Bán phá giá trên thị trường thế giới là

Bán phá giá là khái niệm tương đối quen thuộc trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây lại là khái niệm được biết đến theo hướng khá tiêu cực và liên quan trực tiếp đến thị trường kinh doanh. Vậy trên thực tế bán phá giá là gì và làm thế nào để chống bán phá giá một cách hiệu quả nhất? hãy cùng Sapo.vn tìm hiểu ngay trong những chia sẻ dưới đây. 

1. Bán phá giá là gì?

Bán phá giá thực tế là một khái niệm cơ bản để chỉ việc các sản phẩm được bán ở một thị trường với giá bán ở dưới mức giá thành sản xuất. Bán phá giá thường được thể hiện qua nhiều cách khác nhau để hạ giá, tăng khả năng cạnh tranh, đánh bại đối thủ và chiếm lĩnh thị trường ngay cả khi phải chấp nhận bán lỗ ở một mức nào đó. Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi bán phá giá được xem là bất hợp pháp. 

Bán phá giá trên thị trường thế giới là

Đối với quan hệ thương mại quốc tế, bán phá giá là một hành vi của doanh nghiệp thuộc quốc gia này bán sang quốc gia khác với giá quá thấp nhằm giành giật thị trường xuất khẩu. Rõ ràng các mặt hàng khi nhập khẩu có giá thấp hơn và giá bán cũng thấp hơn cả giá thị trường thì người bị thiệt đầu tiên sẽ là các nhà sản xuất trong nước. Đó là lý do mà bán phá giá được đánh giá là hành vi cạnh tranh không công bằng, phải được ngăn chặn để đảm bảo tuyệt đối quyền lợi người kinh doanh cũng như người tiêu dùng. 

Theo đó, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, Hiệp định chống bán phá giá của WTO đã cho phép các quốc gia thành viên được quyền đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước khi những ngành này bị thiệt hại thực sự từ hành vi bán phá giá của các đối tác nước ngoài. 

Tại Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã ban hành pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/10/2004 quy định các biện pháp cụ thể mà chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Pháp lệnh này căn bản tuân thủ các quy định tại Điều 6 Hiệp định GATT và Hiệp định chống phá giá của WTO.

Theo đó, hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường. Trong trường hợp không có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước (vùng lãnh thổ) xuất khẩu hoặc có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau:

  • Giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự của nước (vùng lãnh thổ) xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường.
  • Giá thành hợp lý của hàng hóa cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ 3. 

2. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá

Trên thực tế, không phải cứ có hiện tượng hàng hóa nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa đó mà theo quy định của WTO thì việc áp dụng chống bán phá giá chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu sau khi đã tiến hành chống bán phá giá, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 3 điều kiện sau:

  • Hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá với biên độ phá giá không thấp hơn 2%
  • Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên

Cách tính biên độ phá giá

Biên độ phá giá = (Giá thông thường - Giá xuất khẩu) / Giá xuất khẩu

Trong đó:

  • Giá thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước thứ ba; hoặc giá xây dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản lý, bán hàng và khoản lợi nhuận hợp lý – WTO có quy định cụ thể các điều kiện để áp dụng từng phương pháp này);
  • Giá xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu (hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên)

Bán phá giá trên thị trường thế giới là

3. Ai được quyền kiện chống bán phá giá?

Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các chủ thể có quyền khởi kiện là ngành sản xuất sản phẩm tương ứng của nước nhập khẩu (hoặc đại diện của ngành); hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu. Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. 

Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: 

  • Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiến ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện
  • Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước. 

4. Làm thế nào để chống bán phá giá?

Biện pháp chống bán phá giá được hiểu là các biện pháp mà nước nhập khẩu có thể sử dụng để chống lại hiện tượng bán phá giá của hàng nhập khẩu sau khi có kết luận khẳng định việc bán phá giá gây thiệt hại đáng kể. Thông thường, các biện pháp chống bán phá giá thường bao gồm:

4.1 Áp dụng thuế để chống bán phá giá

Chống bán phá giá bằng thuế chống bán phá giá được xem là một trong những giải pháp được sử dụng rộng rãi để chống bán phá giá một cách hiệu quả. Phương pháp này được áp dụng với tất cả các sản phẩm bị điều tra cũng như bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó. 

Theo nguyên tắc, mức thuế chống bán phá giá sẽ được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ. 

Bán phá giá trên thị trường thế giới là

Trong trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia cuộc điều tra thì mức thuế chống bán phá giá áp dụng cho họ sẽ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra. 

Thời gian áp thuế theo quy định WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại. Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hóa liên quan đến nhập khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm ban hành quyết định. 

Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa hề xuất khẩu hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có quyết định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn thực hiện.

4.2 Biện pháp tự vệ

Biện pháp này được hiểu là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hóa khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiệm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.

Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ nhưng khi áp dụng thì họ phải đảm bảo tuân thủ các quy định của WTO về điều kiện, thủ tục cũng như cách thức áp dụng biện pháp tự vệ. 

Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:

  • Hàng hóa liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng
  • Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa đó bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại nghiêm trọng
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nói trên

Cùng với đó, sự gia tăng về số lượng của hàng hóa nhập khẩu pháp đáp ứng các điều kiện sau:

  • Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối so với sản xuất trong nước (ví dụ lượng hàng nhập khẩu hầu như không tăng nhưng cùng thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh)
  • Sự gia tăng này phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời)
  • Theo điều kiện chung, sự gia tăng nhập khẩu này phải thuộc diện không dự đoán trước được vào thời điểm nước nhập khẩu đàm phán tham gia Hiệp định SG. 

Sapo hy vọng rằng những chia sẻ trên của chúng tôi đã giúp bạn hiểu rõ về bán phá giá là gì cũng như làm thế nào để chống bán phá giá hiệu quả nhất.

Xem thêm:

Thị trường mua bán ngày càng trở nên sôi động cả trong và ngoài nước trên toàn thế giới hiện nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện đại đang diễn ra. Điều này khiến cho những hình thức mua bán đơn giản trước đây ngày càng thay đổi thậm chí là biến tướng đi từ những hành vi vi phạm pháp luật. Trong đó, tình trạng bán phá giá đang là hiện tượng đáng quan tâm.

Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Hành vi bán phá giá là gì?

Bán phá giá là một khái niệm cơ bản của thương mại quốc tế. Các sản phẩm bán vào một thị trường với giá bán ở mức dưới giá thành sản xuất thì được xem là bán phá giá và có thể phải chịu các cuộc điều tra và bị trừng phạt.

Bán phá giá là tổng hợp những biện pháp bán hạ giá một số mặt hàng xuất khẩu nào đó để cạnh tranh nhưng có hiệu quả với những bạn hàng khác trên thị trường thế giới. Mục tiêu là đánh bại đối thủ, chiếm lĩnh thị trường ngoài nước hoặc kiếm ngoại tệ khẩn cấp, có khi cả mục tiêu chính trị.

Như vậy, bán phá giá là việc bán hàng hoá với giá thấp hơn giá thành sản xuất, thường là ở thị trường nước ngoài.

Biện pháp bán phá giá có thể được vận dụng với tư cách phản ứng ngắn hạn để đối phó với tình hình suy thoái trong nước, nghĩa là sản lượng dư ra được bán đổ bán tháo ở nước ngoài, hoặc với tư cách một chiến lược dài hạn để thâm nhập thị trường xuất khẩu hoặc đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường.

Khi các công ty bán phá giá đã chiếm được địa vị vững chắc trên thị trường, họ thường tăng giá lên để tạo ra lợi nhuận. Cho dù được vận dụng với mục đích nào, biện pháp bán phá giá vẫn bị coi là hình thức buôn bán không công bằng và bị các hiệp định thương mại, chẳng hạn Hiệp định chung về Mậu dịch và Thuế quan cấm áp dụng.

– Hành vi bán phá giá trong tiếng anh là Dumping

– Định nghĩa về hành vi bán phá giá trong tiếng anh được hiểu là:

Dumping is the sale of goods at a price lower than the cost of production, usually in the foreign market.

Xem thêm: Các biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế

Dumping can be used as a short-term response to the domestic slowdown, i.e., the excess is sold off overseas, or as a strategy. to enter export markets or to push competitors out of the market.

Dumping is a combination of measures to sell down a certain number of export products to compete effectively with other customers on the world market. The goal is to defeat rivals, dominate foreign markets or earn urgent foreign currency, sometimes even political goals.

– Một số từ vựng tiếng anh tiêu biểu liên quan trong cùng lĩnh vực thương mại như:

  • Real national income: thu nhập quốc dân thực tế
  • Per capita income: thu nhập bình quân đầu người
  • Revenue: thu nhập
  • Revenue tax: thuế thu nhập
  • Preferential duties: thuế ưu đãi
  • Rate of economic growth: tốc độ phát triển kinh tế
  • Average annual growth: tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm
  • Indicator of economic welfare: chỉ tiêu phúc lợi kinh tế
  • National economy: kinh tế quốc dân
  • International economic aid: viện trợ kinh tế quốc tế
  • Economic cooperation: hợp tác kinh tế
  • Planned economy: kinh tế kế hoạch
  • Market economy : kinh tế thị trường
  • The openness of the economy : sự mở cử của nền kinh tế

2. Bản chất và cách hình thức bán phá giá:

Thứ nhất, bản chất của một sản phẩm bị coi là bán phá giá

Điều 2, Hiệp định Thực thi điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – gatt (1994) (Hiệp định ADP) đã đưa ra định nghĩa cụ thể về một sản phẩm bán phá giá.

Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá ( tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó ) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.

Trong trường hợp không có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3 thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và lợi nhuận.

Việc bán các sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba với giá thấp hơn chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm ( bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi ) cộng với các chi phí quản trị, chi phí bán hàng và các chi phí chung có thể được coi là giá bán không theo các điều kiện thương mại thông thường về giá và có thể không được xem xét tới trong quá trình xác định giá trị thông thường của sản phẩm chỉ khi các cơ quan có thẩm quyền quyết định rằng việc bán hàng đó được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài với một khối lượng đáng kể và được bán với mức giá không đủ bù đắp chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu như mức giá bán thấp hơn chi phí tại thời điểm bán hàng nhưng lại cao hơn mức chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm trong khoảng thời gian tiến hành điều tra thì mức giá đó được coi là đủ để bù đắp cho các chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý.

Xem thêm: Đánh thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá với cùng một loại sản phẩm

Theo đó, các chi phí được tính toán thông thường trên cơ sở sổ sách của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi tại nước xuất khẩu và phản ánh một cách hợp lý các chi phí đi kèm với việc sản xuất và bán hàng hóa đang được xem xét. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tất cả các bằng chứng sẵn có về việc phân bổ chi phí, trong đó bao gồm cả các bằng chứng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung cấp trong quá trình điều tra với điều kiện là việc phân bổ trên thực tế đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sử dụng trong quá khứ, đặc biệt là sử dụng trong việc xây dựng thời gian khấu hao thích hợp và hạn mức cho phép chi tiêu xây dựng cơ bản và các chi phí phát triển khác. Trừ khi đã được phản ánh trong sự phân bổ chi phí theo qui định tại mục này, các chi phí sẽ được điều chỉnh một cách thích hợp đối với các hạng mục chi phí không thường xuyên được sử dụng để làm lợi cho hoạt động sản xuất trong tương lai và / hoặc hiện tại, hoặc trong trường hợp các chi phí trong thời gian điều tra bị ảnh hưởng bởi các hoạt động khi bắt đầu sản xuất.

Nhằm thực hiện được điều trên, tổng số tiền chi phí cho quản lý, bán hàng và các chi phí chung khác sẽ được xác định dựa trên các số liệu thực tế liên quan đến quá trình sản xuất và bán sản phẩm tương tự theo điều kiện thương mại thông thường của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đang bị điều tra đó.

Trong trường hợp không tồn tại mức giá xuất khẩu hoặc cơ quan có thẩm quyền thấy rằng mức giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì lý do nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc một bên thứ ba nào đó có quan hệ với nhau hoặc có thoả thuận về bù trừ, giá xuất khẩu có thể được diễn giải trên cơ sở mức giá khi sản phẩm nhập khẩu được bán lại lần đầu cho một người mua hàng độc lập, hoặc nếu như sản phẩm đó không được bán lại cho một người mua hàng độc lập hoặc không được bán lại theo các điều kiện giống với điều kiện nhập khẩu hàng hóa thì mức giá có thể được xác định trên một cơ sở hợp lý do cơ quan có thẩm quyền tự quyết định.

Giá xuất khẩu sẽ được so sánh một cách công bằng với giá trị thông thường. Việc so sánh trên được tiến hành ở cùng một khâu thống nhất của quá trình mua bán, thường là tại khâu xuất xưởng và so sánh việc bán hàng vào cùng thời điểm hoặc thời điểm càng giống nhau càng tốt. Đối với từng trường hợp cụ thể, có thể có sự chiếu cố hợp lý về những sự khác biệt có thể ảnh hưởng đến việc so sánh giá, trong đó bao gồm sự khác biệt về điều kiện bán hàng, thuế, dung lượng thương mại, khối lượng, đặc tính vật lý và bất kỳ sự khác biệt nào khác có biểu hiện ảnh hưởng đến việc so sánh giá.

Trong trường hợp được đề cập đến tại khoản 3, được phép tính đến các chi phí, bao gồm các loại thuế và phí phát sinh trong giai khoản từ khi nhập khẩu đến lúc bán lại và lợi nhuận thu được. Nếu như sự so sánh giá bị ảnh hưởng trong các trường hợp như trên, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định trị giá thông thường ở một mức độ thương mại tương đương với mức mà giá thành xuất khẩu được xây dựng hoặc có thể khấu trừ thích hợp như được cho phép tại khoản này. Các cơ quan có thẩm quyền phải cho các bên hữu quan biết rõ những thông tin nào cần thiết phải có để có thể so sánh một cách công bằng và không được phép áp đặt vô lý trách nhiệm đưa ra chứng cớ đối với các bên hữu quan.

Trong trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ hàng hóa mà được xuất khẩu sang lãnh thổ Thành viên nhập khẩu hàng hóa đó từ một nước trung gian, giá của hàng hóa khi được bán từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu thông thường sẽ được so sánh với mức giá có thể so sánh được tại nước xuất khẩu. Tuy nhiên, có thể đem so sánh với mức giá tại nước xuất xứ hàng hóa, ví dụ như trong trường hợp sản phẩm chỉ đơn thuần chuyển cảng qua nước xuất khẩu hoặc sản phẩm đó không được sản xuất tại nước xuất khẩu hoặc khi không có mức giá tương đương nào có thể đem ra so sánh tại nước xuất khẩu hàng hóa.

Trong toàn bộ Hiệp định này, khái niệm “sản phẩm tương tự” sẽ được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét.

Thứ hai, các hình thức bán phá giá

Xem thêm: Quy định các biện pháp chống bán phá giá

Bán phá giá gồm hai loại:

Một là, bán phá giá chớp nhoáng hay còn gọi là bán phá giá độc quyền

Là hình thức bán phá giá xuất khẩu tạm thời thấp hơn giá nội địa để tăng sức cạnh tranh, loại trừ đối thủ. Khi đã đạt được mục đích thì mức giá sẽ được nâng lên ở mức giá độc quyền. Phá giá độc quyền là hành vi vi phạm thô bạo nguyên tắc cạng tranh vì bản chất của nó là hành vi nhằm độc quyền hóa. Phá giá độc quyền làm hủy hoại cạnh tranh và là nguyên nhân trực tiếp gây ra những bất ổn về kinh tế.

Phá giá độc quyền chia làm 02 loại:

– Phá giá chiến lược: Là hành vi phá giá nằm trong một chiến lược cạnh tranh tổng thể của nước xuất khẩu.

– Phá giá cướp đoạt: Là hành vi định giá thấp nhằm mục đích đẩy đối thủ cạnh tranh vào tình trạng phá sản để giành vị trí độc quyền tại nước nhập khẩu.

Hai là, bán phá giá không độc quyền

Hình thức này được biểu hiện như sau:

Xem thêm: Thuế chống bán phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời

– Bán phá giá bền vững: hay còn gọi là chính sách phân biệt về giá cả, bán phá giá bền vững là xu hướng bán sản phẩm trên thị trường thế giới với giá thấp hơn giá nội địa nhằm cực đại lợi nhuận của nhà sản xuất, xuất khẩu.

– Bán phá giá không thường xuyên hay còn gọi là phá giá chu kỳ là bán phá giá xuất khẩu thấp để tránh rủi ro của thị trường thế giới và giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính mà công ty đang cần giải quyết gấp. Đây là hình thức phá giá mà nhiều doanh nghiệp sử dụng nhằm giải quyết hậu quả của việc sản xuất quá dư thừa loại hàng đó.

Ngoài hai hình thức trên thì trên thực tế còn có 02 hình thức bán phá giá khác là: bán phá giá đảo ngược và bán phá giá qua lại.