Thế nào là tính sáng tạo của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng?

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

-     Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.

-     Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trinh tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo [tức phản ánh ý thức]. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hoá của vật chất tự nhiên.

+ Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hoá [thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý - hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất] khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.

+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cam giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.

+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động của môi trường sống.

+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động,sáng tạo chỉ có ở con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.

-    Nguồn gốc xã hội của ý thức:

Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.

+ Ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức, tức hình thức vật chất nhân tạo đóng vai trò thể hiện và lưu giữ các nội dung ý thức.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí,... giữa các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội. Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác...

Loigiaihay.com

I. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC

Ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

1. Nguồn gốc tự nhiên:

– Ý thức là sản phẩm của quá trình phản ánh lâu dài của 1 dạng vật chất sống có tổ chức cao [não người chứa hàng tỉ nơron thần kinh].

– Phản ánh là năng lực tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này bởi dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.

– Các hình thức phản ánh:

+ Vật lý;

+ Sinh học: Kích thích và cảm ứng;

+ Tâm lý;

+ Phản ánh của bộ óc người hình thành ý thức: đỉnh cao của sự phản ánh.

Vì vậy thế giới bên ngoài cùng năng lực phản ánh của bộ óc người tác động thế giới khách quan.

2. Nguồn gốc xã hội:

a. Lao động:

– Định nghĩa: Lao động là hoạt động có mục đích mà trong đó con người dùng công cụ lao động tác động lên thế giới tự nhiên

– Vai trò:

+ Bằng hoạt động lao động, con người sẽ tác động và thế giới vật chất, làm bộc lộ ra những thuộc tính, những quy luật của nó, những kết cấu của nó rồi sau đó con người nhận thức để hình thành nên những tri thức mà tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.

+ Bằng hoạt động lao động sẽ giúp cho giác quan của con người hoàn thiện hơn [bộ não hoàn thiện hơn], năng lực nhận thức phản ánh tốt hơn.

+ Thông qua lao động, các quan hệ xã hội được hình thành từ đó các ý thức củaxã hội như tôn giáo, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật được hình thành.

b. Ngôn ngữ:

– Định nghĩa: Là 1 hệ thống những tín hiệu mang nội dung vật chất, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.

– Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Nhờ có ngôn ngữ con người đã giao tiếp, trao đổi với nhau, khái quát, tổng kết thực tiễn và truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Tóm lại: nếu như nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần thì nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để hình thành ý thức con người. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thứ phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.

II. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC

Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh có tính chất năng động, sáng tạo của bộ óc con người về thế giới khách quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Ý thức là một hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh này bị thế giới khách quan quy định về nội dung, về hình thức nhưng không còn y nguyên như cũ mà đãđược cải tiến, tạo ra 1 hình ảnh mới về sự vật. Đó là hình ảnh tinh thần. C.Mác nói: “Ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.

Sự phản ánh của ý thức mang bản chất sáng tạo:

– Dựa vào những tri thức đã có, con người ta tạo ra những tri thức mới.

– Người ta dự báo được tương lai và tưởng tượng ra những cái không có trong hiện thực.

– Sự phản ánh của ý thức được thống nhất bởi 3 quá trình:

+ Sự trao đổi thông tin giữa chủ thể với đối tượng nhận thức.

+ Mô hình hoá đối tượng tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.

+ Đưa cái mô hình đó ra ngoài hiện thực.

Bản chất ý thức là sự phản ánh có mục đích tích cực, có kế hoạch.

Ý thức mang bản chất xã hội và nó là 1 hiện tượng xã hội vì sự tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, nó không chỉ bị chi phối bởi quy luật tự nhiên mànó còn bị chi phối bới quy luật xã hội.

Tóm lại: ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, riêng có của óc người về hiện thức khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử.

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thứcnguồn gốc tự nhiênnguồn gốc xã hội.

– Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trinh tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo [tức phản ánh ý thức]. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hoá của vật chất tự nhiên.

+ Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hoá [thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý – hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất] khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.

+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cam giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.

+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động của môi trường sống.

+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.

– Nguồn gốc xã hội của ý thức:

Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

>>> Xem thêm: Vai trò của lao động đối với sự hình thành của ý thức

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.

+ Ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức, tức hình thức vật chất nhân tạo đóng vai trò thể hiện và lưu giữ các nội dung ý thức.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí,… giữa các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội. Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác…

Bản chất của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.

– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.

– Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất của ý thức có tính xã hội.

Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm  thường coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.

Ý nghĩa phương pháp luận

– Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí.

– Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.

Các tìm kiếm liên quan đến nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức, Ví dụ về bản chất của ý thức, Bản chất của ý thức, Kết cấu của ý thức, Nguồn gốc và bản chất của ý thức, Vai trò của ý thức, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Vật chất quyết định bản chất của ý thức, Vật chất và ý thức

Video liên quan

Chủ Đề