Ctcp hóa chất cơ bản miền nam golden newsletter năm 2024
Vietnamese first and only value investment newsletter Ấn phẩm đầu tư giá trị đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam Ấn phẩm được lưu hành nội bộ và bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, vui lòng không sao chép và chia sẻ công khai nếu chưa được cho phép bở i: GOLDEN RIVER INVESTMENT MANAGEMENT, LTD Ho Chi Minh City, 700000 goldenriver@newslettervietnam Ấn phẩm XXII, phát hành tháng 05. 2019 , Saigon “Behind every stock is a company. Find out what it is doing.” Peter Lynch, legendary fund manager Công ty nhắc đến: VCB, MBB, CTG, SHB, TPB, STB, ACB... VNM, MSN, VHC, ANV, AGF... MWG, PNJ... HPG, POM, NKG, HSG... SSI, HCM, VCI... CTR... VTK, X20... VGI... HAG... TCB, TPB, NAMABANK... APS, WSS, PSI... EMS, HVN, VGG... AMZN, GOOGL... EVN... SOFTBANK... IMBELLUS INC... PINTEREST, ZOOM... (và còn nhiều hơn nữa). Nội dung độc nhất chưa từng có ở bất kỳ đâu: Show
Lời giới thiệuMặc cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2013 cho đến nay đang trở thành một ngôi sao trong khu vực châu Á nhờ sự đột biến kỷ lục về giá cổ phiếu, thanh khoản cũng như số lượng doanh nghiệp niêm yết mới, người ta lại không thể không thấy một hiện tượng nghiêm trọng khi một số nhà đầu tư – đặc biệt là số nhà đầu tư cá nhân Việt Nam – lại không thể có được mức lợi nhuận tương xứng mà đáng buồn thay, họ vẫn đang chịu thua lỗ nghiêm trọng, mất đi sự tin tưởng và dần rời bỏ thị trường. Vấn đề này đã làm chúng tôi trăn trở nhiều năm qua để tìm ra nguyên nhân gốc rễ và giải pháp để vực lại lợi nhuận cũng như niềm tin – thứ nền móng xây dựng nên nền kinh tế tài chính của Việt Nam - ở những nhà đầu tư cá nhân kể trên. Theo nhiều năm kinh nghiệm cũng như quan sát của chúng tôi trên thị trường, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng có ba nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan) chính gây ra tình trạng trên như sau:
(3) Các nhóm chu kỳ (cyclicals) khác như tiêu dùng không thiết yếu, bất động sản và công nghiệp: Nhìn chung, các nhóm nầy vẫn giữ được tăng trưởng so với cùng kỳ Q1/2018, nhưng tốc độ đã giảm tốc đáng kể, xuống còn dưới 10% YoY. Trong tiêu dùng không thiết yếu, nổi bật nhất vẫn là hai nhà bán lẻ hàng đầu MWG (tăng 233 tỷ, +29% YoY) và PNJ (tăng 92 tỷ, +27% YoY). Song, ở các công ty bán lẻ chu kỳ luôn tồn tại rủi ro người tiêu dùng hạn chế các sản phẩm xa xỉ khi kinh tế khó khăn, và sự cạnh tranh biên LN khốc liệt từ các trang e-commerce. Vì vậy, dù cho LNST tăng trưởng tốt, chủ yếu nhờ việc tiết giảm chi phí, doanh thu thuần của cả MWG lẫn PNJ đều giảm tốc đáng kể so với những năm thịnh vượng, chỉ lần lượt tăng 10% và 15% sv cùng kỳ - một dấu hiệu có thể nhận thấy trước. Ngoài ra, hai nhóm chu kỳ là bất động sản và công nghiệp (bao gồm hàng không, xây dựng, sản xuất) đều có LNST đi ngang so với 2018 một cách kỳ lạ (!) Đối với những ngành nghề biến động mạnh theo “sóng” như bất động sản, chúng tôi không cho rằng tình trạng đi ngang (flat) trong lợi nhuận sẽ tồn tại được trong một thời gian dài: một là chúng tăng rất mạnh, hai là giảm rất mạnh. Và tương tự vậy cho các nhóm xây dựng, hàng không... Top 10 cổ phiếu có lợi nhuận tăng cao nhất: Như quý độc giả thấy, trong top 10 cổ phiếu có tăng trưởng lợi nhuận cao nhất, đến 5/10 cổ phiếu thuộc nhóm ngân hàng, khá rủi ro (!) Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải lưu ý độ bền vững của hai case VHC và MWG như chúng tôi đã đề cập phần trên. Top 10 cổ phiếu có lợi nhuận giảm sâu nhất: Chú thích: Chúng tôi đã loại trừ hai case đột biến GMD & VHM Một lần nữa như quý độc giả thấy, hầu hết các công ty có lợi nhuận sụt giảm mạnh nhất đều thuộc các nhóm ngành như Thép - VLXD (4/10 công ty) và Chứng khoán (3/10 công ty). Trên kinh nghiệm quan sát của chúng tôi, những nhóm ngành khá đặc thù như vật liệu xây dựng (thép) và chứng khoán thường là nơi báo hiệu trước cho những xu hướng tiếp theo của các doanh nghiệp, âu cũng bởi vì thép là một trong những nguyên liệu đầu tiên cho ngành bất động sản
2. Phân tích cổ phiếuGiới thiệu: Kể từ năm 2019, chúng tôi sẽ nghe góp ý của quý độc giả mà thực hiện thêm một vài phân tích cổ phiếu. Sau ấn phẩm XVIII, chúng tôi sẽ duy trì 3 - 4 phân tích cổ phiếu mỗi kì, trong đó phần lớn do BBT tự đề xuất và còn lại 1-2 case do độc giả yêu cầu. Xếp loại cổ phiếu: Học theo ngài Munger, chúng tôi cũng chia các cổ phiếu ra làm 3 rổ: In, Out & Too Tough (Quá khó). Những lĩnh vực không nằm trong vòng tròn hiểu biết của chúng tôi, với quá nhiều rủi ro ngoài dự tính hoặc nhiều mảng kinh doanh phức tạp, chúng tôi sẽ cho vào rổ “Quá khó”, theo dõi chúng và quyết định sau. Trên kinh nghiệm của chúng tôi, những cơ hội tuyệt vời nhất luôn đơn giản, dễ hiểu và không có quá nhiều rủi ro tiềm tàng. Tổng Công ty CP Công trình Viettel (UPCOM: CTR) Tỷ lệ P/E trên các mức LN() Tỷ lệ P/B ROE 2018 Các khoản phải thu NH Các khoản phải trả NH Dòng tiền tự do & cổ tức Giá thấp - cao 52 tuần: [18 – 28] Giá hiện tại: [25] SLCP đang lưu hành: 51. 8 triệu cp Vốn hóa thị trường: 1,300 tỷ Thanh khoản TB: 54,000 cp/phiên EPS 12 tháng gần nhất- 2018 : [2], đã điều chỉnh quỹ khen thưởng – phúc lợi EPS TB 3 năm 2016- 2018 : [1] EPS TB 5 năm 2014-2018: [1] BVPS quý gần nhất: [15] Trượt 12T: 10 TB 5 năm: 14 1 16% 2018: 1,360 tỷ 2017: 1,200 tỷ 2018: 1,550 tỷ 2017: 1,130 tỷ FCF’18: 410 tỷ Cổ tức: 1,000đ Như lời yêu cầu của độc giả cách đây nhiều tháng về một số case thuộc Tập đoàn Công nghiệp – Viễn Thông Quân Đội (Viettel), nay chúng tôi mới có dịp “xắn tay áo” lên thực hiện. Trong số nầy, chúng tôi khá chú ý đến case đặc biệt Tổng Công ty CP Công trình Viettel (“CTR”) – với bước ngoặt định hướng trở thành “công ty tháp” (TowerCo) số 1 tại Việt Nam - dù đây là lĩnh vực khó, đòi hỏi chuyên môn cao... Meaning: Thành lập năm 1993, CTR vốn xuất thân là một công ty xây lắp công trình. cuối tháng 9/2018, CTR chính thức được đổi tên thành Tổng Công ty thứ 4 (73% cổ phần nắm giữ bởi Viettel), với định hướng trở thành TowerCo số 1 tại Việt Nam. Theo chia sẻ của ban lãnh đạo, hiện nay CTR hoạt động trên 4 trụ chính: mảng xây lắp truyền thống (40% lợi nhuận gộp), mảng vận hành-khai thác hạ tầng viễn thông cho Viettel Telecom & Viettel Global (30% LNG), mảng cho thuê hạ tầng BTS/Smallcell/DAS() mới – đặc thù của các TowerCo (25% LNG) và các dịch vụ khác (5% LNG). Tuy nhiên, một rủi ro lớn của CTR đó chính là việc công ty phụ thuộc đến 95% lợi nhuận vào tập đoàn mẹ Viettel, và hơn 90% nguồn thu được tạo ra đều đến từ thị trường nội địa. Ngoài ra, CTR chỉ sở hữu các trạm và thiết bị, không phải bất động sản đi liền, một thiếu sót khá lớn so với các TowerCo khác trên thế giới (!) Moat: Với lợi thế từ thực trạng ngành viễn thông là ngành có điều kiện, độc quyền nhóm (oligopoly) vào 3 nhà mạng Quốc doanh, CTR được hưởng lợi khá lớn từ vị thế độc quyền nầy nhờ mối quan hệ cùng tập đoàn (inter-relationships) với Viettel, đặc biệt với định hướng đầu tư vào hạ tầng trạm phát sóng BTS/Small-cell và ăng-ten DAS để phục vụ nhu cầu sử dụng mạng internet 4G/5G tốc độ cao cho các hoạt động tốn nhiều băng thông (video, gaming, cloud) ngày càng lớn của người tiêu dùng. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, sự phụ thuộc vào Viettel khiến việc mở rộng biên lợi nhuận của CTR là khá khó khăn, trừ khi công ty tìm cách tiết giảm chi phí của mình. Hơn nữa, cả doanh thu và biên LN mảng xây lắp của CTR có xu hướng ngày càng thu hẹp do nhu cầu xây lắp dự án mới bão hòa và chính sách đấu thầu chặt hơn. Financials: Tình hình tài chính của CTR tương đối lành mạnh: không hề có nợ vay, ROE ~16%; song do mảng xây lắp vẫn chiếm chủ đạo, phần lớn tài sản CTR nằm ở khoản phải thu (60% tài sản, vẫn < khoản phải trả), biên lợi nhuận ròng thấp ở mức ~3%. Trong tương lai sau năm 2020 - khi CTR đầu tư mạnh hơn vào hạ tầng, chúng tôi cho rằng tỷ trọng khoản phải thu sẽ thu hẹp, nhường chỗ cho lượng TSCĐ lớn và biên LN ròng cao hơn (trung bình ngành TowerCo 15%-20%). Từ tỷ trọng 0% năm 2018, đến Q1-2019, mảng cho thuê hạ tầng của CTR đã đóng góp 25% lợi nhuận gộp. Management: Có khá ít thông tin để đánh giá ban lãnh đạo CTR. Song, khi nhìn đến (1) mức trích lập khen thưởng phúc lợi lên đến 17% LNST (!) vì thâm dụng đến 9, lao động (2) Kế hoạch tăng trưởng thấp 7% YoY, chúng tôi không mấy ấn tượng. Tuy vậy, có hai điểm sáng khá tích cực là chính sách cổ tức kết hợp tiền mặt (1,000đ, 17% cp) khá tốt và việc nhiều người trong BLĐ đăng ký mua vào cp thời gian qua(*). MOS: Cuối cùng, mức định giá 10x P/E 12 tháng gần nhất là không rẻ với mô hình kinh doanh “xây lắp” hiện tại của CTR. Song, khi nhìn đến định giá của các TowerCo lớn nhất Hoa Kỳ như American Tower Co. (23x CFO, 85 tỷ USD vốn hóa), Crown Castle Int’ (20x CFO, $51 tỷ) và SBA Communications (28x CFO, $23 tỷ) cộng với triển vọng phát triển hạ tầng viễn thông 4G/5G/IoT tại Việt Nam, chúng tôi không kỳ vọng CTR
Các thuật ngữ/điển tích/từ viết tắt/từ Anh ngữ được sử dụng trong bài phân tích cổ phiếu của chúng tôi BTS (base-transceiver station)/Small-cell/DAS (distributed antenna system): những thiết bị thu phát sóng quãng ngắn, cung cấp dịch vụ băng thông rộng cho nhu cầu Wireless Internet tốc độ cao 4G/5G/IoT, thường được đặt trên nóc các tòa nhà ở đô thị và các trạm lớn ở nông thôn. Ban lãnh đạo đăng ký mua vào cổ phiếu: dấu hiệu tích cực ngài Peter Lynch ưa thích, ông lập luận rằng khi bán, ban lãnh đạo có rất nhiều lý do, song khi mua (nếu họ mua thật thay vì chỉ đăng ký lấy lệ), thì họ chỉ có 1 lý do mà thôi: đó là cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Chi phí SG&A (selling, general & administrative expenses): Khoản mục ít được chú ý đến trong BCTC, nhưng rất hệ trọng với các cổ đông. TCT CP Đầu tư Quốc tế Viettel (UPCOM: VGI) Tỷ lệ P/CFO Tỷ lệ P/S Số lượng thuê bao Doanh thu TB/thuê bao Phải thu NH & DH Dòng tiền tự do (FCF) Giá thấp - cao 52 tuần: [11 – 28] Giá hiện tại: [22] SLCP đang lưu hành: 2 tỷ cổ phiếu Vốn hóa thị trường: 50,500 tỷ Thanh khoản TB: 300,000 cp/phiên Dòng tiền từ HĐKD/cp (CFO per share) 12 tháng gần nhất: [2] CFO/share TB 3 năm 2016-18: [1] CFO/share TB 4 năm 2015-18: [1] BVPS quý gần nhất: [10], đã điều chỉnh các khoản phải thu, lợi thế thương mại 12T: 9 4 năm: 18 3 2017: 40 triệu 2016: 35 triệu 2017: US$ 2016: US$ ‘18: 22,300 tỷ ‘17: 17,400 tỷ ‘18: 960 tỷ ‘17: - 210 tỷ Kể từ đầu Xuân 2019, sau đợt giảm mạnh rồi tăng vọt của Tổng Công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel (“VGI”, “Công ty”), dù rất nhiều cá nhân nhờ vả, chúng tôi thực sự chần chừ vì đây là một trong những case thuộc hạng “phức tạp nhất mọi thời đại”! Song nhân dịp chủ đề hôm nay, không còn lí lẽ gì để chúng tôi chần chừ hơn nữa... Meaning & Moat: Thành lập năm 2007, với tầm nhìn xa trông rộng của ông Nguyễn Mạnh Hùng khi thị trường viễn thông nội địa còn chưa bão hòa, VGI được định hướng đầu tư mở rộng sang các thị trường kém phát triển toàn cầu. Cuối 2017, 40% doanh thu của Công ty đến từ các thị trường Châu Phi (lần lượt là Cameroon, Mozambique, Tanzania và Haiti), tầm 30% đến từ các thị trường Đông Nam Á (lần lượt là Cambodia, Laos và mới nhất là Myanmar), và 30% doanh số còn lại đến từ thị trường Nam Mỹ và mua/bán dịch vụ nội bộ Tập đoàn. VGI nắm thị phần số 1 tại hầu hết các nước Đông Nam Á, song lại chiếm vị trí số 2 hoặc 3 tại các thị trường lớn Châu Phi. Mô hình kinh doanh của VGI bao gồm việc xin giấy phép, đầu tư mạnh vào hạ tầng viễn thông, sau đó cung cấp dịch vụ thuê bao/3G/4G cho người tiêu dùng nước sở tại. Ở đây, có một rủi ro mà ít người nhắc đến chính là thời hạn giấy phép của VGI. Theo bản cáo bạch, ban lãnh đạo Công ty đặt kế hoạch hoàn lại vốn đầu tư sau 9-13 năm với IRR từ 12%-15%, trước 2 năm so với thời hạn giấy phép: như vậy vào độ 2030 - 2033, VGI sẽ hết hạn giấy phép ở một vài thị trường lớn (!) Đến lúc nầy, là Công ty buộc phải tìm được đối tác nhượng lại hạ tầng viễn thông với giá cao để bù với phần trượt tỷ giá – một sự rủi (uncertainty) nhất định NĐT chúng ta cần lưu ý. Financials: Có thể nói tài chánh là mấu chốt của bài viết nầy, xét đến khá nhiều dấu hiệu mà chúng tôi liệt kê không sao hết nổi, ngoài mức lỗ ròng sau thuế:
3. Quan điểm ngược chiềuNgược chiều: “Tại sao giá cổ phiếu Xtăng/giảm?” là câu hỏi sai mà chúng tathường đặt ra nhấtNhiều năm tiếp xúc với các nhà đầu tư cá nhân và cả giới đầu tư tài chánh chuyên nghiệp, chúng tôi đúc kết được rằng cho dù một người thông minh, chuyên nghiệp và giàu có đến thế nào đi chăng nữa, anh ta cũng không thể nào tránh được các cạm bẫy tâm lý (psychological biases) rất căn bản của loài người - nếu anh ta không có tư duy và cách tiếp cận đúng đắn đối với thị trường nói chung và giá cổ phiếu nói riêng. Ngài Peter Lynch từng có câu châm ngôn nổi tiếng: “Đằng sau mỗi cổ phiếu luôn là một doanh nghiệp đang kinh doanh. Và chỉ có 1 lý do khiến cổ phiếu tăng: doanh nghiệp đứng sau làm ăn tốt hơn, hoặc tăng trưởng mạnh từ công ty nhỏ lên quy mô khổng lồ.” Dù vậy, hầu hết cá nhân chúng ta tham gia thị trường đều coi cổ phiếu như một “mã số đánh cược” xanh, đỏ, tím, vàng mỗi ngày, tin rằng chúng được điều khiển bởi những thế lực ngầm hoặc tin tức bí mật mà không ai được biết (!) Vâng suy nghĩ này thì cũng đúng ở một góc độ nào đó, nhưng nếu ta tiếp cận công việc đầu tư (investment) với tư duy đánh bạc, ta sẽ được trả lại đúng kết quả mà một gã cờ bạc nhận về: đó là 0% CAGR tính trung bình 100 năm(*), theo thống kê của ngài Jack Bogle, sáng lập Vanguard. Lạ lùng thay, khi ta tư duy sai, ta dễ lâm vào việc đi tìm những vấn đề sai, đặt ra những câu hỏi sai, nhận về những câu trả lời sai, và từ đó chu trình trên lại tiếp tục củng cố (reinforce) cho tư duy sai ban đầu của ta. Trong số đó, một trong những câu hỏi sai lầm phổ biến nhất mà chúng tôi quan sát thấy được ở không chỉ NĐT cá nhân mà cả một số nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp (?!) mỗi khi giá cổ phiếu tăng hoặc giảm mạnh bao gồm:
I. 3 lý do khiến các câu hỏi về giá cổ phiếu trênthể hiện tư duy lệch lạcKhi đặt những câu hỏi dạng trên, những NĐT cá nhân chúng ta tự thể hiện mình trong vô thức với những người xung quanh rằng: thứ nhất, chúng ta không nhận thức rõ về chiến lược đầu tư của bản thân (dài hạn hay ngắn hạn), từ đó không hiểu rõ bản thân mình muốn gì, thậm chí không biết rằng người mình đang hỏi thuộc dạng nào; thứ hai, ta không biết rõ giới hạn năng lực của bản thân, nghĩ rằng mình có thể kiểm soát và hiểu biết hết thảy mọi thứ biến động về giá cổ phiếu; cuối cùng, ta không kiểm soát được tâm lý của bản thân, mất ăn mất ngủ, lo lắng trầm cảm, hoặc hưng phấn, tiếc nuối quá mức vì giá cổ phiếu biến động trong ngắn hạn, dẫn đến hậu quả là những hành vi mua bán sai lầm tiếp theo đó (!) Vì lẽ nầy, có 3 lý do khiến chúng tôi tin rằng các câu hỏi dạng trên lệch lạc về mặt bản chất: (1) Ta không phân biệt được đâu là động lực ngắn hạn hay dài hạn của giá cổ phiếu, thậm chí không nhận thức được tư duy ngắn hạn/dài hạn của chính ta và người được hỏi. Ngài Benjamin Graham - cha đẻ của công việc phân tích chứng khoán và đầu tư giá trị - đã từng có một câu châm ngôn triết lý và đúng đắn làm sao: “Trong ngắn hạn, thị trường chứng khoán là một cỗ máy bình chọn (voting machine) theo số đông. Nhưng trong dài hạn, nó luôn là một bàn cân (weighing machine) lí trí và lạnh lùng.” Hơn thế nữa, chúng tôi bổ sung thêm rằng: trong ngắn hạn, ở một thị trường cận biên như Việt Nam, đôi khi giá cổ phiếu trong ngắn hạn còn không được bình chọn bởi số đông, mà thậm chí bị thao túng bởi một số ít - số đó thường là người nội bộ, tổ chức tài chánh hoặc cổ đông lớn. Những NĐT giá trị am hiểu luôn biết rằng động lực ngắn hạn và dài hạn (short-term and long-term drivers) của giá cổ phiếu gần như khác nhau một trời một vực! Trong khi giá cổ phiếu ngắn hạn có thể bị tác động bởi muôn vàn những nguyên nhân vĩ mô, vi mô, tâm lý đám đông và những thế lực thao túng khác nhau - thứ chúng tôi sẽ bàn ở phần II, động lực dài hạn của cổ phiếu luôn luôn xoay quanh 2 vấn đề cực kỳ căn bản như câu châm ngôn của ngài Peter Lynch ở đầu bài vậy... Vì lẽ đó, NĐT giá trị thông minh luôn tập trung vào phân tích động lực thứ hai, và cố gắng tận dụng động lực thứ nhất sao cho họ được lợi nhất. Như quý độc giả thấy, trong ngắn hạn, có quá nhiều những tác nhân bên ngoài, vĩ mô và vi mô, đến mức một cá nhân khó thể nào tiếp cận được đến dữ liệu (data), chứ đừng nói có thể kiểm soát, hiểu rõ và cho ra được câu trả lời chính xác. Trong đó, có hai tác nhân mà ngay cả một tay thao túng cũng khó lòng mà kiểm soát được - đặc biệt ở trường hợp cổ phiếu có thanh khoản cao, chính là những tin tức tiêu cực/tích cực bất ngờ của doanh nghiệp và sự phi lí trí có hiệu ứng “dây chuyền” của đám đông. Nhiều lần nói chuyện chia sẻ với những người môi giới chứng khoán, chúng tôi thường nghe họ than thở về một nghịch lý mỗi dịp TTCK giảm mạnh, họ luôn bị các khách hàng vô lí yêu cầu giải thích vì sao giá cổ phiếu lại giảm, một số trường hợp chỉ xuống “vài line” vỏn vẹn (!) Dù trong thâm tâm những brokers trên biết rằng mình không có câu trả lời, song họ không thể nào đáp lại “Tôi không biết!” với những vị khách hàng đang “hung hãn” được. Oái oăm hơn, nghe kể chuyện từ một vài các chuyên gia làm việc ở các quỹ đầu tư, có cả các quỹ nước ngoài quản lý tối thiểu hàng trăm triệu USD, chúng tôi thấy nực cười (ridiculous) ra sao khi vị trưởng quản lý danh mục đầu tư thường xuyên yêu cầu các chuyên viên phân tích nhỏ nhoi của mình phải giải thích “Tại sao VNIndex giảm hơn 20% từ đỉnh 1,200 điểm?”, “Tại sao cổ phiếu các anh chọn không tăng nổi 3 tháng qua?”, “Tại sao phiên hôm qua thị trường lại giảm 50 điểm??” (?!) Họ không nhận ra được các giới hạn của bản thân mình, họ tự tin quá mức rằng mình có thể kiểm soát mọi thứ, để rồi khi nó đi ngược lại với nhận định của họ, họ trở nên chua cay, phí phạm thời gian vào những vấn đề không thực sự cần thiết. Ở một nơi khác, những nhà đầu tư giá trị mà biết vòng tròn giới hạn của bản thân, sẽ vô cùng thoải mái và kiên nhẫn trước mọi biến động của thị trường. Anh ta tập trung vào những gì anh ta có thể kiểm soát: bao gồm hoạt động kinh doanh và giá trị thực của doanh nghiệp. Từ đó, anh ta nhận ra các xu hướng dài hạn (patterns) mà ít người nhìn thấy, âu cũng vì những kẻ khác đang bận rộn giải thích những thứ hoàn toàn nằm ngoài khả năng của họ. III. Kết luận: Hiểu bản thân, đặt câu hỏi đúngBài viết kỳ nầy dù chúng tôi biết sẽ làm nhiều người phật lòng, phẫn nộ, song chúng tôi tin rằng nó lại mang tính “cách mạng”, thay đổi toàn bộ các thói quen vô nghĩa của chúng ta trên thị trường. Thay vì đặt các câu hỏi thiếu suy nghĩ như trước, ta cần hiểu rõ động lực ngắn hạn/dài hạn của giá cổ phiếu, biết rõ giới hạn của bản thân và của người khác, từ đó tiếp cận thị trường đúng đắn hơn. Tự vấn bản thân:
4. Đọc hiểu BCTCNhận diện các thủ thuật kế toán (financial shenanigans) – Kỳ 3Nhận diện thủ thuật kế toán là một trong những chủ đề mà rất nhiều quý độc giả quan tâm từ những ngày đầu tiên. Sau khi giải đáp nhiều vấn đề từ các kỳ đọc hiểu BCTC trước như trung bình lợi nhuận, ROIC, cổ tức/phát hành/ESOP, nay chúng tôi mới có dịp quay lại với chủ để vừa phức tạp, lại vô cùng thú vị nầy... Trích dẫn, lược dịch quyển “Financial Shenanigans”, 2010, của ngài Howard Schilit và bổ sung thêm từ kinh nghiệm đầu tư của riêng chúng tôi Kỳ nội dung Loại gian lận kế toán Kỳ 3 Thao túng lợi nhuận (earnings manipulation): Thuật đẩy lùi chi phí hiện tại sang tương lai, sử dụng nhiều kĩ thuật khác nhau để giấu lỗ hoặc giấu chi phí lớn Kỳ 3: Thao túng lợi nhuận bằng các thuật giấu chi phíTiếp nối kỳ 2 , chúng tôi xin mạn phép nhắc lại rằng: về bản chất, có 2 cách mà ban lãnh đạo công ty có thể thao túng tăng lợi nhuận nhằm đánh lừa cổ đông/nhà đầu tư tiềm năng để trục lợi dựa trên giá cổ phiếu hoặc các đợt phát hành: (1) Thổi phồng doanh thu (2) Giấu chi phí. Sau bài viết khá kỳ công ở kỳ 2 về ba thuật thổi phồng doanh thu trong ấn phẩm kỳ XXI trước, kỳ nầy chúng tôi lại đi vào một thuật nghe “khá ngược đời” của các doanh nghiệp niêm yết lừa lọc: đó chính là việc thao túng lợi nhuận bằng thuật giấu chi phí. Thoạt nhìn, nếu quý độc giả từng làm doanh nghiệp, ắt sẽ thấy khá vô lý rằng tại sao ta phải khai giảm chi phí - để đóng thuế nhiều hơn à, hay chi vậy? Song, đối với những gã CEO chuẩn bị phát hành lượng lớn cổ phiếu thu tiền mặt về, neo giá cổ phiếu để giữ số cổ phiếu đã thế chấp (repo), “bán chui” cổ phiếu cá nhân nắm giữ lên sàn, hoặc đơn thuần chỉ được tưởng thưởng lớn dựa trên kết quả kinh doanh vượt kế hoạch, thì họ có tất cả lý do trên thế giới nầy để cố gắng “làm đẹp” lợi nhuận công ty trước mặt vô vàn các cổ đông ngây thơ... Vì vậy, theo ngài chuyên gia về kế toán và thủ thuật gian lận Howard Schilit, có 2 loại thủ thuật giấu chi phí chính mà ông đúc kết được từ 30 năm kinh nghiệm làm kế toán, kiểm toán của mình: (1) đẩy lùi chi phí hiện tại sang tương lai bằng nhiều cách (2) dùng nhiều kĩ thuật khác nhau để giấu lỗ, không dự phòng, giấu chi phí bất thường lớn. 3. Đẩy lùi chi phí hiện tại sang tương laiTrên lý thuyết, cách phổ biến nhất mà các chủ doanh nghiệp ma mãnh có thể dùng để đẩy lùi tác động của chi phí hiện tại sang tương lai, là việc vốn hóa (expenses capitalization) các chi phí sản xuất, chi phí hoạt động, chi phí lãi vay, v vào tài sản cố định, sau đó khấu hao các tài sản trong khoảng thời gian rất dài so với thực tế. Về chủ đề vốn hóa chi phí, theo nguyên tắc kế toán, các chi phí giúp doanh nghiệp tạo ra lợi ích trên 1 năm có thể được vốn hóa thành tài sản và phân bổ dần trong từng kỳ. Chúng ta thường thấy khoản mục chi phí trả trước dài hạn (long-term prepayment) là một ví dụ cụ thể, phản ánh tiền thuê đất kinh doanh trả trước nhiều năm hoặc các tài sản công cụ dụng cụ dài hạn khác. Thay vì ghi nhận một khoản chi phí trả trước 10 năm lớn một lần (có thể gây LNST âm), kế toán công ty được quyền hạch toán thành một tài sản và phân bổ dần đều trong 10 năm đó, phản ánh đúng bản chất kinh doanh của nghiệp vụ. Ngoài ra, tại Hoa Kỳ, các chi phí phục vụ mục tiêu công ty lâu dài như nghiên cứu phát triển (R&D) hoặc mua lại bản quyền (patents) đôi khi cũng được vốn hóa thành tài sản và phân bổ dần. Ấy vậy mà những vị kế toán trưởng đôi khi có sức sáng tạo khó ngờ: họ vốn hóa cả chi phí quảng cáo, khuyến mãi vào tài sản cố định – cho rằng các phương thức nầy có thể đem lại tập khách hàng dài hạn trong hơn 2 0 - 30 năm (!) Số khác, đặc biệt là các công ty nông nghiệp, vốn hóa các chi phí chăm sóc vườn cây, thức ăn cho đàn chăn nuôi hằng năm vào tài sản cố định rồi khấu hao nó 15-20 năm sau, trong khi đây là chi phí bắt buộc phải chi ra mỗi năm – nếu họ dừng chi 1 năm, tất cả vườn cây và đàn chăn nuôi sẽ chết. Đỉnh điểm trong những ví dụ đó, có công ty còn vốn hóa cả chi phí tiếp khách, chi phí tiệc tùng, du lịch của công ty vào tài sản rồi khấu hao dần, cho rằng những hoạt động như thế giúp gia tăng “tinh thần đội nhóm” (morale), qua đó thúc đẩy động lực phát triển kinh doanh nhiều năm sau (?) Ngân hàng (số liệu kiểm toán 2018) Cam kết GD L/C(i) Cam kết GD ngoại hối Bảo lãnh vay vốn Bảo lãnh, cam kết khác(ii) Tổng nợ tiềm ẩn ngoại bảng (ngoài L/C và ngoại hối) Vốn chủ sở hữu Nợ tiềm ẩn/VCSH BID 61,900 tỷ 6,000 tỷ 4,700 tỷ 144,700 tỷ 149,400 tỷ 51,500 tỷ 290% CTG 52,900 tỷ 167,300 tỷ 3,000 tỷ 95,000 tỷ 98,000 tỷ 67,200 tỷ 146% MBB 24,600 tỷ 124,700 tỷ - 91,500 tỷ 91,500 tỷ 32,600 tỷ 281% SHB 14,100 tỷ 32,200 tỷ - 49,500 tỷ 49,500 tỷ 16,300 tỷ 304% OCB 900 tỷ 27,300 tỷ 100 tỷ 7,100 tỷ 7,100 tỷ 8,800 tỷ 81% (i) Các cam kết giao dịch L/C có độ rủi ro thấp nhất (ii) Bảo lãnh khác, cam kết khác là những khoản ngoại bảng không thể xác định được Ra ngoài khỏi lĩnh vực ngân hàng, nếu quý độc giả đã từng đầu tư lâu năm ắt sẽ nhớ nhiều CTCK nhỏ (chẳng hạn như APS, PSI – sàn HNX) sau giai đoạn bong bóng cổ phiếu OTC 2006 – 2008 đã bị chìm sâu trong các khoản đầu tư OTC chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, mờ ám, nhiều khả năng mất vốn. Ấy vậy mà nhiều năm sau đến tận bây giờ, các công ty nầy vẫn tránh việc trích lập dự phòng, vin vào cớ là không có cơ sở giá thị trường để hạch toán (!) Tương tự, nhiều công ty con thuộc họ Sông Đà, Vinaconex, PVN hoặc VNSteel sở hữu chéo lẫn nhau qua các công ty thuộc tập đoàn chưa niêm yết, dù thua lỗ nghiêm trọng nhưng vẫn trốn tránh việc trích lập dự phòng tất yếu. (i) Case HVN chúng tôi dùng mức % trích lập của ĐHCĐ 2018 (ii) Case PNJ chúng tôi chưa tính tác động của ESOP và các khoản thưởng khác Cuối cùng, theo quan sát nhiều năm của chúng tôi, khá nhiều công ty có đặc tính thâm dụng lao động (labour- intensive) thường giấu chi phí lương, thưởng nhân viên xuống dưới mục lợi nhuận ròng, thông qua các khoản khen thưởng phúc lợi trích từ LNST cuối năm mà ít người để ý đến (!) Như vậy, nhân viên và ban giám đốc vừa được vui vẻ, cổ đông lại vừa bị một màn “ảo thuật” qua mắt: chuyển chi phí từ trên xuống dưới, khiến họ ngỡ rằng LNST của công ty tăng cao, song sau khi trích quỹ khen thưởng/phúc lợi (bonus & welfare), thứ lợi nhuận cuối cùng cổ đông nhận về chẳng còn bao nhiêu, nhiều trường hợp còn giảm một cách cay đắng. Bảng biểu phía trên là một số ví dụ điển hình... 3. Tóm tắt một vài cách để nhận ra dấu hiệu của thuật “giấu chi phí”Tóm lại, sau khi phân tích khá nhiều các ví dụ thực tiễn như trên, chúng tôi muốn đúc kết lại đôi lời về cách chúng ta có thể bảo vệ mình trước các thuật “giấu chi phí” của những công ty ma mãnh:
5. Chuyển động tin tức14/03/2019 – 07 /05/ Mùa đại hội cổ đông xuyên suốt, ngày càng chuyên nghiệp hơn, song vấn đề cố hữu về lợi ích của cổ đông thiểu số vẫn chưa được đáp ứng,,, 04/05/ Ngài Buffett tổ chức ĐHCĐ thường niên Berkshire Hathaway 2019 khi ông đã gần 90 tuổi. Vài đúc kết từ chúng tôi... 1> Đầu tư giá trị, Amazon & Google 04/05/ 2> Rất nhiều công ty Buffett sở hữu dần bị lạc hậu trong thời đại 4 3> Kinh nghiệm quản lý quỹ hợp danh của ông thời trẻ 4 > Trì hoãn ham muốn không phải là cách tối ưu để giàu có Phải thú rằng mức độ chuyên nghiệp và cởi mở của ban lãnh đạo trong các ĐHCĐ 2019 đã cao hơn đáng kể, song, đâu đó vẫn còn nhiều bất cập: - Chúng tôi thấy khá trớ trêu khi rất nhiều cổ đông lớn tuổi yêu cầu cổ tức tiền mặt từ các ngân hàng như một “điệp khúc không bao giờ dứt”. Họ không hiểu rằng khi đầu tư vào ngân hàng, họ không thể trông chờ vào cổ tức âu vì các NH cần phải tăng trưởng (scale up) liên tục. Điều họ cần nhìn là book value, chính sách dự phòng nợ xấu và chất lượng tăng trưởng của NH. Nếu họ muốn cổ tức, có rất nhiều công ty SX-DV, Tiện ích, BĐS tạo ra dòng tiền tuyệt vời để chia cổ tức mỗi năm... - Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty thanh khoản thấp, ít đối trọng, vẫn còn khá nhiều trường hợp bỏ lơ câu hỏi cổ đông nhỏ, rất thiếu tôn trọng luật pháp (!) Ngược lại, trong nhóm VN30, chúng tôi khá ngạc nhiên khi BLĐ ngày càng tôn trọng cổ đông nhỏ - song những câu hỏi quan trọng của giới phân tích, quỹ đầu tư thì họ vẫn còn gợi ý dời lại vào những “buổi họp riêng” – tương đối không công bằng. Do đó, những dự án “đang chết yểu” như Cộng đồng NĐT nhỏ lẻ & Ủy ban bảo vệ NĐT cá nhân vẫn rất cần thiết trong thập niên 2020s tới... 1> Nhiều cổ đông chỉ trích ngài Buffett, họ cho rằng ông đã đi quá xa khỏi triết lý đầu tư giá trị khi mua Apple, giờ là Amazon... Chúng tôi lại không cho như vậy (!) Như nhiều lần chúng tôi giải thích, triết lý đầu tư giá trị là việc mua một công ty với giá cả < giá trị thực, nắm giữ kiên nhẫn và kiểm soát tâm lý, bất chấp doanh nghiệp thuộc lĩnh vực gì. Họ cần phải nhận ra rằng môi trường kinh doanh hiện nay đã khác xa với thế kỷ trước: nơi những công ty công nghệ với lượng tài sản vô hình khổng lồ chiếm chủ đạo nền kinh tế, mà ta không chỉ đọc BCTC là ra được... Những công ty như Amazon, Google, Facebook nắm giữ tập dữ liệu khách hàng hàng tỷ người, hệ sinh thái ngày càng mở rộng đến mọi mặt cuộc sống (Youtube, Gmap, Ecommerce, Social Network, Alexa AI, Amazon Web Services, Streaming, Cloud) tạo ra dòng tiền CFO non 20 - 30 tỷ USD mỗi năm (!) Dù rằng các công ty nầy đã tăng hơn 20- 30 lần, chúng tôi tin rằng chúng sẽ ngày càng mạnh hơn (stronger) khi tiếp tục đầu tư mở rộng hệ sinh thái và kiểm soát độc quyền các dữ liệu người dùng của mình. Chính ngài Buffett từng quảng cáo Google Ads rất thành công cho GEICO, song ông lại không mua cổ phiếu. Ông tự cho mình là “hạng ngu ngốc” là vì vậy... 2> Tương tự như Việt Nam, rất nhiều công ty FMCG, bán lẻ, báo chí giấy mà ngài Buffett sở hữu như Kraft Foods, Macy’s, Nebraska Furniture, các tờ báo địa phương đang dần bị thu hẹp do xu hướng mua sắm online, ưa thích sản phẩm organic, tốt cho sức khỏe đang dần thịnh hành. Ông thừa nhận sự suy giảm tất yếu và đang nỗ lực để cải tổ. 3> Một NĐT trẻ hỏi ông xem khi nào có thể bắt đầu “quản lý tiền cho người khác”. Ngạc nhiên thay, ngài Buffett khiêm tốn kể rằng hồi ông 26 tuổi (ấn phẩm XXI), ông cũng lo lắng hệt như anh trẻ tuổi nầy, song ông vẫn rất nguyên tắc: ông chỉ mời 7 người trong gia đình-bạn bè, người mà ông biết chắc sẽ không chỉ trích ông khi giá cổ phiếu xuống trong ngắn hạn rất vô lý (như bài Ngược chiều trên). Ông khuyên rằng anh bạn nầy cứ bắt đầu nhỏ thôi, và hãy chọn đối tác thật kĩ: “những người mà sẽ chung con thuyền với cậu lâu dài!” 4> Một thiếu niên trẻ tuổi hỏi rằng liệu bí quyết thành công của ngài Buffett và Munger có phải là “trì hoãn sự ham muốn” lại? Ông trả lời thực rằng không phải như vậy: nếu ông tiết kiệm, và quăng nó vào Trái phiếu Chính phủ Mỹ 30Y, thì bây giờ ông sẽ nghèo khó (!) Ông cho rằng tiết kiệm là nên, nhưng cần dùng tiền đó để đầu tư, kinh doanh hoặc dành cho gia đình đúng mực... 20/03/2019 – 02/05/ Điện lực EVN tăng giá trung bình 8%, nhưng lại lũy tiến theo bậc thang, gây cơn sốt phẫn nộ... Cần phải đẩy nhanh quá trình tự do hóa TT điện bán lẻ cạnh tranh và giảm chi phí tại EVN! 10/04/2019 – 07/05/ Công nghệ và xu hướng mới trên thế giới: 1> Chủ tịch SoftBank Masayoshi Son gần như “không thể cản nổi” với danh mục đầu tư cho 100 năm sau của ông 2> Imbellus Inc. khởi động cuộc “cách mạng thi cử tương tác”, minh bạch 10/04/2019 – 07/05/ 3> Thị trường thể thao game điện tử (esports) tưởng chừng vô bổ song đang phát triển với tốc độ kinh ngạc 4> Pinterest và Zoom thực hiện IPO, hai “kỳ lân tỷ đô” tiếp theo sau Lyft và Uber Sở dĩ người tiêu dùng chứng kiến mức tăng 50%-100% kể từ khi EVN tăng giá điện cuối tháng 03/2019, là bởi vì 3 nguyên nhân: (1) Hầu hết các hộ đô thị đều sử dụng điện trên 300 KwH/tháng, và đây là bậc thang có mức tăng cao nhất (2) Thời tiết nắng nóng (3) Thất thoát truyền tải. Việc tăng giá điện nầy không chỉ làm giảm thu nhập khả dụng của dân cư, mà còn có nguy cơ chuyển vào đầu ra, gây suy thoái (!) Tất cả sự rủi nầy, âu cũng vì EVN độc quyền bán lẻ, và có bảng cân đối quá rủi ro (link), nếu như Chính phủ có cách nào đó giảm lượng nợ vay khổng 400 nghìn tỷ, và chi phí SG&A hơn 8 nghìn tỷ/năm khá vô lý, rồi nhanh chóng tự do hóa thị trường, thì có lẽ người dân sẽ được nhờ biết bao nhiêu... 1> Khởi nghiệp bán phần mềm với SoftBank rồi tham gia viễn thông, M - tỷ phú có tầm nhìn phi thường - chuyển hướng sang đầu tư mạo hiểm (nổi bật nhất deal Alibaba), với quỹ Vision Fund trị giá 100 tỷ USD. Ông tự hào nói rằng danh mục đầu tư của mình sẽ thay đổi cả TG trong 100 năm sau, bao gồm những ông lớn công nghệ, kinh tế chia sẻ đình đám như Uber, NVIDIA, WeWork, Flipkart, PingAn, OYO, Slack, Grab, v 2> Trước scandal mua điểm đình đám của 50 người nổi tiếng tại Hoa Kỳ (Việt Nam cũng tương tự), startup Imbellus Inc. đang muốn phá vỡ thế độc quyền của 2 tổ chức SAT và ACT khi yêu cầu thí sinh phải chơi 1 trò video game để test khả năng tư duy rất minh bạch, thú vị. 3> Ngoài đặc tính gây nghiện, khuyến khích cá cược và chi phí rẻ hơn so với các hoạt động giải trí ở đô thị khác, thị trường nầy được kỳ vọng tăng trưởng 15%-20% CAGR trong thập niên tới, đặc biệt ở Trung Quốc, Hàn Quốc & Đông Nam Á. Dù không đồng tình tác động xã hội một cách cá nhân, song giống như các trò “Đấu trường La Mã” ngày xưa vậy, chúng tôi nghĩ rằng rất khó để cản xã hội tìm đến những trò giải trí mất thời gian, nghiện ngập... 4> Sau thương vụ IPO của dịch vụ gọi xe Lyft ($17 tỷ), Uber ngày 10/05 sắp tới ($91 tỷ), NĐT toàn cầu còn được đón chào thêm các hãng ít thua lỗ như Pinterest ($12 tỷ) và Zoom ($9 tỷ). Sau đó, sẽ tiếp tục là những cái tên đình đám khác như Airbnb, Slack, Cloudfare. |