Đa phương hóa quan hệ đối ngoại là gì

Chủ nghĩa đa phương thể hiện hình thức hợp tác rộng và sâu giữa các quốc gia, dựa trên các giá trị gắn kết cốt lõi là sự công bằng, hợp tác tập thể và tác động qua lại mang tính tương hỗ. Chủ nghĩa đa phương là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống quốc tế và ngoại giao đương đại.

Tuy nhiên, cục diện thế giới từ nay đến năm 2030 sẽ chứng kiến nhiều biến động nhanh và phức tạp. Sự dịch chuyển quyền lực và cạnh tranh nước lớn, xu hướng chính trị cường quyền, xu thế dân chủ hóa và đa cực hóa đời sống quốc tế, sự nổi lên của các thách thức an ninh phi truyền thống và các nỗ lực đổi mới hoạt động của 1 số diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra nhiều thách thức và cơ hội cho các cơ chế hợp tác, đối ngoại đa phương nói chung và Việt Nam với tư cách thành viên nói riêng.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam luôn chủ trương chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế và chủ động, tích cực hơn trong các cơ chế đa phương đã giúp Việt Nam “tái định vị”, bổ sung hoặc hình thành những bản sắc quốc gia mới trong mối quan hệ quốc tế.

Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu khi tìm hiểu về chủ nghĩa đa phương thế giới và đối ngoại đa phương Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Chủ nghĩa đa phương trên thế giới và đối ngoại đa phương của Việt Nam.

Thông qua 5 chương nội dung, cuốn sách đã trình bày một bức tranh tổng thể về sự phát triển của cục diện thế giới và khu vực đến năm 2030; xu hướng vận động của các tổ chức và cơ chế đa phương trong cục diện đó. Đồng thời, đi sâu tìm hiểu ngoại giao đa phương của một số quốc gia đại diện cho các nhóm nước lớn, vừa và nhỏ để làm cơ sở thực tiễn, bàn về đối ngoại đa phương của Việt Nam như thực trạng, xu thế, chiều hướng phát triển của các cơ chế, tổ chức đa phương quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia trong thời gian tới.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên trường quốc tế. Để có được những thành tựu như vậy, một phần không nhỏ là do đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng về việc đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập quốc tế và khu vực. Để làm rõ hơn về vấn đề trên, bài làm của em xin được tìm hiểu về đề tài: “Chủ trương của Đảng về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”.

NỘI DUNG

I.CÁC KHÁI NIỆM

Để hiểu rõ hơn về đề tài này trước hết ta cần nắm rõ các khái niệm được nêu ra.

Thứ nhất, đối ngoại là tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia.

Thứ hai, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là làm cho hoạt động đối ngoại trở nên đa dạng hơn, quan hệ trên nhiều mặt, nhiều phương diện về kinh tế chính trịxã hội.

Thứ ba, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại là việc thực hiện đối ngoại với nhiều bên cùng một lúc, nói cách khác là quan hệ đối ngoại có sự thỏa thuận hay tham gia của nhiều bên.

Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại có vai trò rất quan trọng nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi, thân thiện và mở rộng để đẩy mạnh kinh tế xã hội, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc.

II.CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐA PHƯƠNG HÓA, ĐA DẠNG HÓA CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI.

1.Cơ sở hình thành chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng.

Trong bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa…,từ giữa những năm 1980, các chủ thể trong quan hệ quốc tế cũng như các chủ thể trong mỗi quốc gia đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.

Nhận thấy những cơ hội từ xu thế này nên quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đã được Đảng, Nhà nước ta đưa ra từ rất sớm. Nó được thể hiện trước hết  trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực… Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc”. Qua các kỳ Đại hội của Đảng, từ Đại hội VI đến nay đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới được hình thành và dần hoàn chỉnh với một quan điểm luôn được nhấn mạnh: đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế, hội nhập khu vực và quốc tế một cách chủ động và tích cực.

  1. Các giai đoạn hình thành và phát triển chủ trương, đường lối :
  2. Giai đoạn 1986-1996 : Đây là giai đoạn Đảng xác lập đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ quốc tế.

Trong Đại hội VI [12-1986], Đảng đã nhận định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.” . Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới cũng đã chỉ ra: “Mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là củng cố giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế…Kiên quyết mở rộng hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.”

Đại hội VII của Đảng [6-1991] chủ trương: “Mở rộng, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi”, “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, “Gắn với thị trường trong nước với thị trường thế giới”. Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương khóa VII cụ thể: Đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ quốc tế là mở rộng cửa để thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, tài nguyên, môi trường; Hạn chế thấp nhất các tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì của Đại hội VII : Triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ đối ngoại.

  1. Giai đoạn 1996 đến nay : Giai đoạn bổ sung và phát triển dường lối đối ngoại theo phương châm: chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại hội lần thứ VIII [6-1996] khẳng định: Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và quốc tế. Quan điểm đối ngoại với các đối tác là : Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tê thế giới; tham gia tích cực đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế. Hội nghị lần thứ 4 khóa VIII chỉ rõ: Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; Tiến hành khẩn trương việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mĩ, gia nhập APEC và WTO. So với Đại hội VII thì đại hội VIII có nhiều điểm tích cực hơn: Chủ trương mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác; Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; lần đầu tiên Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới đầu tư nước ngoài.

Đại hội IX [4-2001] đã khẳng định: Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh nẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng động quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đại hội IX xác định rõ hơn các nguyên tắc trong đường lối đối ngoại.Về thực tiễn, việc xây dựng quan hệ đối tác, là sự “nâng cấp các quan hệ song phương…Trong đó đặc biệt chuyển mối quan hệ với các nước lớn và các thể chế quốc tế từ bình thường hoá sang mối quan hệ ổn định, lâu dài và đi vào chiều sâu, vì lợi ích của cả hai bên” Do đó, chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX là một mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển về chất trong tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X [4-2006] đã đề ra các quan điểm, nhiệm vụ để “Mở rộng quan hệ đối ngoại tích cực và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế”. Báo cáo Chính trị của Đại hội X, khi trình bày con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã bổ sung thêm phương hướng “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. So với đường lối đối ngoại của Đại hội IX, Đảng nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần “chủ động” mà còn phải “tích cực”.Quan điểm chỉ đạo hoạt động đối ngoại là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế… khu vực”. Quan điểm nêu trên tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, đồng thời thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần chủ động và tích cực.

Đại hội XI[1-2011] đã có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, từ đó chỉ rõ: “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”. Về phương châm, các văn kiện của Đại hội khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đổi mới trong đường lối đối ngoại của Việt Nam được đưa ra tại đại hội XI là: Đánh dấu bước chuyển từ chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đến “chủ động tích cực hội nhập quốc tế”. Đại hội cũng khẳng định cần “triển khai đồng bộ toàn diện các hoạt động đối ngoại”. “phối hợp hoạt động đối ngoại của Đảng; ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, giữa đối ngoại với quốc phòng an ninh”.

  1. Nội dung đường lối đối ngoại, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ quốc tế.

Việc thực hiện chủ trương, đường lối về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của đảng nhằm đạt được những Mục tiêu, nhiệm vụ sau : Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công nghiệp đổi mới để phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dâm, nâng cao địa vị quốc gia trên chính trường quốc tế;  Kết hợp nội lực và ngoại lực để tạo ra nguồn lực tổng hợp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa; Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Để đạt được những mục tiêu ấy Đảng đã đưa ra Tư tưởng chỉ đạo như: Bào đảm lợi ích dân tộc đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc lập tự chủ tự cường đi đôi với đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế: tránh đối đầu nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp. Kết hợp đối ngoại của Đảng ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân….

Trong quá trình thực hiện đảng đã có Một số chủ trương, chính sách lớn như :

Thứ nhất, Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN. Kí hiệp định khung với liên minh Châu Âu. Bình thường quan hệ ngoại giao với Mỹ. Củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống

Thứ hai, nước ta đã Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Gia nhập ASEAN và tham gia AFTA. Tham gia Diễn đàn hợp tác Á- Âu [ASEAM] với tư cách là thành viên sáng lập. Trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương [APEC], gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

Thứ ba, Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính. Thực hiện đồng bộ cải cách hành chính với cải cách lập pháp, cải cách tư pháp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO. Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy sự hình thành phát triển từng bước hoàn thiện các loại thị trường.

Thứ tư,  Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm: Nâng cao năng lực về vốn của doanh nghiệp, Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, xây dựng chiến lược kinh doanh…

  1. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG NÀY CỦA ĐẢNG.

Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần nâng cao vị thế của nước ta. Thứ nhất : Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,các nước trong nhóm G8;  nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa. Thứ hai :Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN từ 1/1/1996. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu [ASEM] và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương [APEC]. Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới [WTO] vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện đường lối của Đảng còn tồn tại một số hạn chế. Một là, một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại. Hai là, các kế hoạch tổng thể và dài hạn chưa đáp ứng , cũng như chưa có lộ trình thực hiện hợp lí. Ba là,  đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đối ngoại chưa đáp ứng được nhu cầu về cả số lượng và chất lượng. Bốn là, Bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.

Từ những hạn chế nêu trên, em xin đưa ra một số giải pháp như : thứ nhất, chủ trương đường lối của Đảng cần được đổi mới sao để bắt kịp với yêu cầu của thị xã hội ; Thứ hai, cần có lộ trình hợp lí để thực hiện có hiệu quả các chính sách; Thứ ba, đội ngũ cán bộ cần không ngừng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu của công việc….

  1. KẾT LUẬN

Sau nhiều năm triển khai đường lối của Đảng về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu và dân đưa đất nước phát triển đi lên. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một sô hạn chế nhất định, do đó đảng và nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện để đường lối đem lại hiệu quả cao hơn.

Chủ Đề