Thế nào là chương trình tiếp cận nội dung

Sự khác biệt dạy học tiếp cận nội dung và dạy học tiếp cận phát triển năng lực

Đọc bài Lưu

1. Dạy học theo nhóm

- Dạy học nhómlà một hình thức xã hội của dạy học và học sinh của một lớp được chia thành các nhóm nhỏ, thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian cho trước và tự hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kết quả của nhóm sẽ được trình bày trước lớp.

-10 tiêu chí để thành lập nhóm:

+ Nhóm gồm những người tự nguyện, có cùng hứng thú với nhau.

+Các nhóm ngẫu nhiên bằng cách gọi theo danh sách hoặc đếm số thứ tự.

+Nhóm ghép hình phân chia bằng cách ghép 1 bức tranh hoặc tờ giấy lại.

+Các nhóm có chung đặc điểm là sinh theo tháng hoặc cùng ngày.

+Nhóm cố định trong một thời gian dài

+Nhóm có học sinh khá để hỗ trợ học sinh yếu.

+Phân chia theo năng lực học tập.

+Phân chia theo dạng học tập.

+Nhóm với các bài tập khác nhau.

+Phân chia học sinh nam, học sinh nữ.

-Tiến trình dạy học nhóm có thể chia làm 3 giai đoạn:

+Nhập đề và giao nhiệm vụ

+Làm việc nhóm: gồm các bước chuẩn bị, lập kế hoạch làm việc, thỏa thuận quy tắc làm việc, tiến hành giải quyết nhiệm vụ và chuẩn bị báo cáo.

+Trình bày kết quả và đánh giá, nhận xét.

-Ưu điểm của phương pháp dạy học nhóm là:

+Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của học sinh.

+Phát triển năng lực cộng tác làm việc.

+Phát triển năng lực giao tiếp.

+Hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội.

+Tăng cường sự tự tin cho học sinh.

+Tạo khả năng dạy học phân hóa.

+Hiệu quả học tập cao.

-Nhược điểm của phương pháp:

+Đòi hỏi nhiều thời gian

+Nhiều khi kết quả mang lại không như mong muốn

+Lớp ồn

2. Giải quyết vấn đề

Giải quyết vấn đềcó vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển nhận thức và tư duy của con người. Mục đích của phương pháp này là giúp rèn luyện năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.

Tiến hành theo 3 bước như sau:

+Phát hiện vấn đề: Học sinh cần phân tích được tình huống có vấn đề xảy ra nhằm phát hiện và trình bày vấn đề rõ ràng.

+Nội dung giải quyết vấn đề: học sinh sẽ tìm ra các phương án để giải quyết vấn đề và chọn ra phương án tối ưu nhất.

+Giải quyết vấn đề: Từ những phương án được ra, học sinh sẽ so sánh, phân tích và đánh giá phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.

3. Hỏi - đáp

Cùng với những phương pháp trên, Hỏi - đáp cũng là một lựa chọn quen thuộc được áp dụng trong công tác giảng dạy. Là phương phápvấn đáphay đàm thoại được sử dụng nhằm mục đích giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ.

Kĩ thuật đặt câu hỏi:

+ Chuẩn bị câu hỏi ban đầu bằng cách xây dựng một hệ thống câu hỏi gồm 2 nhóm [ câu hỏi chốt, câu hỏi khái quát; câu hỏi mở rộng hay câu hỏi bổ sung].

+ Xem xét sự phù hợp của các câu hỏi trong hệ thống câu hỏi đặt ra với yêu cầu: câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, chính xác, phù hợp với mục đích hỏi.

4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò

Trong dạy học, việcđánh giáhọc sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.

Việckiểm tra, đánh giákhông thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

III. MỤC TIÊU VÀ HỆ MỤC TIÊU GIÁO DỤC


3.1. Khái niệm mục tiêu


Trong đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào trong đó có hoạt động giáo dục đều hướng đến đạt được một kết quả, một mục đích, một kỳ vọng nào
đó. Tính mục đích hay hướng đích của các hoạt động vừa mang tính định hướng vừa tạo động lực, động cơ thúc đẩy hoạt động trong các mơi trường, điều kiện
và hồn cảnh nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng , thuật ngũ mục tiêu được giải nghĩa là cái ” đích ” hướng tới của các hoạt động. Do các hoạt
động đều diễn ra theo một quá trình nhất định với nhiều giai đoạn trung gian nên mục tiêu không chỉ đơn thuần là đích tận cùng, mục tiêu còn là những điểm
mốc tham chiếu trung gian dùng để đánh giá sự tiến triển và để xác định xem hoạt động có đi đúng hướng hay khơng. Khơng có mục tiêu rõ ràng, tường
minh, chúng ta không thể đánh giá mức độ thành công của hoạt động, và cũng không thể nhận biết hoạt động có đi chệch hướng hay khơng, chệch đến mức
nào và làm thế nào để điều chỉnh cho đúng hướng. 3.2. Hệ mục tiêu giáo dục
Theo cách hiểu thông thường mục tiêu giáo dục là ‘ cái cái đích hướng tới ‘ của q trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người,
nhân cách nghề nghiệp tướng ứng với một loaị hình lao dộng nghề nghiệp trong các giai đoạn phát triển cụ thể của đời sống xã hội.
Theo từ điển Giáo dục học- NXB Từ điển bách khoa 2001 khái niệm mục tiêu giáo dục được định nghĩa là : ‘ Mơ hình nhân cách có tính định chuẩn của
cả hệ thống giáo dục quốc dân hay của từng phân hệ giáo dục được xác định trên cơ sở những yêu cầu của xã hội về người công dân, về nguồn nhân lực ‘ .
Mục tiêu giáo dục không chỉ dừng ở việc trang bị hệ thống kiến thức đơn thuần, hình thành kỹ năng hành nghề mà còn cần phát triển các phẩm chất trí tuệ và
5

Video liên quan

Chủ Đề