Tìm từ là gì
(Last Updated On: 21/07/2021 by Lytuong.net) Show
Mục lục
Khái niệm từTừ trước tới nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Ngay trong giới Việt ngữ, việc định nghĩa từ hay sự nhận diện ranh giới của từ cũng theo hai khuynh hướng khác nhau. Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp thì đồng nhất tiếng với từ. Trong khi đó, các tác giả khác như Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ, Đái Xuân Ninh, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu,… [dẫn theo 11] lại không đồng nhất tiếng với từ. Ở bài giảng này, để tiện theo dõi, chúng tôi theo quan điểm về từ của GS.TS Đỗ Thị Kim Liên. “Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một hoặc một số âm tiết, có ý nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu” [11, tr.18]. Các tiêu chí nhận diện từ– Từ là đơn vị của ngôn ngữ, có âm thanh được biểu thị bằng một hoặc một hoặc một số âm tiết.
Cấu tạo từ tiếng ViệtĐơn vị cấu tạo từ tiếng ViệtTrong ngôn ngữ, từ chưa phải là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Nếu phân xuất từ, ta có được những đơn vị nhỏ hơn gọi là hình vị. Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa được dùng để cấu tạo nên từ. – Từ trước đến nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau khi định nghĩa hình vị. Có nhiều nhà ngôn ngữ đã định nghĩa về hình vị – đơn vị ngữ pháp cơ sở của Ngữ pháp học. Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” (Nguyễn Như Ý chủ biên) có nêu một số cách định nghĩa của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam như: Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Anh Quế, Hữu Quỳnh, Phan Thiều, Trần Ngọc Thêm, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Võ Bình, Đái Xuân Ninh… Xin được dẫn ra một số cách định nghĩa: “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất mà có mang ý nghĩa, mang giá trị ngữ pháp” (Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN, H., 1994, tr.67) “Hình vị là đơn vị hai mặt, có đầy đủ tính chất tín hiệu. Đã là tín hiệu thì cái quan trọng, về mặt chức năng là phần nội dung biểu đạt, nó quyết định sự tồn tại của bản thân tín hiệu” (Phan Thiều, “Thảo luận chuyên đề Tiếng, hình vị và từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, 2 , H., 1984, tr.54). “Hình vị là một đơn vị ngôn ngữ có nghĩa, nhỏ nhất và không độc lập về cú pháp”. (Trần Ngọc Thêm, “Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học đại cương”, Ngôn ngữ, 1). “Hình vị là những đơn vị được tạo ra từ các âm vị, tự thân có nghĩa nhưng không được dung trực tiếp để giao tiếp, tức không trực tiếp được dùng để kết hợp với nhau tạo thành câu”. (Đỗ Hữu Châu, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD , H., 1985, tr. 5) Ju. X. Xtêpanov trong Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, từ phương diện cấu tạo, đưa ra định nghĩa: “Hình vị là lớp các hình tố tương đồng mà mỗi hình tố lại gồm nhiều âm vị nhánh và được gặp trong một vị trí nhất định nào đó”. Tóm lại, dù định nghĩa hình vị ở góc độ và phương diện nào thì các nhà ngôn ngữ cũng dễ thống nhất với nhau ở những đặc điểm của hình vị:
Thứ nhất, ranh giới hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Tiêu biểu gồm các tác giả như M.B.Emeneau, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Đinh Văn Đức, Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Văn Tu, Lê Văn Lý, Thứ hai, ranh giới hình vị không hoàn toàn trùng với ranh giới âm tiết. Tiêu biểu là các tác giả như L Thompson, Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Kim Thản…). Trong học phần này, chúng tôi theo quan điểm của khuynh hướng thứ nhất, tức là ranh giới của hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Trong tiếng Việt, âm tiết bằng với tiếng. Tuy nhiên, về mặt thuật ngữ ngôn ngữ học, âm tiết không cần chứa nghĩa, còn tiếng phải có nghĩa (hoặc tiềm ẩn nghĩa). Đối với người Việt, tiếng là đơn vị dễ nhận diện nhất. Và tiếng (hình vị) chính là đơn vị trực tiếp cấu tạo từ tiếng Việt. Phân loại từ tiếng Việt theo cấu tạoXét ở mặt số lượng tiếng, chúng ta có:
Căn cứ vào mặt quan hệ giữa các thành tố cấu tạo từ, người ta tiếp tục phân loại từ phức (từ đa tiết) ra làm các loại: từ ghép, từ láy, từ ngẫu kết. (Xem tài liệu [1, tr.48-74], [3, tr.2-24]) 1. Từ ghép Từ ghép là từ chứa hai (hoặc hơn hai) hình vị và trong đó nhìn chung không có hiện tượng “hoà phối ngữ âm tạo nghĩa”. [1, tr.48] Về mặt ngữ pháp, từ ghép được chia thành 2 nhóm lớn theo kiểu quan hệ giữa các thành tố: từ ghép đẳng lập (còn gọi là từ ghép song song) và từ ghép chính phụ. a. Từ ghép đẳng lập Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là:
Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa của từ ghép, ta chia từ ghép đẳng lập thành 3 kiểu chính là: từ ghép gộp nghĩa, từ ghép lặp nghĩa, từ ghép đơn nghĩa. a1. Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: (từ ghép hội ứng) Ví dụ: điện nước, xăng dầu, nghe nhìn, ăn uống, học tập, may rủi,… Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép đẳng lập gộp nghĩa:
a2. Từ ghép đẳng lập lặp nghĩa (từ ghép trùng ứng) Ví dụ: núi non, binh lính, cấp bậc, may phúc, thay đổi, tìm kiếm,… Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép lặp nghĩa:
a3. Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa (từ ghép đẳng lập đơn ứng) Ví dụ: chợ búa, đường sá, xe cộ, tre pheo, bếp núc, sầu muộn,… Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép đẳng lập đơn nghĩa
b. Từ ghép chính phụ Từ ghép chính phụ có những đặc trưng chung là:
b1. Từ ghép chính phụ dị biệt:là từ ghép trong đó tên gọi nêu ở thành tố chính được cụ thể hóa bằng cách thêm vào một tên gọi ở thành tố phụ, làm cho những sự vật cùng loại được gọi tên ở thành tố chính phân biệt được với nhau nhờ thành tố phụ. Ví dụ: – xe đạp, xe máy, xe lửa, xe bò … – dưa hấu, dưa gang, dưa chuột, dưa bở … – toán học, sử học, vật lý học, khảo cổ học… – hợp tác hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,… b2. Từ ghép chính phụ sắc thái hóa:là từ ghép trong đó thành tố phụ có tác dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho toàn từ ghép này khác nghĩa với thành tố chính khi thành tố chính hoạt động như từ đơn và từ ghép sắc thái hóa này khác từ ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa. Ví dụ: – xanh lè, xanh um, xanh rì, xanh lục, xanh lơ … – thẳng đơ, thẳng tắp, thẳng đuột, thẳng tuột … 2. Từ láy Từ láy là “từ phức được tạo ra bằng phương thức láy âm có tác dụng tạo nghĩa” [1, tr.58]. Để tạo ra nhạc tính cho sự hòa phối âm thanh đối với một ngôn ngữ vốn giàu nhạc tính như tiếng Việt, sự láy không đơn thuần là sự lặp lại âm, thanh của âm tiết ban đầu mà bao giờ cũng có sự biến đổi âm, thanh nhất định, dù là ít nhất, để tạo ra cái thế vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Láy của tiếng Việt phải được hiểu là “sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa” [dẫn theo 1, tr.59). Ý nghĩa của từ láy là ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa ấn tượng. Căn cứ vào số lượng tiếng người ta thường chia từ láy ra làm 3 lớp: từ láy đôi, từ láy ba, từ láy tư. a. Từ láy đôi Từ láy đôi được xem xét dựa vào cách cấu tạo tương ứng của hai tiếng trong từ. Khi xem xét từ láy đôi, dựa vào yếu tố ngôn ngữ được lặp lại có thể phân biệt các kiểu:
a1. Từ láy toàn bộ: là từ láy trong đó tiếng gốc được lặp lại toàn bộ ở tiếng láy với sự khác biệt về thanh điệu hoặc trọng âm. Ví dụ: – hao hao, lăm lăm, đùng đùng…
a2. Từ láy bộ phận: + Từ láy âm đầu là từ có phụ âm đầu trùng lặp và có phần vần khác biệt ở tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: đủng đỉnh, rung rinh, mộc mạc, lúc lắc, hể hả, ngo ngoe, hổn hển, nhúc nhích, mỉa mai,… + Từ láy vần: là từ có phần vần trùng lặp và có phụ âm đầu khác biệt ở tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: luẩn quẩn, bâng khuâng, chạng vạng, khéo léo, hấp tấp, tần ngần, bỡ ngỡ, khúm núm, tẹp nhẹp,… b. Từ láy ba Từ láy ba là từ láy gồm 3 tiếng. Kiểu phối thanh thường gặp là:
Ví dụ: sạch sành sanh, dửng dừng dưng, cỏn còn con, sát sàn sạt, … c. Từ láy tư Là từ láy gồm 4 tiếng. Phần lớn từ láy tư có phần gốc là một từ láy đôi. Ví dụ: ấm ớ → ấm a ấm ớ hì hục → hì hà hì hục hăm hở → hăm hăm hở hở 3. Từ ngẫu kết Ngoài ra, tiếng Việt còn có một lớp từ mà người bản ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ góc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ ngẫu kết (từ ngẫu hợp) với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Ví dụ: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà nhắc, vằn thắn, lục tàu xá, a-xít, mit tinh, sơ mi, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, hắc ín, sô-cô-la.. |