Tính chất nào của giáo dục được biểu hiện qua nhận định sau ở đâu có con người ở đó có giáo dục

TRẮC NGHIỆM PHẦN GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [114.05 KB, 15 trang ]

TRẮC NGHIỆM PHẦN GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG.
Câu 1: Hiện tượng giáo dục xuất hiện trong xã hội loài người là nhờ và
do yếu tố nào trong các yếu tố nào dưới đây?
a. Do con người có ý thức.
b. Do con người có ngôn ngữ.
c. Do con người có tư duy.
d. Do con người có lao động.
e. Do cả 4 yếu tố trên. *
Câu 2: Nêu đầy đủ các yếu tố tạo thành quá trình sư phạm.
a. Khách thể, chủ thể giáo dục.
b. Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục.
c. Phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục.
d. Kết quả giáo dục.
e. Cả a,b,c,d.*
Câu 3: Giáo dục – với tư cách là một hiện tượng xã hội – là:
a. Hoạt động của thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ đi sau những
kinh nghiệm về lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng.
b. Hoạt động của những người trẻ tuổi tiếp thu những kinh nghiệm về
lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng.
c. Hoạt động của thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ đi sau những
kinh nghiệm về lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng và sự
tiếp thu của những người trẻ tuổi về những kinh nghiệm đó.*
d. Tất cả các hoạt động trên.
Câu 4: Giáo dục có đặc trưng cơ bản là:
a. Truyền đạt những kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá trình lịch sử
phát triển xã hội loài người.
b. Lĩnh hội những kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá trình lịch sử phát
triển xã hội loài người.
c. Truyền đạt và lĩnh hội nền văn hoá của xã hội loài người.
d. Truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá
trình lịch sử phát triển của xã hội loài người.*


Câu 5: Truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá
trình lịch sử phát triển của xã hội loài người, đó là nét đặc trưng cơ bản
của:
a. Quá trình sư phạm – đối tượng của giáo dục học.
b. Quá trình giáo dục – 1 bộ phận của quá trình sư phạm.
c. Quá trình dạy học - 1 bộ phận của quá trình sư phạm.
d. Giáo dục – 1 hiện tượng của xã hội loài người.*
Câu 6: Nhờ được giáo dục mà cá thể trở thành:
a. Con người.
b. Cá nhân.
c. Nhân cách.*
d. Người lớn tuổi.
Câu 7: Giáo dục làm cho:
a. Nhu cầu và năng lực của con người ngày càng phong phú và đa
dạng.
b. Nhân cách con người được phát triển ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện.
c. Sức mạnh tinh thần và sức mạnh thể chất của con người ngày càng
tăng lên.
d. Cả a, b, c.*
Câu 8: Giáo dục là điều kiện không thể thiếu được để duy trì và phát
triển đời sốngcủa con người, của xã hội loài người vì:
a. Giáo dục tái sản xuất những nhu cầu và năng lực của con người.
b. Giáo dục tái sản xuất những sức mạnh bản chất của con người.
c. Giáo dục tái sản xuất những nhân cách, sức lao động cần thiết phù
hợp với yêu cầu xã hội.*
d. Giáo dục tái sản xuất các hoạt động sống khác của xã hội.
Câu 9: Ở đâu có con người, ở đó có giáo dục vì:
a. Giáo dục là một hoạt động có mục đích của con người.
b. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người.


c. Giáo dục là một chức năng đặc trưng của xã hội loài người.
d. Giáo dục là yêu cầu cần thiết của xã hội.
e. Cả a, b, c. *
Câu 10: Giáo dục là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài người vì:
a. GD là phương thức để tái sản xuất sức lao động xã hội.
b. GD là phương thức để tái sản xuất những nhân cách phù hợp với
yêu cầu xã hội.
c. GD là chức năng đặc trung của xã hội loài người.*
d. GD là phương thức để tái sản xuất những hoạt động sống của xã
hội.
Câu 11: GD là một tất yếu và không bao giờ mất đi [vĩnh hằng] vì:
a. GD ra đời sau sự ra đời của xã hội.
b. GD ảnh hưởng to lớn đến sự phát triến của xã hội.
c. GD là nhân tố tái sản xuất xã hội.*
d. Cả a, b, c.
Câu 12: Mèo dạy con bắt chuột là một hiện tượng:
a. Bản năng.*
b. GD.
c. Bắt chước.
Câu 13: Trong thế giới động vật có hiện tượng GD không?
a. Có.
b. Không.*
Câu 14: GD là một hiện tượng:
a. Tự nhiên.
b. Xã hội.
c. Xã hội đặc biệt.*
d. Tự nhiên – xã hội.
Câu 15: Quá trình sư phạm có phải là hiện tưọng GD không?
a. Có.*
b. Không.


Câu 16: Mọi hiện tượng GD đều là đối tượng nghiên cứu của GDH:
a. Đúng.
b. Sai.*
Câu 17: Những hiện tượng GD nào dưới đây là đối tượng nghiện cứu
của GDH:
a. Các hiện tượng GD diễn ra ở các cung thiếu nhi.
b. Các hiện tượng GD diễn ra ở các câu lạc bộ văn hoá.
c. Các hiện tượng GD diễn ra ở các trường học.
d. Cả a, b, c.*
Câu 18: Qúa tình sư phạm là sự thống nhất của hai quá trình bộ phận,
đó là:
a. Quá trình dạy và quá trình học.
b. Quá trình DH và quá trình GD.*
c. Quá trình GD và quá trình tự GD.
d. Quá trình truyền thụ kinh nghiệm xã hội và quá trình tiếp thu kinh
nghiệm xã hội.
Câu 19: Chức năng trội của quá trình DH là:
a. Võ trang cho người học những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư
duy.
b. Trau dồi học vấn.*
c. Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nhận thức hoạt động.
Câu 20: Chức năng trội của quá trình GD [nghĩa hẹp] là:
a. Xây dựng hệ thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, tính cách,
thói quen.
b. Hình thành và phát triển những phẩm chất về thế giới quan khoa
học, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, .. của cá nhân người học.
c. Cả a, b.*
Câu 21: Người sinh viên vừa phải học tri thức, vừa phải rèn luyện đạo
đức vì:
a. Quá trình đào tạo ở đại học bao gồm cả quá trình dạy học và quá


trình GD.
b. Xã hội yêu cầu con người phải có cả tài và đức.
c. Quá trình đào tạo ở đại học là quá trình hình thành nhân cách toàn
diện cho người sinh viên.
d. Cả a, b, c*.
Câu 22: Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của quá trình
giảng dạy và quá trình học tập. Vì vậy, trong quá tình dạy học, người
học đóng vai trò:
a. Chủ thể của quá trình dạy học.
b. Khách thể của quá trình dạy học.
c. Vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình dạy học*.
Câu 23: Nhiệm vụ nghiên cứu của GDH là:
a. Nghiên cứu bản chất, cấu trúc và những tính quy luật của quá trình
GD.
b. Nghiên cứu những đặc điểm của quá trình GD diễn ra với mọi
khách thể GD khác nhau.
c. Nghiên cứu những đặc điểm của quá trình GD ở trong những thể
chế khác nhau.
d. Xác định nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình
thức tổ chức GD để quá trình đó vận hành tối ưu.
e. Cả a, b, c, d.*
Câu 24: Các quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế
giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ, đối với hiện thực của con
người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực là:
a. Quá trình gd thể chất.
b. Quá trình gd đạo đức.
c. Quá trình gd thẩm mỹ.
d. Quá trình gd [nghĩa hẹp]*.
e. Cả a, b, c, d.
Câu 25: Hãy ghép các khái niệm cho phù hợp:


1. GD theo nghĩa
hẹp b.
a. Là khái niệm bao gồm cả giáo dưỡng, dạy học,
và tất cả những yếu tố tạo nên những nét tính
cách và phẩm chất của con người.
2. GD theo nghĩa
rộng a.
b. Là các quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở
khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức,
thái độ thẩm mỹ đối với hiện thựccủa con người
kể cả việc phát triển nâng cao thể lực.
3. Dạy học d. c. Là khái niệm chỉ hoạt động đan xen vào nhau
của giáo viên và học sinh nhằm đạt được mục
đích đã đề ra.
d. Là khái niệm chỉ hoạt động chung của người
dạy và người học, hai hoạt động này song song
tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình
thống nhất
Câu 26: Trong quá trình dạy học, vai trò chủ đạo của người giáo viên
thể hiện ở chỗ:
a. Định hướng việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học
một cách hợp lý, khoa học.
b. Tổ chức việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một
cách hợp lý, khoa học.*
c. Cả a và b.
Câu 27: Trong quá trình dạy học, vai trò chủ thể của người học thể hiện
ở chỗ:
a. Người học tiếp thu một cách có ý thức hệ thống kiến thức, kỹ năng
và kỹ xảo hoạt động.
b. Năng lực tiếp thu một cách độc lập và sáng tạo hệ thống kiến thức,


kỹ năng và kỹ xảo hoạt động.
c. Người học hình thành năng lực và thái độ học tập đúng đắn.
d. Cả a, b, c.*
Câu 28: Vai trò chủ động, tích cực,năng động của người học trong quá
trình học tập có ý nghĩa quyết định đối với:
a. Sự lĩnh hội kiến thức.
b. Sự phát triển trí tuệ.
c. Sự hoàn thiện nhân cách.
d. Cả a, b, c.*
Câu 29: Phân ngành của GDH nghiên cứu về bản chất và những quy
luật của quá trình sư phạm toàn vẹn, về mục đích và nội dung của quá
trình đó, để từ đó tạo ra các ngành GDH khác đi sâu vào những vấn đề
cụ thể, là:
a. Lý luận dạy học.
b. GDH đại cương.*
c. Lý luận GD.
d. Lý luận quản lý nhà trường.
e. Lý luận về các phương pháp giảng dạy bộ môn.
Câu 30: GDH đại cương có nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Quá trình dạy học với tư cách là một quá trình sư phạm bộ phận,
một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lục trí tuệ và
GD phẩm chất nhân cách.
b. Các vấn đề lý luận chung, về phương pháp luận, về phương pháp
của GDH.*
c. Quá trình GD với tư cách là một quá trình sư phạm bộ phận, nhằm
hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, những nét tính cách
và những thói quen hành vi XHCN cho học sinh.
d. Xác định quy luật của việc giảng dạy và học tập từng môn học để
từ đó xây dựng nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ
chức dạy và học bộ môn cho phù hợp.


Câu 31: Việc học môn GDH đại cương có ý nghĩa như thế nào đối với
sinh viên đại học?
a. Giúp sinh viên hình thành được kỹ năng tổ chức học tập hợp lý.
b. Giúp sinh viên có được kỹ năng ửng xử đúng đắn trong các mối
quan hệ ở nhà trường.
c. Giúp sinh viên đại học xác định được vị trí, vai trò, trách nhiêm
của người học sinh trong nhà trường và có ý thức học tập để rèn
luyện để trở thành người sinh viên tốt.
d. Góp phần hình thành ở sinh viên những phẩm chất và năng lực trí
tuệ cơ bản ở giai đoạn đại cương.*
Câu 32: Sự phát triển cá nhân thường bao gồm những mặt nào?
a. Sự tăng trưởng về chiều cao, sự biến đổi các quá trình nhận thức,
sự tham gia tích cực, tự giác, vào các mặt khác nhau của đời sống
xã hội.
b. Sự phát triển về mặt thể chất, sự phát triển về mặt tâm lý và xã
hội.*
c. Sự hoàn thiện các giác quan, sự biến đổi cơ bản của các quá trình
tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống, thói quen, sự thay đổi trong
việc ứng xử với mọi nguời xung quanh.
Câu 33: Sự phát triển cá nhân là:
a. Quá trình biến đổi về lượng trong mỗi con người.
b. Quá trình biến đổi về chất trong mỗi con người.
c. Quá trình biến đổi về lượng dẫn đến quá trình thay đổi về chất.*
Câu 34: Để có được nhân cách của con người lao động sáng tạo, năng
động, có kỷ luật, có kỹ thuật, có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của con người
Việt Nam truyền thống, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
người sinh viên đại học phải học tập và tu dưỡng như thế nào?
a. Người sinh viên phải là chủ thể có ý thức trong mọi hoạt động của
nhà trường.
b. Người sinh viên cần tự giác tích cực tham gia vào các hoạt động


như học tập, lao động, giao lưu,…
c. Người sinh viên cần chủ động tu dưỡng rèn luyện bản thân.
d. Cả a, b, c.*
Câu 35: Sự hình thành và phát triển cá nhân chịu tác động của các yếu
tố nào?
a. Bẩn sinh, di truyền.
b. Môi trường.
c. Giáo dục.
d. Hoạt động cá nhân.
e. Cả 4 yếu tố trên.*
Câu 36: Hãy ghép các yếu tố sau cho phù hợp với vai trò của nó đối với
sự phát triển của cá nhân.

1. Khái niệm giáo dục

Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người. Giáo dục được hiểu dưới hai góc độ:

– Giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng đơn nhất;

– Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng đơn nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động;

Khi nói đến giáo dục theo nghĩa rộng, là ta thường liên tưởng ngay đến cụm từ “giáo dục theo nghĩa hẹp và đào tạo”.

Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người [hay một nhóm người] – gọi là giáo viên – nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí thông minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan, và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra.

Giáo dục theo nghĩa hẹp là nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt tiêu, giảm cái có sẵn. Ví dụ như trí thông minh căn bản là cái có sẵn, tính thiện là cái có sẵn,… Giáo dục làm tăng trưởng trí thông minh căn bản, và tính thiện lên

Đào tạo là một quá trình truyền thụ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người [hay một nhóm người] – gọi là giáo viên – vào người đó, nhằm tạo ra một số sự nhận thức, một số kỹ năng hoạt động phù hợp với yêu cầu của công việc, và phát triển chúng nó lên bằng cách rèn luyện. Công việc này có thể là hoạt động trí não, hay hoạt động chân tay.

Đào tạo là tạo ra cái mới hoàn toàn, chứ không phải là cái có sẵn. Ví dụ chữ viết, những kiến thức về toán học, các kỹ năng về tay nghề, các thế võ,… Ban đầu chúng hoàn toàn chưa có nơi một con người. Chỉ sau khi được huấn luyện, đào tạo thì chúng mới có ở nơi ta. Ví dụ: học sinh được dạy học môn toán, để có kỹ năng tính toán. Một nhà khoa học được đào tạo, để có các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Một vị Tu sĩ được dạy cách ngồi thiền, để có thể ngồi thiền tu tập sau này, Một người công nhân, được đào tạo tay nghề, để có thể làm việc sau này…

Tuy rằng, giáo dục không phải là đào tạo, nhưng muốn giáo dục thành công thì cần phải thông qua công tác đào tạo. Vì vậy chúng có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Cho nên khái niệm giáo dục trong bộ môn này được hiểu bao gồm cả giáo dục và đào tạo.

Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 13-04-2018

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

1. Một con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có nhân cách.

Nhân cách là nhân cách của từng người, trong tính cá thể sinh động của nó, trong sự tự biểu hiện và tự khẳng định chặt lượng phát triển người của nó với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển đặc trưng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên hệ mật thiết về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng đó là một con người cá thể, cá nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mỗi một cái Tôi nhân cách đều mang dấu ấn của nhân cách xã hội, chịu ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hoá cũng như trình độ và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Cái chung của nhân cách xã hội chi phối nhân cách cá nhân thông qua hệ giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Do đó, mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Đời sống hiện thực, hàng ngày của nó diễn ra trong môi trường xã hội, giữa những người khác, trong công việc, trong giao tiếp và ứng xử. Môi trường xã hội, hoạt động của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp nhất tham gia vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính hiện thực này của nhân cách xác định hình thức biểu hiện của nhân cách ở lẽ sống, lối sống và nếp sống. Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa chọn và định hướng giá trị cuộc sống của bản thân, chứa đựng trong đó cả mục đích, động cơ, nhu cầu và lý tưởng xã hội mà cá nhân hướng tới. Nó đo lường trình độ trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình cảm… ý thức và tự ý thức về mình – cải tạo thành bản ngã, hay ý thức về cái tôi cá thể và chủ thể, trước hết được định hình ở lẽ sống. Nó như một triết lý về con người và cuộc sống.

Hồ Chí Minh khái quát triết lý ấy trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con người trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi và đẹp về lẽ sống. Đây thực sự là một định hướng mang ý nghĩa sâu xa về văn hoá, về văn hoá nhân cách.

Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người phát triển thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.

2. Một năm khởi đầu từ mùa xuân.

Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm tháng còn trẻ, còn rất trẻ của cuộc đời. Khoảng thời gian đó là cơ hội thuận lợi nhất đối với nhà giáo dục để giáo dục lẽ sống đối với các công dân tương lai khi mà những va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm phải những cái xấu, cái ác, khi mà sự trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ tiếp thụ những giá trị đạo đức, dễ nảy nở nhưng khát vọng trở nên tôn đẹp thông qua những phương thức giáo dục biểu cảm, truyền cảm bởi văn hoá nghệ thuật và những tấm gương sống động về người thực, việc thực ở đời. Có lẽ sống đúng, có lý tưởng sống cao thượng, con người được đặt vào một xu hướng phát triển tích cực về nhân cách, tức là một khả năng nảy nở và hoàn thiện nhân tính, cái mà nhà giáo dục lỗi lạc xô viết trước đây, Xukhômlinxki gọi là “Khả năng dễ giáo dục”.

Cũng vì vậy, sự sai lệch chuẩn mực xã hội về lẽ sống, tức là những lệch lạc về quan niệm sống ở những người trẻ tuổi là một trở ngại căn bản để hình thành nhân cách của họ, đặt họ trước nguy cơ hư hỏng, có khi hỏng cả một cuộc đời. Trong trường hợp này, giáo dục vấp phải không ít những nhọc nhằn, nan giải, mà nếu nhà giáo dục không đủ tài năng, bản lĩnh, cao hơn nữa là không đủ sức mạnh của lòng nhân ái, của tấm lòng và trái tim nhân hậu thì thất bại trong giáo dục nhân cách đối với tuổi trẻ là khó tránh khỏi.

Nếu lẽ sống là tiếng nói lý trí của nhân cách con người thì lối sống là bước chuyển hoá cực kỳ quan trọng từ ý thức lựa chọn mẫu nhân cách của cá nhân, của nhóm và tập thể đến thực hành nhân cách trong đời sống hàng ngày, trong cuộc đời của họ. Trong một lối sống đã hình thành, đã định hình, những cái ổn định và có xu hướng trở nên bền vững thuộc về ý thức, tâm lý, thói quen và nhu cầu, lý trí và tình cảm, nhận thức hành động... như những thuộc tính và phẩm chất cá nhân được bộc lộ ra. Tính hiện thực của nhân cách được thể hiện trong lối sống. Nó như một tập hợp các giá trị, được khảo nghiệm và chứng thực trong hoạt động và hành vi của con người, trong các mối quan hệ con người với nhau, trong những ảnh hưởng qua lại giữa nhân cách này với nhân cách khác. Xây dựng lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là tạo ra môi trường văn hoá theo các chuẩn mực giá trị về đạo đức, khoa học, thẩm mỹ để hình thành văn hoá nhân cách của cá nhân cũng như tập thể. Lối sống vừa phản ánh nhân cách vừa đánh giá nhân cách của cá nhân mỗi người.

Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình, trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng [chân], cái tốt [thiện], cái đẹp [mỹ] đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người.

Tóm lại, văn hoá nhân cách biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của năng lực, của đạo đức và các giá trị, các chuẩn mực xã hội khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu - những nhu cầu bên

trong thuộc về đời sống văn hoá tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Người có văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người có sự phát triển bền vững của văn hoá đạo đức. Văn hoá đạo đức là nền tảng và giá trị cốt lõi nhất tạo nên đặc trưng điển hình và bao trùm cho một nhân cách đã chín muồi.

3. Trong khi nhấn mạnh cả hai mặt đức và tài của nhân cách, Hồ Chí Minh vẫn coi đức là gốc, là quyết định, là hàng đầu chính là vì vậy.

Theo quan niệm đó, người được coi là có nhân cách, trước hết là người có đạo đức, được đánh giá về đạo đức bởi những người khác, bởi dư luận xã hội. Sự đánh giá này tập trung vào lối sống của con người, trong quan hệ với công việc, với những người xung quanh, với cả bản thân mình từ thái độ đến hành vi, ứng xử. Tính ích kỷ, sự vụ lợi mà rộng hơn là cá nhân chủ nghĩa xa lạ với những gì thuộc về nhân cách con người cả trên bình diện đạo đức lẫn bình diện văn hoá. Sống đúng, sống tốt và sống đẹp giữa mọi người, không phải vì mình mà vì người khác, coi lối sống, cách sống đó như một nhu cầu, một sự thoả mãn đạo đức và văn hoá làm người - đó là thước đo giá trị nhân cách trong lối sống. Người mang lối sống ấy sẽ biểu hiện nhân cách của mình bằng cách làm việc hết mình, tận tuy thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhất quán giữa lời nói là việc làm - những cái mà ta thường nói, sống có tâm, có tình, có nghĩa. Với cái tâm đó, người ta mới biết đem cái tài ra để giúp ích cho đời, cho người. Vị tha là nét cao quý, đáng nể trọng của đạo làm người. Không nhân ái thì không thể vị tha được. Cũng như vậy, không có lòng vị tha thì không thể khiêm nhường, thành thật, bao dung, độ lượng với người và nghiêm khắc với mình được. Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có thể đem vào trong nếp sống hàng ngày của mình những biểu hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi công việc lớn, nhỏ vì người khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì người khác, được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi buồn, những đau khổ của người khác, cũng như làm được ngày một nhiều hơn những điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.

Là sự cụ thể hoá lối sống, củng cố sự bền vững những giá trị và chuẩn mực của văn hoá lối sống, nếp sống thường ngày của mỗi cá nhân như những chỉ báo xác thực để đo lường mức độ trưởng thành cũng như xu hướng phát triển nhân cách của cá nhân đó. Với những biểu hiện của nếp sống, con người tự bộc lộ mình là người như thế nào, là một nhân cách như thế nào. Qua nếp sống của một con người cụ thể, có thể đánh giá được người ấy đã tự giáo dục mình đến đâu, đã chuyển hoá học vấn thành văn hoá nhân cách của mình đến mức nào.

Từ những điều trình bày trên đây, cần nhấn mạnh rằng, nhân cách và văn hoá, nhân cách liên quan trên toàn bộ chất lượng phát triển con người ảnh hưởng và có sức chi phối sâu xa đến cuộc sống của con người với sự toàn vẹn của chỉnh thể cá nhân, cá thể của nó cũng như sự tác động qua lại giữa nó với những cá nhân, cá thể khác với cộng đồng xã hội mà nó là một phần tử hợp thành, không thể tách rời.

4. Con người mang một bản chất xã hội nhất định; bản chất ấy có cơ sở vật chất - sinh học của nó, bởi con người trước hết là một thực thể sinh vật. Nhân cách của nó không tách rời mà trái lại gắn liền với những cội rễ của di truyền sinh vật mà nó thừa hưởng từ những thế hệ trước để lại. Song, trong sự hình thành bản chất xã hội của từng cá thể, cá nhân thì tính ưu trội và vai trò quyết định lại thuộc về cơ sở xã hội - lịch sử và văn hoá, thuộc về thực thể xã hội. Con người mang bản chất xã hội và hình thành nhân cách của mình tư sự tổng hoà các quan hệ xã hội, từ hoàn cảnh xã hội mà trong đó nó tồn tại, nó thực hiện hoạt động sống của mình. Mác đã vạch ra những luận đề nổi tiếng về những đặc trưng xã hội và qui luật xã hội tác động tới sự hình thành bản chất người, nhân cách người. Đó là:

  • Nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì vấn đề là ở chỗ, phải tạo ra hoàn cảnh có tính người. Đó là nhân tính, là những sức mạnh [lực lượng] bản chất người của con người. Đó là con đường phát triển theo xu hướng nhân đạo hoá hoàn cảnh để hình thành nên nhân cách người.
  • Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực mà con người tác động cải biến trở lại đối với hoàn cảnh. Con vật là một tồn tại bản năng trong khi con người là một thực thể xã hội có hoạt động sống sáng tạo dựa trên tiền đề tồn tại.
  • Sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ, những quan hệ xã hội của nó. Con người trở thành thực thể và chủ thể xã hội bằng hoạt động của nó từ cá thể đến loài, từ bản chất loài, tộc loại tiến đến bản chất xã hội. Đó là cả lịch sử của nó - lịch sử sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai như là sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Con người sáng tạo ra xã hội con người theo qui luật của cái đẹp. Đó là cái đẹp của văn hoá, của nhân tính.

Điều đó chứng tỏ rằng, con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá sáng tạo ra con người ở phương diện làm cho con người hoàn thiện, con người mang nhân cách văn hoá mà trong hình thái lý tưởng của nó là sự hài hoà Chân - Thiện - Mỹ. Đây là một tổng hoà các giá trị Nhân bản [thuộc phạm trù khoa học], Nhân đạo [thuộc phạm trù đạo đức] và Nhân văn [thuộc phạm trù văn hoá]. Văn hoá thống nhất trong bản thân nó khoa học và đạo đức.. Nhân văn bao hàm trong nó những giá trị nhân bản và nhân đạo. Đạt đến trình độ phát triển nhân văn là đạt đến văn hoá, đạt đến nhưng thành quả sáng tạo của con người và loài người nhằm thoát mỹ hoá hiện thực.

5. Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó. Những giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng hoạt động, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội, trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.

Đạo đức cũng như năng lực là những thành phần chủ yếu của cấu trúc nhân cách, nhưng chỉ riêng đạo đức hay năng lực không đủ để xác định một nhân cách. Nói đạo đức là yếu tố quan trọng hàng đầu là gốc, là cái quyết định của nhân cách không có nghĩa là đồng nhất đạo đức với nhân cách, coi nhân cách chỉ là đạo đức. Cần phải khắc phục một quan niệm đơn giản khi lược quy nhân cách vào mặt duy nhất là đạo đức, cũng như đồng nhất học vấn với văn hoá như vẫn thường thấy khi đánh giá sự phát triển của cá nhân về mặt học vấn, học thức. Mặt khác, nếu tách rời đạo đức với năng lực, tuyệt đối hoá đạo đức mà xem nhẹ năng lực, hoặc cho rằng dường như những hạn chế, yếu kém, thiết hụt về năng lực có thể được bù trừ, châm chước bằng phẩm chất đạo đức, thì đó sẽ là một quan niệm không đúng về nhân cách. Ngược lại, đề cao năng lực đến mức coi năng lực là tất cả, chỉ cần rèn luyện năng lực để làm việc, còn đạo đức không có vai trò quyết định... thì quan niệm đó càng sai lệch nhiều hơn. Đó là những biểu hiện khác nhau của cách hiểu phiến diện, siêu hình về nhân cách.

Trên thực tế, đạo đức chi phối và quyết định năng lực, đồng thời đạo đức phải biểu hiện qua năng lực, ở tác dụng và hiệu quả của năng lực trong hoạt động.

Đạo đức và năng lực phải được hình dung cụ thể trong công việc và trong các quan hệ mà con người phải giải quyết và ứng xử hàng ngày, tức là trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Thông qua những công việc và quan hệ đó, con người tỏ rõ mình đã làm được những gì, đã sống như thế nào giữa những người khác, nhờ đó mà nhân cách cá nhân của nó được định bơm và cũng có thể tự đánh giá. Phải thông qua những đánh giá xã hội thì nhân cách cá nhân mới có tính hiện thực. Tính hiện thực đó biểu hiện ở ảnh hưởng và uy tín mà người này có được ở người khác, trong những người khác và ngược lại.

Mỗi cá nhân là một chủ thể mang nhân cách của mình, đồng thời là đối tượng; khách thể được đánh giá về nhân cách bởi một chả thể khác, bởi cộng đồng xã hội.

6. Nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối liên hệ xã hội, trong các quan hệ liên nhân cách. Điều đó được thể hiện trước tiên trong giao tiếp văn hoá.

Giao tiếp văn hoá để học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân theo những chuẩn mực và giá trị của văn hoá giao tiếp, văn hoá đối thoại, tranh luận, văn hoá ứng xử. Làm cho từng cá nhân nảy nở và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục văn hoá nhân cách cho họ.

Cảm nhận một cách tinh tế yêu cầu lý, Nêru, nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc Ấn Độ nhấn mạnh rằng, “Văn hoá chính là khả năng hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình”. Còn viện sĩ Lik- hachốp coi “Văn hoá là biết lắng nghe” và Xukhômlinxki, nhà giáo dục xô viết nổi tiếng, người đã dồn hết tâm huyết và tinh lực cả đời mình cho công việc giáo dục thế hệ trẻ, với tác phẩm vĩ đại “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” lại đặc biệt chú ý tới phẩm chất làm người thông qua giáo dục văn hoá nhân cách. Ông quan niệm “Văn hoá chính là khả năng biết nhìn thấy người bên cạnh”.

Biết lắng nghe, ấy là sự khiêm nhường, là sự tôn trọng con người. Biết nhìn thấy người khác, ấy là sự ân cần, chu đáo, sự thông cảm, chia xẻ với những số phận con người - một biểu hiện cao quí của nhân tính. Mác đã từng nói: chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng tính. Mác đã từng nói: chỉ nói có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng loại.

Tập luyện, gieo trồng, vun trồng nhân tính là gốc rễ bền bỉ nhất của văn hoá. Nhân tính đó, chính là chiều sâu của sự hiểu biết, sự đồng cảm của con người với con người. Đó cũng là nhu cầu văn hoá đạo đức của mỗi cá nhân trong lao động, hoạt động, trong gian tiếp, ứng xử với những người khác.

Những thuộc tính giá trị cộng đồng và cộng cảm ấy của văn hoá làm người, văn hoá nhân cách tỏ rõ rằng, nhân cách con người không bao giờ độc lập, biệt lập trong cái trạng thái cô đơn, ốc đảo khép kín ở một cá thế. Nó là sự giao hoà giữa nhân cách của nó với những nhân cách ngoài nó, của những con người, những cuộc đời và của cả cộng đồng xã hội nói chung. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách chính là vì thế.

Sự phối hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục cũng như sự thống nhất giữa mục tiêu và phương pháp giáo dục trở nên hết sức cần thiết. Nó tạo ra những tác động tích cực cùng chiều tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Muốn vậy, phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo đục truyền, thống lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng; kết hợp giáo dục khoa học để rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo và phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức và trau dồi sự tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật, nâng cao khiếu thẩm mỹ để làm phong phú thế giới tinh thần của họ. Đó là những lực đẩy cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nó còn cần thiết để thức tỉnh những người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào đó, họ có thể hoàn lương và hướng thiện.

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

Hoàng Chí Bảo

Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Tạp chí Triết học

T.L.H

Video liên quan

Chủ Đề