Cuộc binh biến Đô Lương Đô ai chỉ huy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Binh biến Đô Lương hay binh biến Rạng Lường xảy ra ngày 13 tháng 1 năm 1941, là cuộc nổi dậy chống lại thực dân Pháp của những binh lính người Việt bị Pháp bắt lính tại đồn Đô Lương, Nghệ An.

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

Phong trào Cách mạng dâng cao của quần chúng đã ảnh hưởng đến tinh thần của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại Nghệ An, binh lính rất bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho Pháp trong chiến tranh Pháp - Thái Lan.

Ngày ngày 13 tháng 1 năm 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ôtô kéo về Vinh, định phối hợp cùng binh lính người Việt ở đây tấn công quân Pháp để chiếm thành. Kế hoạch không thành. Đội Cung bị Pháp bắt. Mặc dù bị tra tấn rất dã man, trước sau ông vẫn nhất định không khai và nhận hết trách nhiệm về mình. Quân Pháp đã xử tử Đội Cung cùng với 10 đồng chí của ông tại Vinh ngày 24/4/1941. Nhiều người khác bị kết án khổ sai và đưa đi đày.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lương Ninh 2000, Chương XV – Cuộc vận động giành độc lập, tự do (Việt Nam 1930-1945) trong cuốn Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr.478-484.

Từ đầu năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng lan rộng và có ảnh hưởng đến tinh thần các binh lính người Việt trong quân đội Pháp.

Tại Nghệ An, binh lính rất bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho thực dân Pháp trong cuộc chiến với Thái Lan nên đã hình thành nên sự phản kháng trong hàng ngũ của một số tầng lớp binh lính, trong đó nổi bật nhất là binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương - Nghệ An).

Cuộc binh biến Đô Lương Đô ai chỉ huy

Nguyễn Văn Cung (Đội Cung)- người lãnh đạo cuộc binh biến Đô Lương,
ngày 13-1-1941 (Nguồn: Internet).

Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa này là ông Nguyễn Văn Cung, quê gốc ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, là một viên đội khố xanh (nên thường gọi là ông Đội Cung). Là người Hà Tĩnh (vốn là họ Trần), nhưng ông được người cậu ruột, quê ở huyện Đông Sơn, Thanh Hóa nhận làm con nuôi và đưa về quê ngoại, nên ông lấy theo họ bên ngoại là Nguyễn Văn Cung.

Năm 1926, Nguyễn Văn Cung bị bắt đi lính khố xanh, đóng ở đồn Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1930-1931, để đàn áp cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh đang lan tràn khắp nơi, đơn vị Nguyễn Văn Cung được điều từ Thanh Hóa về đóng ở đồn Kim Nhan, huyện Anh Sơn. Sau phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Đội Cung được điều về đóng ở Vinh để bảo vệ nội thành của thực dân Pháp và bọn tay sai phong kiến Nam triều. Đội Cung sống cương trực, chân thành, hay bênh vực đồng đội và những người gặp khó khăn, hoạn nạn nên rất được anh em kính nể.

Ngày 8-1-1941, thời cơ đã đến, đó là lúc Nguyễn Văn Cung được cất nhắc làm đội trưởng thay cho viên đồn trưởng người Pháp là Alôngdô, đang đóng ở đồn Chợ Rạng thuộc địa phận huyện Thanh Chương, có trách nhiệm kiểm soát cả hai huyện Thanh Chương và Đô Lương. Sau khi nhậm chức được 5 ngày, Nguyễn Văn Cung đã chớp lấy thời cơ, kéo quân lên Đô Lương kiểm tra và ông tuyên bố khởi nghĩa.

Cuộc binh biến Đô Lương Đô ai chỉ huy

Nơi đóng quân của Đội Cung tại Chợ Rạng, Thanh Chương, Nghệ An.
(Nguồn: Internet).

Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 13-1-1941, Nguyễn Văn Cung và binh sĩ đến phủ Anh Sơn (thị trấn huyện Đô Lương bấy giờ). Sau khi cho anh em ăn tối xong, Đội Cung tập hợp binh sĩ tại sân Chùa. Nội dung và lý do cuộc khởi nghĩa được Đội Cung chuẩn bị từ trước, ghi vào một tờ giấy để trong túi áo ngực, khi tập hợp đông đủ anh em, ông mới rút tờ giấy ra đọc, tuyên bố khởi nghĩa và giao nhiệm vụ cho binh sĩ. Nghĩa binh sẽ giết tên Bạch, đồn trưởng Đô Lương, sau đó lên ô tô kéo về thành Vinh giết bọn thực dân Pháp, gồm những tay khét tiếng tàn ác, nắm những cương vị chủ chốt như: Thanh tra, Công sứ, Phó sứ …

Tại Đô Lương, Đội Cung đã cho cắt tất cả đường dây liên lạc ở bưu điện, phá máy điện thoại, điện báo rồi chia thành hai nhóm. Nhóm 1 do Đội Cung chỉ huy đi giết tên đồn trưởng Bạch. Nhóm 2 chịu trách nhiệm giết tên đồn trưởng là Rôsai, sau đó vào phủ đường giết tên tri phủ.

Đội Cung trở về đồn Rạng để giết tên đồn kiểm lâm người Pháp là Lôđagia, sau đó cho 25 binh sĩ về Vinh, lấy ô tô của tên đồn trưởng kiểm lâm cùng hai ô tô tư nhân kéo quân về Vinh. Khi đi qua cầu Cấm, ông ra lệnh cho binh sĩ cắt tất cả dây điện thoại bắc qua cầu và thu nạp thêm 5 binh lính ở đây lên ô tô cùng đi, với mục đích về giải phóng thành Vinh.

Cuộc binh biến Đô Lương Đô ai chỉ huy

Lược đồ cuộc binh biến Đô Lương năm 1941. (Nguồn: Internet).

Binh sĩ đến Vinh vào lúc 4 giờ ngày 14-1-1941, nghĩa quân tập hợp trước cửa Trường Quốc học Vinh. Đội Cung phân công các mũi tiến quân: Cai Vị dẫn lính ra phía sau thành chờ. Còn Đội Cung và Cai Á dùng ô tô tiến thẳng vào thành. Đội Cung nói với trạm trưởng trực ban, xin vào gặp giám binh Derioux để báo cáo về sự việc, hai đồn Chợ Rạng và Đô Lương đã bị cộng sản cướp. Người thường trực cho ông vào gặp và giữ Cai Á ở lại.

Vì thông thạo đường đi lối lại nên Đội Cung đã đi thẳng vào phòng ngủ, đánh thức anh em binh sĩ dậy, báo tin là lực lượng của ông đã vây thành. Ông kêu gọi anh em binh sĩ giết tên giám binh ở phía trong. Công việc đang tiến hành thì ở phía ngoài có tiếng súng làm cho tên Derioux tỉnh dậy khi Đội Cung chưa kịp hành động.

Thấy tình hình bất lợi, Đội Cung vượt tường thành ra bên ngoài. Phía sau Cai Vị thấy động bèn dẫn binh sĩ trốn vào chùa Diệc. Thực dân Pháp điều lính Âu Phi và tung mật thám lùng sục khắp nơi nội, ngoại thành Vinh và chúng đã bắt được toàn bộ binh sĩ. Riêng Cai Á, sau khi bị bắt ông không chịu khuất phục, không chịu khai báo, ông tự sát để giữ tròn khí tiết và tấm lòng yêu nước của một người lính phản kháng.

Còn Đội Cung, sau khi vượt thành trốn thoát, ông ẩn náu ở hang núi được gần một tháng. Ngày 11-2-1941, ông quay lại khu vực ngoại thành để nắm tình hình. Do có kẻ phản bội nên ông đã bị bắt khi vừa vào nhà Tống Gia Liêm, khu vực Cổng Chốt.

Ngày 20-2-1941, tại Hà Nội, thực dân Pháp đã mở Tòa án binh xét xử những binh lính tham gia cuộc binh biến Đô Lương. Đội Cung và 10 đồng chí của ông bị kết án tử hình, 12 người bị kết án chung thân, hai người bị xử 20 năm tù khổ sai, bảy án 15 năm tù, một án 12 năm tù…

Ngày 25-4-1941, thực dân Pháp thi hành án tử hình Đội Cung và các nghĩa binh tại 3 địa điểm: Vinh, Chợ Rạng và Đô Lương.

Cuộc binh biến Đô Lương là hành động yêu nước của binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp. Tuy nhiên, cũng giống như cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, cuộc binh biến Đô Lương nổ ra vào lúc kẻ thù còn mạnh, lực lượng khởi nghĩa chưa được tổ chức và chuẩn bị kỹ lưỡng nên đều thất bại. Tuy vậy, các sự kiện oanh liệt đó đã “gây ảnh hưởng rộng lớn trong toàn quốc”, nêu cao tinh thần anh hùng bất khuất của nhân dân ta, giáng đòn chí tử vào thực dân Pháp, cảnh cáo phát xít Nhật vừa mới đặt chân vào nước ta. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho một cuộc khởi nghĩa toàn quốc sau này, là bước đấu tranh bằng vũ trang của các dân tộc Đông Dương.

Phương Anh (tổng hợp)


Nguồn:

- Lương Ninh, “Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1941)”, Lịch sử Việt Nam giản yếu, H. Chính trị quốc gia, tr.478-484.

- Đinh Xuân Lâm, “Nguyễn Văn Cung (Đội Cung)”, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, H. Giáo dục, 2005, tr. 85.