Tiểu cầu cao ở trẻ số sinh

  • Sức khỏe
  • Tin tức

Thứ ba, 19/10/2021, 16:57 (GMT+7)

Vĩnh LongBé 45 ngày tuổi được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á cấp cứu do xuất huyết da niêm toàn thân, tiểu cầu chỉ còn 6.000/mm3 máu.

Ngày 19/10, bác sĩ chuyên khoa I Trần Đăng Khoa, Phó trưởng Khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á Vĩnh Long, cho biết đây là trường hợp xuất huyết giảm tiểu cầu mức độ rất nặng, đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.

"Tiểu cầu ở người bình thường từ 150.000 đến 350.000/mm3 máu, khi bệnh tiểu cầu giảm còn dưới 100.000/mm3, ở đây bé chỉ còn 6.000/mm3 là rất nặng", bác sĩ Khoa chia sẻ.

Ê kíp bác sĩ hội chẩn quyết định truyền tiểu cầu và điều trị đặc hiệu theo phác đồ cho bé. Sau một tuần tích cực điều trị và theo dõi sát, bé đáp ứng tốt, số lượng tiểu cầu tăng lên ngưỡng an toàn, bé được xuất viện.

Bác sĩ Khoa cho biết xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát hay còn được gọi là xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, là căn bệnh thể hiện sự rối loạn đông cầm máu có thể khiến cơ thể người bệnh bầm tím hoặc chảy máu. Sự xuất huyết xảy ra khi số lượng tiểu cầu (thành phần giúp đông máu và cầm máu) thấp một cách bất thường. Trung bình, lượng tế bào máu ngoại vi đạt khoảng 150.000 tiểu cầu trên 1 microlit máu (mm3). Bệnh nhân bị xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát, lượng tiểu cầu dưới 20.000/ mm3 máu. Bệnh nhân sẽ gặp nguy hiểm nếu như tiểu cầu giảm xuống dưới 10.000/mm3 máu có thể gây chảy máu não, đường tiêu hóa...

Bệnh lý này rất thường gặp ở trẻ em, nhất là trong giai đoạn 2-9 tuổi, nguyên nhân có thể giảm tiểu cầu do kháng thể đồng chủng; do thuốc và hóa chất; có loại chưa rõ căn nguyên; do bị các bệnh nhiễm trùng nặng, nhiễm siêu vi trùng (cúm, sởi, quai bị, viêm gan siêu vi), nhiễm ký sinh trùng (sốt rét).

Giảm tiểu cầu tự phát còn có thể do độc chất và tác dụng của một số loại thuốc gây ra như: thuốc hạ nhiệt, thuốc an thần, thuốc cảm cúm, kháng sinh... Đa số nguyên nhân xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ dưới 6 tháng liên quan bệnh lý huyết học hoặc việc sử dụng thuốc ở mẹ.

Tiểu cầu cao ở trẻ số sinh

Phụ nữ cần tiêm ngừa các bệnh lý nhiễm  trùng, nhiễm virút trước khi mang thai

Nguyên nhân thường gặp

Giảm sản xuất tiểu cầu thường liên quan đến một vấn đề tủy xương (chứng mất bạch cầu hạt). Hầu hết trong các trường hợp này thì hồng cầu và bạch cầu cũng bị ảnh hưởng. Nhiễm virút ảnh hưởng đến tủy xương cho thai nhi gặp trong lúc mang thai trong những tháng đầu thai kỳ mẹ bị nhiễm: rubella, quai bị, trái rạ (thủy đậu), viêm gan C, Epstein-Barr virút và HIV. Ngoài ra, trong giai đoạn mang thai mẹ uống thuốc Chloramphenicol, thiếu vitamin B12, thiếu sắt, thiếu acid folic, mẹ nghiện thuốc lá.

Tăng phá hủy hoặc tiêu thụ tiểu cầu có thể được tìm thấy trong một số trường hợp như một số loại thuốc gây ra phản ứng miễn dịch chống lại tiểu cầu do mẹ uống thường xuyên trong lúc mang thai: kháng sinh sulfanamide, digoxin, quinine, rifampin...

Nhiễm trùng nặng sơ sinh (nhiễm trùng huyết), nhiễm trùng ối, sinh ngạt hoặc chấn thương trong quá trình sinh, đôi khi có thể gây ra sự tiêu hao làm giảm tiểu cầu. Đặc biệt, trẻ sinh non tháng do thiếu hụt các yếu tố đông máu và lượng prothrompin thấp gây ra tình trạng xuất huyết các phủ tạng, điều này làm giảm sự tiêu hao tiểu cầu, sinh non gây nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm phổi và viêm ruột hoại tử gây ra giảm tiểu cầu trầm trọng.

Dấu hiệu nhận biết

Các dấu hiệu trong giảm tiểu cầu ở mức độ nhẹ thường ít có biểu hiện. Thường xảy ra sau 3 ngày tuổi, đa số triệu chứng ban đầu của trẻ là nhiễm trùng sơ sinh hay liên quan đến viêm ruột hoại tử, trẻ sinh ngạt, đa hồng cầu, tim bẩm sinh, u nguyên bào thần kinh. Dấu hiệu xuất huyết, thường mức độ nhẹ như chấm xuất huyết trên da thành từng mảng toàn thân hay nốt bầm tím, mức độ nặng như xuất huyết nội sọ, xuất huyết nội tạng: xuất huyết phổi, thượng thận… Kèm theo gan to, lách to.

Ngoài triệu chứng giảm tiểu cầu, còn kèm theo thiếu máu, khi lượng hemoglobin dưới 13g/dl. Thay đổi hình dạng hồng cầu, bạch cầu trên phết máu ngoại biên. Mức độ giảm số lượng tiểu cầu có tỉ lệ thuận với mức độ xuất huyết. Mức độ xuất huyết xảy ra khi lượng tiểu cầu giảm dưới 60.000 trong một microlit máu.

Điều trị

Đây là một bệnh lý rối loạn chảy máu gặp ở trẻ sơ sinh. Việc điều trị cơ bản là nâng số lượng tiểu cầu lên, bằng cách truyền tiểu cầu đậm đặc, song song đó là điều trị tích cực bệnh lý nhiễm trùng. Trong một số trường hợp có chỉ định dùng corticoid có liên quan đến cơ chế miễn dịch.

Thực tế, tỉ lệ tiểu cầu được nâng lên sau khi truyền 1 lần tiểu cầu đạt hiệu quả: 92 - 95%, đồng thời phối hợp với điều trị bệnh lý nền. Theo một số chuyên gia khẳng định, mặc dù những trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng cần được truyền tiểu cầu nhiều hơn, nhưng tiểu cầu có thể hồi phục lại qua 5 - 7 ngày khi nhiễm trùng sơ sinh hoặc viêm ruột hoại tử đã được giải quyết.

Theo dõi sát trong quá trình chuyển dạ sinh, cần can thiệp đúng lúc, khi cuộc chuyển dạ có dấu hiệu bất thường, nhịp tim thai dao động. Tránh để có xảy ra ngạt cho trẻ.

BS. NGUYỄN THUẬN HẢI

Lời khuyên của thầy thuốc

Để dự phòng giảm tiểu cầu sơ sinh, người mẹ trong quá trình mang thai không nên sử dụng bất kỳ các loại thuốc nào mà có nguy cơ ảnh hưởng đến bào thai, cần phải thực hiện tốt theo sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa; tiêm ngừa các bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm virút, như: Rubella, viêm gan siêu vi B, điều trị tốt các bệnh lý nhiễm trùng khác trước khi mang thai. Những bà mẹ có tiền căn sinh non, cần có chế độ nghỉ ngơi đặc biệt, khi có dấu hiệu bất thường cần điều trị sớm.