Trong tự nhiên, các loài động vật có lông mao bao phủ toàn bộ cơ thể là động vật thuộc lớp

Con vật này có vẻ như không có thực và đặc điểm sinh học của chúng dường như trái ngược với các kiến thức khoa học. Tên khoa học của chúng là Ornithorhynchus anatinus, có hình dạng tổng hợp của nhiều con vật thuộc các loài khác nhau: mõm như mỏ vịt, đuôi như con hải ly, đẻ trứng và di chuyển như lớp bò sát nhưng lại cho con bú sữa như lớp thú.

Các nhà khoa học đến nay vẫn chưa biết nhiều về nguồn gốc tổ tiên của con vật kỳ lạ này. Nhưng nhiều hóa thạch khác nhau cho thấy rằng tổ tiên của chúng ngày xưa có hình dạng khá giống với chúng bây giờ, có thể vào thời nguyên thủy chúng đã cố gắng rời khỏi cuộc sống ở nước nhưng vì không thể thích nghi được với tất cả khó khăn ở trên cạn, nên chúng đã quay trở lại môi trường nước để kiếm ăn.

Thú mỏ vịt có tuổi thọ khá cao. Nếu sống trong điều kiện nuôi nhốt thì vòng đời của chúng có thể lên đến 20 năm, còn khi sống trong tự nhiên thì ít hơn – tối đa chỉ 12 năm.

Đuôi của thú mỏ vịt ngắn để dự trữ mỡ

Đuôi của thú mỏ vịt ngắn, có chức năng dự trữ mỡ để dùng vào mùa đông nhưng chúng lại không hề ngủ đông, chúng còn dùng đuôi để lái dưới nước. Chân ngắn nhưng mạnh, chân có màng bơi thích hợp cho việc bơi lặn; lúc ở trên cạn, màng chân gấp lại để có thể dùng móng chân cho việc đào bới.

Cái mõm mềm rất nhạy cảm, có rất nhiều tế bào thần kinh trên đó. Thú mỏ vịt cũng biết kêu. Chiều dài thân mình con đựng khoảng 61cm, con cái khoảng 46cm. Chúng có thân mình dài và dẹt, mình phủ đầy lông nâu, ngắn, mượt mà. Bộ lông của chúng không thấm nước, giúp chúng thích nghi với điều kiện sống dưới nước 12 tiếng mỗi ngày ở nhiệt độ gần 0 độ C.

Và những sự thật bất ngờ về loài thú mỏ vịt

Chúng chủ yếu hoạt động về đêm, người ta thường thấy chúng nhiều nhất là vào lúc rạng đông và chạng vạng tối. Chúng bắt ăn những động vật nhỏ ở nước mà chúng tìm thấy trong lớp bùn dưới đáy sông hồ. Chúng ăn nhiều loại thức ăn gồm động vật không xương sống, cá nhỏ, trứng cá, ếch, nhái và nòng nọc. Chỉ trong một ngày, chúng có thể ăn lượng thức ăn bằng nửa trọng lượng cơ thể chúng.

Thú mỏ vịt không có răng, thay vì nhai nghiền nát thức ăn bằng những mảng sừng trong mỏ, có thể nghiền thức ăn cùng với cát và sạn. Khi bắt được ít mồi, chúng chuyển thức ăn xuống những cái túi bên má, dưới mõm. Khi ngoi lên mặt nước, thú mỏ vịt đưa thức ăn lên vùng miệng, ở đó thức ăn được nghiền nát nhờ "tấm nghiền" trong mỏ.

Con đực có cựa độc trên bàn chân sau

Con đực có cựa độc trên bàn chân sau, dùng để chống lại kẻ thù và chống lại những con thú mỏ vịt khác cạnh tranh với nó. Cựa dài khoảng 1,5cm nằm trên mắt cá có nối với tuyến chất độc nằm ở đùi. Chất độc đó không gây chết người nhưng sẽ gây đau đớn và đủ mạnh để giết chết một con chó. Thú mỏ vịt thông thường rất nhút nhát, nhưng trong mùa sinh sản con đực rất hung hăng và thường dùng đến những cái cựa nhọn có chất độc. Con non cũng có "cựa sữa" nhưng sẽ rụng mất trong năm đầu tiên.

Con thú lạ này thích sống gần nước, thường đào hang ở bờ sông hay bờ hồ. Chúng làm hai loại hang: hang để ở và hang để đẻ trứng, ấp con. Hang bao giờ cũng có một lối thoát ở trên cạn và một lối thoát dưới nước.

Tuy nhiên, hang của chúng gặp một vấn đề về oxygen vì chúng ở trong hang một thời gian dài nên có thể dùng cạn lượng oxygen có trong đó. Vào mùa sinh sản, con cái có thói quen che lấp cửa ra vào mỗi khi chúng ra khỏi hang hoặc mỗi khi chúng vào hang.

Con non ở trong hang suốt một thời gian khoảng 3 tháng nên tiêu tốn một lượng lớn oxygen. Cơ thể thú mỏ vịt phải tự điều chỉnh hóa chất trong cơ thể để có thể sử dụng tốt lượng oxygen chỉ hạn chế đó.

Tỉ lệ sinh sản của thú mỏ vịt thuộc dạng thấp trong Thế giới động vật. Cứ hai cá thể cái thì chỉ có một con đẻ trứng. Vào mùa sinh sản, giống cái sẽ ở một mình trong những cái hang dưới lòng đất để đẻ trứng. 

Con mẹ không có đầu vú, sữa được tạo ra từ những tuyến lớn ở dưới da

Con cái đẻ từ 2-3 trứng vào khoảng giữa tháng 8 và tháng 10. Trứng được đẻ bên trong cái hang sâu đến 20m. Con cái ấp trứng từ 12-14 ngày bằng bụng và đuôi trên cái ổ được lót bằng cỏ và lá. Sau hai tuần trứng nở, khi trứng nở con non chỉ dài khoảng 1,25cm. Thú mỏ vịt mẹ sẽ nuôi con của mình từ 3 cho đến 4 tháng đầu đời tới khi con của chúng biết bơi.

Con mẹ không có đầu vú, sữa được tạo ra từ những tuyến lớn ở dưới da. Sữa tiết ra từ hai chỗ có cấu trúc giống như núm vú. Con non đè vào những nơi đó cho sữa chảy xuống lông bụng của mẹ chúng để liếm và mút sữa chảy ra. Sữa này có nhiều chất sắt, lượng sắt có nhiều gấp 60 lần lượng sắt có trong sữa bò.

Con non uống sữa mẹ từ 4-5 tháng và vẫn ở trong hang, chúng bắt đầu rời tổ và biết bơi khi được khoảng 17 tuần tuổi.

Thú mỏ vịt có thể lặn dưới nước lâu khoảng 1 phút

Lúc ở dưới nước, chúng nhắm nghiền mắt lại, không những thế mũi và tai cũng được bịt kín, không có lỗ nào cho nước chui vào. Trong tình trạng "bí các giác quan" như vậy thú mỏ vịt vẫn có thể kiếm mồi và bơi lội tốt dưới nước. Trong khi tìm thức ăn, chúng dùng 2 loại giác quan trên mõm: một loại là nhờ chạm vào các vật, loại còn lại là nhờ vào kích thích điện. Chúng có thể phát hiện ra hướng dòng điện nhỏ phát sinh từ các hoạt động cơ thể của những con mồi nhỏ, ngoài ra còn phát hiện được dòng điện yếu phát ra khi dòng nước chảy qua những vật bất động.

Khi ở trên cạn thú mỏ vịt lại dùng mắt để nhìn và đôi mắt ấy rất tinh tường, có thể nhìn xa. Nhưng chúng có một điểm yếu, vì vị trí của mắt bị khuất nên không thể nhìn thấy những gì ở bên dưới mõm.

Ký sinh trùng vẫn đang là mối đe dọa lớn cho sức khỏe con người bởi cơ chế tác động lên vật chủ theo nhiều cách khác nhau như: rút kiệt, gây chấn thương, gây độc, gây ức chế miễn dịch, các tác động cơ học, kích thích phản xạ gây co thắt ruột… Bệnh do nhiễm ký sinh trùng gây cho con người, nếu không được chẩn đoán, chữa trị kịp thời sẽ dẫn đến những hệ lụy về sức khỏe, thậm chí đối diện với nguy cơ tử vong.

Ký sinh trùng là một sinh vật sống ký sinh trên một sinh vật sống khác (con người, động vật, thực vật), được gọi là ký chủ. Chúng sống hoàn toàn phụ thuộc vào ký chủ để tồn tại, phát triển và sinh sôi. Do đó, ký sinh trùng hiếm khi giết chết ký chủ, nhưng nó có thể là nguồn lây lan bệnh tật, và một vài trong số này có thể gây tử vong cho ký chủ. (1)

Khác với động vật ăn thịt, ký sinh trùng thường nhỏ hơn rất nhiều so với ký chủ nhưng tốc độ sinh sản nhanh hơn. Chúng cũng có thể tồn tại dưới dạng ký sinh nội sinh hay ngoại sinh, ký sinh trên hay dưới da, ký sinh hoàn toàn hay không hoàn toàn…

Trong tự nhiên, các loài động vật có lông mao bao phủ toàn bộ cơ thể là động vật thuộc lớp

Ký sinh trùng là nguồn lây lan bệnh tật, và một vài trong số này có thể gây tử vong cho ký chủ

Khoảng 70% loài ký sinh không thể nhìn thấy bằng mắt người (như ký sinh trùng sốt rét), nhưng một số ký sinh vật dài hơn cả cơ thể người, có loại sán dây thường dài từ 2 – 4 mét, có khi tới 8 – 10 mét.

Ký sinh trùng không phải là bệnh lý, nhưng chúng có thể truyền bệnh. Các loại ký sinh trùng khác nhau có khả năng gây bệnh khác nhau. Theo đó, ký sinh trùng được chia thành 3 dạng chính: Động vật nguyên sinh (sinh vật đơn bào), giun sán và sinh vật ngoại sinh (ngoại ký sinh). (2)

Có nhiều loại ký sinh gây ảnh hưởng đến con người và là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh. Ký sinh trùng ở người có 3 nhóm chính: nhóm sinh vật đơn bào, nhóm giun sán và nhóm ngoại ký sinh.

1. Amip (trùng chân giả)

Amip xuất hiện nhiều ở các vùng nhiệt đới, khu vực có mật độ dân số cao và điều kiện vệ sinh kém. Có rất nhiều loại amip ký sinh ở người và được chia làm 3 loại cơ bản: loại ký sinh nhưng không gây bệnh; loại ký sinh gây bệnh và loại tự do nhưng gây bệnh.

Entamoeba histolytica là loại amip duy nhất ký sinh và gây bệnh ở người. Loại này khi gây bệnh sẽ ăn hồng cầu, gây nên những vết loét (thường ở manh tràng và kết tràng sigma), vách ruột sẽ bị tróc ra từng mảng khiến cho phân có lẫn máu và chất nhầy.

2. Babesiosis

Đây là bệnh nhiễm trùng do ký sinh trùng đơn bào babesia gây ra và lây truyền sang người thông qua các vết cắn của bọ ve. Bệnh ảnh hưởng đến các tế bào hồng cầu, với các biểu hiện như: sốt, tan máu và đái ra huyết cầu tố.

3. Balantidiasis

Bệnh Balantidiasis là một bệnh nhiễm trùng gây ra bởi trùng lông Balantidium coli, một loại ký sinh trùng đơn bào thường ký sinh trên heo, người chỉ là tình cờ nhiễm bệnh. Đây cũng là loại trùng lông duy nhất gặp trong phân người, nó có thể lây lan khi tiếp xúc trực tiếp với heo hoặc uống phải nguồn nước bị ô nhiễm, thường là ở các vùng nhiệt đới.

4. Blastocystis (chứng tăng bạch cầu)

Ký sinh trùng đơn bào Blastocystis xâm nhập vào người qua đường phân – miệng và gây ra một số triệu chứng như đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, ăn không ngon… hoặc không có triệu chứng. Ai cũng có thể mắc bệnh khi dùng thức ăn hoặc đồ uống nhiễm phân người hoặc động vật chứa ký sinh trùng này.

5. Cầu trùng

Bệnh cầu trùng gây ra bởi ký sinh trùng Coccidia, thường truyền qua đường phân-miệng và được tìm thấy trên khắp thế giới. Có nhiều chủng cầu trùng khác nhau, gây bệnh cho người, gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, chủng cầu trùng của chó, mèo và người thì thường không lây nhiễm cho nhau.

6. Giardia (sốt hải ly)

Là loại ký sinh trùng ở đoạn ruột tá tràng, gây tiêu chảy mạn tính. Ngoài vật chủ chính là người, trùng roi này còn ký sinh trên động vật hoang dã và gia súc.

Giardia không chịu được sự giảm nước ở ruột già và biến thành thể bào nang ở đoạn ruột này. Bào nang tại vị trí này là thể phát tán bệnh, có sức đề kháng cao với môi trường bên ngoài.

Mắc bệnh là do nuốt phải bào nang có trong đồ ăn, thức uống. Phần lớn bệnh nhân mang Giardia trong người mà không có triệu chứng. Tuy nhiên, những triệu chứng bệnh phổ biến là ăn không tiêu, đau bụng, tiêu chảy, phân có thể có mủ.

7. Viêm não do amip

Đây là loại amip không ký sinh nhưng gây bệnh. Sống bình thường tự do trong nước, gây bệnh cho ký chủ khi xâm nhập vào cơ thể, bệnh viêm màng não amip tiên phát, khác hẳn với áp xe não amip thứ phát.

Các loại amip này sinh sản trong nước bùn, đất ướt, nhiệt độ 25 – 50 độ C và hóa nang khi gặp môi trường khô và lạnh. Amip “chui” vào cơ thể do tắm sông, hồ bơi. Amip đi qua niêm mạc mũi, xương sàn,… màng não rồi vào não.

Sau thời gian ủ bệnh 12-15 ngày, gây viêm mũi họng, nhức đầu, tiếp theo là hội chứng màng não và sốt, đi đến hôn mê. Biến chứng tử vong sau vài ngày mắc bệnh.

8. Sốt rét

Một người bị muỗi nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium đốt, từ đó ký sinh trùng vào máu rồi đến gan, làm vỡ tế bào gan giải phóng ký sinh trùng non vào máu. Tại máu, ký sinh trùng non thâm nhập hồng cầu non và phát triển qua các giai đoạn như trong tế bào gan, phá vỡ hồng cầu giải phóng ký sinh trùng non gây nên cơn sốt rét.

Đây là loại bệnh khiến người mắc thiếu máu mà hồng cầu có màu sắc bình thường với kích thước hồng cầu không đều, biến dạng. Mức độ thiếu máu thay đổi tùy theo loại ký sinh trùng nào của Plasmodium gây ra. Bệnh trở nặng với Plasmodium falciparum, vừa với Plasmodium ovalePlasmodium vivax; nhẹ, không đáng kể với Plasmodium malariae.

Trong tự nhiên, các loài động vật có lông mao bao phủ toàn bộ cơ thể là động vật thuộc lớp

Giun tròn, giun đũa brugia malayi là một trong những nguyên nhân gây bệnh giun chỉ bạch huyết

9. Giun Anisakis

Bệnh do nhiễm ký sinh trùng Anisakis (thường gọi là bệnh Anisakis) xảy ra khi ăn phải cá sống ở vùng nước mặn hoặc nấu chưa chín chứa ấu trùng giun Anisakis simplex. Những biểu hiện như đau bụng, buồn nôn, nôn mửa… sẽ xuất hiện sau khi ăn phải ấu trùng vài giờ.

10. Giun đũa

Sống trong ruột non từ 12-24 tháng. Nếu số lượng nhiều thì có thể gây tắc ruột, tắc ống dẫn mật, ống tụy, viêm ruột thừa do giun trưởng thành chui vào. Ở trẻ em có nhiều giun đũa sẽ gây suy dinh dưỡng.

11. Sán lá gan

Sán lá gan bao gồm 2 loại phổ biến: sán lá lớn ở gan Fasciola sp (Fasciola hepatica, Fasciola gigantica) và sán lá nhỏ ở gan thuộc họ Opisthorchiidae. Sán lá gan ký sinh trong gan, trưởng thành trong ống mật nhưng giữa sán lá lớn ở gan và sán lá nhỏ ở gan hoàn toàn khác nhau về: loại ốc ký chủ trung gian, hình dạng, cơ chế gây bệnh sán lá gan, biểu hiện lâm sàng, do đó, khác nhau về chẩn đoán và điều trị.

Người bệnh bị sán lá lớn ở gan thường hay đau vùng thượng vị hay vùng hạ sườn phải. Còn với bệnh do sán lá nhỏ ở gan, nếu nhiễm nhiều sán thì gan cũng sưng to dần và đau bụng.

12. Giun móc

Thường tìm thấy trong phân, cả trong phân người bệnh sau khi đã uống thuốc sổ giun. Giun móc vừa hút máu để sống, vừa tiết ra chất chống đông máu, gây chảy máu từ vết thương do miệng giun cắm vào trong ruột. Giun móc gây ra tình trạng thiếu máu thiếu sắt.

13. Giun kim

Trứng giun kim (Enterobius vermicularis) phát tán ra bên ngoài qua động tác gãi hậu môn; giũ quần, chăn, chiếu. Bệnh lây lan do yếu tố vệ sinh cá nhân nên xuất hiện khắp nơi, kể cả xứ nóng lẫn xứ lạnh. Tỷ lệ nhiễm cao ở nơi có điều kiện vệ sinh kém, mật độ dân cư đông, sống chen chúc. Trẻ em có tỷ lệ nhiễm cao hơn người lớn; cư dân thành phố, đô thị nhiễm cao hơn cư dân nông thôn.

Bệnh cũng mang tính chất gia đình: trong nhà nếu có trẻ bị nhiễm giun kim thì người trong gia đình cũng thường bị lây nhiễm do sống chung và chăm sóc bé.

Biểu hiện lâm sàng duy nhất dễ nhận biết là ngứa hậu môn do giun cái đẻ trứng ở rìa hậu môn khi trẻ ngủ. So với các thời điểm khác trong ngày thì cảm giác ngứa hậu môn thường tăng vào ban đêm. Do bị ngứa, trẻ hay gãi hậu môn, có thể gây chàm hóa vùng niêm mạc hậu môn hoặc có thể gây trầy xước, dẫn đến nhiễm trùng.

Rối loạn tiêu hóa do giun kim biểu hiện bởi chứng hay đau bụng, biếng ăn, buồn nôn, tiêu chảy. Sự rối loạn thần kinh cũng thường gặp ở trẻ hay bị nhiễm giun kim hoặc nhiễm số lượng nhiều.

14. Giun lươn

Giun lươn Strongyloides stercoralis sống ở ruột non. Thông thường nhiễm giun lươn không có biểu hiện lâm sàng. Nhiễm nhiều giun lươn sẽ gây đau vùng thượng vị dễ nhầm với viêm loét dạ dày tá tràng, tiêu chảy, buồn nôn, sụt cân. Giun lươn cũng có thể gây bệnh nặng, bộc phát toàn thân trên cơ địa suy giảm miễn dịch.

15. Giun tóc

Giun tóc Trichuris trichiura sống trong ruột già. Thông thường nhiễm giun tóc không có biểu hiện lâm sàng. Khi nhiễm nặng sẽ đi ra phân nhầy có máu. Ở trẻ, nhiễm giun tóc còn gây tiêu chảy với triệu chứng sa trực tràng, thiếu máu, giảm protein máu và chậm lớn.

Ngoài các loài chí Pediculus humanus capitis, Pediculus humanus corporis và rận Phthirus pubis vốn ký sinh đặc trưng ở người thì con người còn bị ký sinh bởi những côn trùng vốn ký sinh trên những động vật khác như chí Pediculus mjobergi của khỉ, bọ chét chó Ctenocephalides canis, Pulex simulans.

16. Rệp

Khi bị rệp chích hút máu, tùy theo cơ thể, phản ứng dị ứng có thể xảy ra. Ngứa sẽ xuất hiện 2-3 phút sau khi bị rệp hút máu. Phản ứng có thể nặng hay nhẹ hoặc có thể gây rối loạn thần kinh, rối loạn tiêu hóa ở một số người. Phản ứng nhạy cảm hơn ở trẻ, đôi khi xuất hiện tình trạng mệt mỏi.

17. Chấy (chí)

Bệnh chí gây nên bởi giống Pediculus (thuộc họ Pediculidae) thường ký sinh ở người, biến thái không hoàn toàn. Pediculus humanus capitis gây cảm giác ngứa ngáy, nhất là vùng đầu, gáy, có thể gây nhiễm trùng phụ do gãi hoặc trở thành chốc, tạo nên tổn thương có mày và rỉ nước, có hạch cổ. Thậm chí, có thể gây viêm kết mạc mụn nước.

Loại ký sinh trùng này thường gặp ở xứ lạnh, gây ngứa nhiều vào chiều tối ở vai, nách, lưng, thắt lưng. Không xảy ra ở mặt, tay, chân. Ngứa có thể dẫn đến tình trạng chốc hóa.

18. Rận

Ký sinh ở bộ phận sinh dục, rất hiếm gặp ở nách, râu mép, râu hàm, lông mày. So với chí thì rệp khó phân tán hơn, lây lan chủ yếu qua giao hợp, hiếm khi lây qua giường chiếu, khăn tắm hay vật dụng vệ sinh khác.

Biểu hiện đặc trưng của bệnh là ngứa về đêm ở vùng mu, là nguồn cơn của nhiễm trùng thứ phát do gãi dẫn đến chốc hóa viêm da mủ có hạch.

19. Ve

Về sinh thái, ve có thể chia thành hai nhóm: nhóm ngoài nhà và nhóm trong nhà. Nhóm ngoài nhà thích nơi rộng rãi, rừng, cây cỏ, có thể nhịn đói lâu. Nhóm trong nhà đòi hỏi độ ẩm cao, chịu đói kém, sống trong hang gặm nhấm, ổ chim, trong nhà, hang dơi…

Khi bị cắn, cảm thấy ngứa tại nơi chích do phản ứng của ký chủ. Người bị ve hút nhiều máu có thể gây tình trạng thiếu máu, gây phù, tăng nhiệt độ và, có thể ảnh hưởng tại chỗ như đi khập khiễng. Vết chích là cửa ngõ cho các loại vi trùng, ấu trùng ruồi xâm nhập, gây bại liệt trong vài giờ, nguy cơ tử vong có thể đột ngột do liệt cơ hô hấp.

20. Mạt

Một số loại mạt có thể gây viêm da tiếp xúc, gây dị ứng hô hấp cho người. Nguyên nhân là do tiếp xúc nhiều lần, nhất là với xác và chất tiết của chúng.

Các loại mạt ngoại ký sinh thường xuyên, sâu trong da, ở lớp sừng bao gồm:

  • Cái ghẻ: Ký sinh trên người, gia súc và hoang dã. Bệnh cái ghẻ là bệnh phổ biến trên thế giới, gặp nhiều ở tuổi thanh niên có lối sống tập thể, lây lan trực tiếp giữa người với người, qua hoạt động tình dục hay gián tiếp qua quần áo, giường chiếu.
  • Demodex folliculorum: ký sinh trong nang lông của người gây nên bệnh “ghẻ mụn trứng cá”.

Bệnh gây bởi ký sinh trùng được chia thành 4 nhóm triệu chứng lớn, bao gồm:

  • Hiện tượng viêm: người bệnh thường bị viêm nhiễm nơi bị ký sinh xâm nhập hoặc định vị và gây ra các phản ứng tại chỗ.
  • Hiện tượng nhiễm độc: do ký sinh vật tiết ra độc tố, thường kéo dài và mãn tính.
  • Hiện tượng hao tổn: người bệnh bị suy dinh dưỡng và thiếu máu do bị ký sinh trùng giành chất dinh dưỡng, mất máu do xuất huyết. Đặc biệt, khi nhiễm giun nặng, người bệnh sẽ bị thiếu máu trầm trọng.
  • Hiện tượng dị ứng: xảy ra rất thường xuyên trong bệnh nhiễm ký sinh với những mức độ biểu hiện khác nhau như: hen suyễn, mề đay, tăng bạch cầu ái toan…

Do đó, khi thấy những dấu hiệu nhiễm ký sinh trùng, bạn nên đi khám các cơ sở y tế có chuyên khoa Ký sinh trùng hoặc khoa xét nghiệm ký sinh trùng để được khám và điều trị kịp thời. Những dấu hiệu phổ biến bao gồm:

  • Các biểu hiện dị ứng về da như phát ban đỏ, chàm, sưng tấy, loét… hay các dị ứng trên da khác.
  • Các vấn đề về tiêu hóa như tiêu chảy mãn tính, táo bón mãn tính, đầy hơi, nôn ói, cảm giác bỏng rát trong bao tử…
  • Cảm giác ngứa vùng hậu môn: có thể là do giun kim đang đẻ trứng, xung quanh hậu môn gây ngứa ngáy, khó chịu…
  • Thiếu máu, mệt mỏi, cảm giác thèm ăn kéo dài…

Những yếu tố cơ bản nhất mà mỗi cá nhân cần phải trang bị để phòng ngừa ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể bao gồm:

  • Làm sạch môi trường sống xung quanh: 
    • Chôn vùi hay đốt các đống rác
    • Che đậy thức ăn để tránh ruồi nhặng bu đậu
    • Lau nhà thay vì quét nhà
    • Không dùng phân tươi bón rau cải, ruộng lúa. cần ủ phân ít nhất 3 tháng.
  • Nâng cao ý thức vệ sinh cá nhân: 
    • Rửa tay bằng xà phòng và nước sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh
    • Không nên để trẻ (mới biết bò, đi) chơi đùa dưới đất
    • Rửa rau ăn sống từng lá, từng cọng nhiều lần dưới vòi nước đang chảy để trôi bớt trứng giun sán… 
    • Hạn chế ăn hàng rong (bánh, trái cây ăn cả vỏ); Không nên ăn thịt tái, nấu chưa nấu chín hay gỏi cá sống…

Việc chẩn đoán bệnh liên quan đến ký sinh trùng cần dựa vào cận lâm sàng thông qua các phương pháp xét nghiệm: 

Trong tự nhiên, các loài động vật có lông mao bao phủ toàn bộ cơ thể là động vật thuộc lớp

Xét nghiệm KST giúp xác định loại sinh vật đang ký sinh trong ký chủ

  • Trực tiếp nhằm tìm thấy trong cơ thể người bệnh. Đây là phương pháp có giá trị tuyệt đối khi cho kết quả dương tính. Tuy nhiên, có những trường hợp không thể áp dụng do nguyên nhân giai đoạn đầu của bệnh, ký sinh trùng chưa trưởng thành hoặc quá ít hay vị trí của chúng ở quá sâu trong cơ thể…
  • Gián tiếp bao gồm 2 loại xét nghiệm: 
    • Xét nghiệm định hướng, xác định những biến đổi không đặc hiệu trong cơ thể ký chủ, giúp chọn kỹ thuật sinh học thích ứng. 
    • Xét nghiệm miễn dịch đặc hiệu, cần thiết khi xét nghiệm trực tiếp không thể thực hiện được.

Trung tâm Xét nghiệm – BVĐK Tâm Anh, TP.HCM vẫn đang triển khai dịch vụ Xét nghiệm Ký sinh trùng, bao gồm: Xét nghiệm phân (soi tìm KST) và Xét nghiệm máu (huyết thanh chẩn đoán KST).

Sở dĩ có được các kết quả xét nghiệm chính xác, kịp thời cho người bệnh là nhờ Trung tâm Xét nghiệm, BVĐK Tâm Anh được đầu tư xây dựng khang trang, bố trí hệ thống trang thiết bị hiện đại và đồng bộ, đạt tiêu chuẩn An toàn sinh học cấp 2. Đồng thời, các dịch vụ xét nghiệm được thực hiện bằng hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại nhất thế giới như: Hệ thống máy Sysmex XN 1000, Sysmex cs-1600 (Bộ phận Huyết học – Truyền máu); Hệ thống máy Roche Cobas 6000; Hệ thống máy nước tiểu Roche Cobas u701, u601, u411; Máy khí máu Roche Cobas b211; Hệ thống quản lý phòng xét nghiệm Cobas Infinity (Bộ phận Hóa sinh – Miễn dịch); Máy cấy máu, Máy định danh – Kháng sinh đồ tự động Vitek II Compact, Máy nhuộm Gram (Bộ phận Vi sinh – Ký sinh trùng), Máy tách chiết, Máy PCR… (Bộ phận Sinh học phân tử).

Để đăng ký khám bệnh và thực hiện các xét nghiệm Ký sinh trùng, khách hàng có thể thực hiện bằng các cách sau: đến khám trực tiếp tại bệnh viện, đăng ký qua số hotline 1800 6858 (Hà Nội) – 028 7102 6789 (TP.HCM).

Ký sinh trùng khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ để lại những hệ lụy sức khỏe nghiêm trọng nếu không được phát hiện sớm. Vì vậy, tuyệt đối không chủ quan nếu cơ thể xuất hiện các dấu hiệu kể trên, cần đến ngay bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất để tiến hành xét nghiệp và chẩn đoán loại ký sinh mà cơ thể mắc phải.