Dương.

Cũng như cuộc tấn công của quân đội Nhật năm 1941 đã lôi Hoa Kỳ vào Thế chiến thứ 2, « ban lãnh đạo » Trung Quốc tìm cách ngay lập tức tiêu diệt đối thủ Mỹ bằng cách đột ngột cắt đứt trung tâm đầu não của lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương.

Nhưng cuộc tấn công thực sự bất ngờ của « ban lãnh đạo » Trung Quốc bắt đầu ở những giờ trước khi có diễn ra trận đánh vào Hawai « trong không gian và trên mạng ». Với việc phá hủy các vệ tinh viễn thông và quan sát của Mỹ nhờ một hệ thống laser được kích hoạt từ một trạm quỹ đạo của Trung Quốc, toàn bộ hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ bị nhiễu loạn.

Như vậy người Trung Quốc đã làm tê liệt toàn bộ khả năng đáp trả của quân đội Mỹ, lúc này chỉ còn như là người khổng lồ chân đất sét. Các máy bay tàng hình F-35 của Mỹ bị gài các chíp điện tử của Trung Quốc trở nên mù, mất khả năng điều khiển vũ khí. Các chỉ huy quân đội Mỹ bị mất hệ thống thông tin cực kỳ hiện đại…

Sau cơn choáng váng vì các đòn tấn công từ mọi phía, người Mỹ bắt đầu định thần lại, họ huy động các hacker trẻ, một tỷ phú lập dị của Silicon Valley và cả một dây chuyền hậu cần khổng lồ của nhà phân phối bán lẻ Walmart…. Tất cả lao vào một cuộc phản công đầy kỳ thú và chiến thắng cuối cùng thuộc về người Mỹ.

Cuốn « Ghost Fleet » đã được tái bản nhiều lần ở Mỹ và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Hoa, nhưng dành cho thị trường Đài Loan.

Video liên quan

Chủ Đề