Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Kinh tế Việt Nam năm 2023 đã đi qua được 3 quý phát triển. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có triển vọng tiêu cực, tăng trưởng toàn cầu giảm tốc do chính sách thắt chặt tiền tệ, cuộc chiến Nga – Ukraine và một số xung đột trên thế giới tiếp tục đè nặng lên các hoạt động kinh tế.

Năm 2023, phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh bất lợi cả từ bên ngoài (quốc tế, khu vực trên nhiều linh vực cả kinh tế, chính trị, quân sự) và bên trong (những khó khăn lớn của một nền kinh tế mở phụ thuộc bởi bên ngoài, mới trải qua giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19), có ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi cung ứng, giá cả, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe doạ.

Tuy vậy, Việt Nam đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế rất đáng trân trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP trong 9 tháng 2023 đạt 4,24%, và có xu hướng tăng dần theo thời gian, quý III đạt 5,33%, cao nhất so với quý I và II (tương ứng đạt 3,3%, 4,1%), cao hơn mức đạt được của Trung Quốc (Quý III là 5,2%), hàn Quốc (Quý III chỉ đạt 1,4%). Với đà tăng trưởng như vậy, dự báo cả năm tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt khoảng 5,8% năm 2023 (theo ADB dự báo tháng 9/2023), cao nhất khu vực Đông Nam Á (Philipines: 5,7%, Indonesia: 5,0%, Malaysia: 4,5%, Thái Lan: 3,5%...). Để có được thành quả đáng ghi nhận nói trên, phải khẳng định, ngành Nông-lâm- thủy sản luôn đóng vai trò “cứu cánh” đáng tin cậy trong mọi lúc khó khăn. Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm (VA) trong 9 tháng đạt tới 3,43%, cao nhất so với cùng kỳ kể từ 2011 đến nay và đóng góp 9,16% tăng trưởng chung, cao hơn mức Kế hoạch đặt ra đối với ngành nông nghiệp 2023 (3%). Trong bối cảnh khó khăn, ngoài việc cố gắng đạt mức tăng trưởng cao nhất có thể, kinh tế Việt Nam tiếp tục được duy trì ổn định các kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát và các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tình hình lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2023 tăng 3,16% so với cùng kỳ, ước cả năm tăng 3,5%, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Có được kết quả trên, thể hiện sự nỗ lực lớn của Chính phủ, Quốc hội trong việc chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chính sách tài khóa, tiền tệ, trong đó phải kể đến việc chỉ đạo giảm liên tiếp 04 lần lãi suất điều hành, chính sách miễn, giảm lãi suất, giãn, hoãn, cơ cấu lại nợ và thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, cùng với đó là tập trung chỉ đạo xử lý các ngân hàng yếu kém, các dự án, doanh nghiệp thua lỗ đã kéo dài nhiều năm; kịp thời chỉ đạo tháo gỡ những vấn đề phức tạp phát sinh.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Bên cạnh thành tựu đáng trân trọng nói trên, một số vấn đề được xem như bất cập cần được nhìn nhận để giải quyết, nhằm kỳ vọng vào kết quả tăng trưởng năm 2023 đạt mức cao nhất có thể :

Thứ nhất, mức tăng tưởng GDP 10 tháng qua là mức đạt được thấp nhất so với cùng kỳ từ năm 2011 trở lại đây, trừ 2 năm liên quan đến đại dịch Covid-19 (2020 và 2021), so với cùng kỳ năm trước (2022) con số 4,24% của năm 2023 chỉ bằng 50%.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng các năm (2011- 2023). Nguồn: Tổng cục Thống kê

Hình ảnh trên cho thấy, tăng trưởng chậm của ngành công nghiệp - xây dựng và và thương mại - dich vụ chính là yếu tố làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng chung toàn nền kinh tế. Ngành Công nghiệp chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 1,65%, rất thấp so với chỉ tiêu đặt ra của năm 2023 (9,5-10%), thấp hơn cả những năm đại dịch Covid-19, thậm chí thấp hơn cả tốc độ tăng trưởng nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng quá chậm của toàn ngành công nghiệp 9 tháng qua là do ngành công nghiệp chế biến chế tạo (là ngành đóng vai trò chủ lực của công nghiệp) cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm 9 tháng là 1,98%, chỉ bằng xấp xỉ 20% tốc độ tăng trưởng của năm 2022. Nhiều sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo có chỉ số IIP (chỉ số sản xuất công nghiệp) giảm, ví dụ, sản xuất xe có động cơ giảm 4,1% và các phương tiện vận tải khác giảm 7,3%; sản phẩm điện tử, máy tính giảm 1,8%, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 3,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 2,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa... giảm 2,5%. Ngành Thương mại – dịch vụ cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 6,32%, thấp nhất trong thời gian từ 2011 trở lại đây (trừ 2 năm đại dịch covid-19), trong đó giá trị trao đổi hàng hóa với thị trường quốc tế có tốc độ tăng trưởng âm. Tính chung 9 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước và nhiều khả năng năm 2023 là năm ghi nhận xuất khẩu tăng trưởng âm lần đầu tiên kể từ năm 2009 - năm chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng khoảng kinh tế - tài chính thế giới tương tự nhu vậy, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giảm 13,8%. Trong đó xuất nhập khẩu từ khu vực FDI giảm sút cao hơn (các số liệu tương ứng 9,1% và 14,9%). Các sản phẩm xuất chủ chủ lực có gắn với các doanh nghiệp FDI có xu hướng giảm sâu như: điện thoại và linh kiện, giầy dép, dệt may, đồ gỗ tiếp tục giảm sâu (giảm lần lượt 13,4%, 18,2%, 12,1%, 21,3%).

Kim ngạch nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất giảm khá mạnh (13,9%) cho thấy những khó khăn chung của hoạt động sản xuất, kinh doanh và phục hồi tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Những suy giảm tăng trưởng của ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ thể hiện rõ những khó khăn của Việt Nam, một đất nước có chỉ số phản ánh độ mở nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới trong bối cảnh thế giới có những biến đậu bất lợi và tình trạng đứt gãy các chuỗi giá trị toàn cầu do ảnh hưởng của Covid-19 chưa phục hồi được.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê quý III/2023, có tới xấp xỉ 70% doanh nghiệp ngành công thương cho rằng không có xu hướng kinh doanh tốt hơn so với các quý trước và 60% doanh nghiệp cho rằng sẽ không có xu hướng tốt hơn ở quý IV/2023 với những khó khăn nổi bất nhất là thiếu đơn hàng, chi phí tăng cao, cạnh tranh thị trường và phổ biến ở các ngành sản phẩm chủ lực: dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp ô tô, điện thoại, linh kiện điện tử... cả các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ hai, hiệu quả tăng trưởng thấp. Trước hết, phải nói đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho tăng trưởng thấp thể hiện trước hết ở suất đầu tư tăng trưởng lên quá cao. Theo ước tính 9 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành chiếm 31,1% GDP, trong khi đó tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng 2023 chỉ đạt 4,24% (bằng 48% cùng kỳ năm 2022), như vậy suất đầu tư tăng trưởng tính cho 9 tháng năm 2023 là 7,3, con số này cao gần gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2022 (suất đầu tư tăng trưởng đạt 3,5) và cao hơn so với nhiều năm trước đây nếu không kể 2 năm đại dịch covid-19 (bình quân thời kỳ 2016-2019, suất đầu tư tăng trưởng là 6,2). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp thể hiện thực hiện vốn đầu tư chưa đảm bảo cả ở vốn đầu tư công, vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI. Đối với khu vực công, mặc dù Quốc hội, Chính phủ đã liên tục có các chính sách tháo gỡ kích cầu vốn đầu tư công, tuy nhiên, tính hết 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư công thực hiện đạt 57,4% kế hoạch vốn 2023. Tuy nhiên, vẫn còn một khối lượng rất lớn khoảng 40% kế hoạch vốn 2023 cần thực hiện để đạt được mục tiêu tại Chỉ thị 08 đề ra thực hiện và giải ngân từ 95%-100% kế hoạch vốn năm 2023. Giải ngân vốn đầu tư công dù có cải thiện nhưng chưa có sự lan tỏa đối với đầu tư tư nhân, chưa thể hiện vai trò nòng cốt trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư khu vực ngoài Nhà nước chỉ tăng 2,3%.Việc sử dụng vốn đầu tư mở rộng phát triển kinh doanh khu vực ngoài nhà nước gặp nhiều khó khăm Một mặt, do xu hướng thắt chặt tiền tệ trên toàn cầu nên mặt bằng lãi suất còn khá cao đối với các doanh nghiệp có nhu cầu đi vay. Mặt khác, doanh nghiệp cũng đối diện những rào cản về mặt quy trình, thủ tục khác nhau khi vay vốn. Trong đó, điển hình nhất là doanh nghiệp cho biết không thể vay vốn nếu thiếu tài sản thế chấp, doanh nghiệp bị áp đặt các điều kiện tín dụng bất lợi, và thủ tục vay vốn quá phức tạp, phiền hà với các doanh nghiệp.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chỉ tăng khiêm tốn 2,2% so với cùng kỳ, giải ngân các Chương trình mục tiêu quốc gia đạt 46,77% kế hoạch bao gồm cả vốn năm 2022 được kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân sang năm 2023.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Hiệu quả sử dụng lao động thể hiện qua chỉ tiêu năng suất lao động xã hội đạt thấp. (ảnh minh họa)

Hiệu quả sử dụng lao động thể hiện qua chỉ tiêu năng suất lao động xã hội đạt thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm 2023, tính toán theo các số liệu lực lượng lao động của Tổng cục Thống 9 tháng năm 2023, năng suất lao động xã hội tính theo kết quả đạt được về GDP là 138,96 triệu đồng/lao động, so với mức năng suất lao động đạt được cùng kỳ năm 2022 tăng 4,5%. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động đạt kết quả thấp nhất từ năm 2016 đến nay (năng suất lao động đạt trung bình giai đoạn 2016-2022 là 6,5%/năm), thấp hơn cả 2 năm đại dịch covid-19 (đạt kết quả tăng trưởng năng suất lao động lần lượt là 5,4% và 4,71%).

Với mức tăng trưởng năng suất lao động trong 3 tháng đầu năm 2023 như trên sẽ rất khó để đạt được mục tiêu kế hoạch 2023 đề ra (5-6%) và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm vì thực tế, nếu giảm 1% tốc độ tăng năng suất lao động thì sẽ tác động giảm khoảng 0,94% tốc độ tăng GDP. Năng suất lao động thấp, một mặt do những khó khăn của các doanh nghiệp dẫn đến: Tính chung 10 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 81 nghìn doanh nghiệp, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước; 50,7 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 25,9%, bình quân một tháng có 15 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong khi số doanh nghiệp mới thành lập có xu hướng giảm về số vốn đăng ký và số lao động. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2023 giảm 1,9% so với cùng thời điểm năm trước. Doanh nghiệp đóng cửa là một lý do dẫn đến thất nghiệp của người lao động trở nên nhiều hơn. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/10/2023 giảm 1,4% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,9%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 2,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,9% so với cùng thời điểm này năm trước. Bên cạnh nguyên nhân nói riêng của năm 2023 như trên, năng suất lao động tăng trưởng thấp còn xuất phát từ nguyên nhân sẵn có mà chúng ta chưa giải quyết được, đó là chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu hụt lao động lành nghề có kỹ năng cao, chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý. Ngành nông nghiệp trong năm 2023 có đạt tăng trưởng cao do không bị ảnh hưởng nhiều bởi những khó khăn do môi trường quốc tế có nhiều biến động, tuy nhiên, với khoảng 14 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,5% tổng số lao động toàn nền kinh tế, trong khi năng suất lao động của khu vực này chỉ bằng 43,1% mức năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế, bởi đa số lao động trong khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định, tạo ra giá trị gia tăng thấp cũng là nguyên nhân làm tốc độ tăng năng suất lao động chạm lại.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Thứ ba, một số hệ lụy không tích cực đối với thu ngân sách nhà nước và và mức độ cải thiện đời sống nhân dân. Do tăng trưởng thấp và những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tất cả các nguồn thu đều sụt giảm so với năm ngoái, khiến công tác thu ngân sách nhà nước năm nay đối mặt nhiều khó khăn, chủ yếu do hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó. Tính chung 10 tháng năm 2023, tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.223,8 nghìn tỷ đồng, bằng 75,5% dự toán năm và giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước. Đây là sự đảo chiều đáng kể so với số liệu năm 2022 (Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2022 đạt 1.815,5 nghìn tỷ đồng, tăng 403,8 nghìn tỷ đồng (28,6%) so dự toán. Trong sự sụt giảm chung của các nguồn thu phải kể đến 3 khoản lớn nhất, đó là thu nội địa giảm thu từ dầu thô, và thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu (mức sụt giảm theo thứ tự 5,9%, 19,8% và 21,9% so với cùng kỳ năm 2022).

Tăng trưởng kinh tế chậm lại, những khó khăn trong phát triển kinh tế của các doanh nghiệp đã có những ảnh hưởng không tích cực đến đời sống của người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Mặc dù tính chung 9 tháng năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,28%, giảm 0,07 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên tình trạng thất nghiệp có biểu hiện tăng lên trong quý III so với các quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III năm 2023 khoảng 1,08 triệu người, tăng 6,3 nghìn người so với quý trước và tăng 22,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước (tăng 0,02 điểm phần trăm). Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân của lao động là 7 triệu đồng/tháng, thấp hơn cùng kỳ năm 2022 (trung bình 9 tháng năm 2022, thu nhập bình quân của người lao động làm công hưởng lương là 7,5 triệu đồng). Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguyên nhân chính làm cho thu nhập giảm có thể thấy: (i) Chủ yếu là do các thành viên trong hộ gia đình bị mất việc làm hoặc tạm nghỉ việc, cụ thể, trong thời gian qua, có tới 39,5% hộ gia đình có thành viên mất việc làm/tạm nghỉ việc; (ii) Đối với các hộ gia đình có sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế hộ gia đình thì có 23,9% hộ đánh giá do chi phí đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ tăng và 22,3% hộ đánh giá do giá bán các sản phẩm từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ giảm; (iii) Do giá cả hàng hóa và dịch vụ gia tăng cao, trong thời gian qua, có tới 30,4% hộ đang phải chịu những ảnh hưởng do giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV) về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển Kinh tế- xã hội năm 2023 đã xác định tăng trưởng kinh tế Việt nam năm 2023 đạt trên 5%, ADB đã dự báo con số 5,8%. Điều này cho thấy, để đạt được mục tiêu này thì quý IV/2023 tăng trưởng kinh tế cần đạt được từ 7% trở lên. Theo số liệu bình quân trong 10 năm qua (từ 2011 đến 2022, không kể 2 năm dịch covid-19), tăng trưởng GDP bình quân của Quý IV đạt 6,7%, năm đạt cao nhất (2017) là 7,67%, năm 2022 chỉ đạt 5,92%. Như vậy, năm quý IV 2023 muốn đạt con số tăng trưởng trên 7%, đòi hỏi một sự cố gắng rất lớn.

Qua những phân tích ở trên, muốn đạt được kết quả trên, tăng trưởng quý IV cần phải được thực hiện dựa trên 4 điểm nhấn chính, đó là: tốc độ phục hồi sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; Gia tăng nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn, chủ lực của Việt Nam; sự bứt phá của hoạt động du lịch; Đẩy mạnh tiêu dùng trong nước.

Đánh giá chất lượng tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2024

Để đạt được sự bứt phá trên, Chính phủ tiếp tục giữ ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tạo niềm tin cho người đầu tư, phát huy hiệu quả các chính sách tài khóa (hỗ trợ doanh nghiệp và người dân như: giãn, hoãn, giảm thuế…); chính sách tiền tệ (cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất, phí dịch vụ, các gói tín dụng ưu đãi) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng; chính sách thúc đẩy đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, vốn…

Các giải pháp cụ thể cần hướng tới: (1) Đẩy mạnh sản xuất, tiêu dùng trong nước bằng cách kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, có giải pháp hỗ trợ một số ngành, lĩnh vực chịu tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ; (2) Triển khai hiệu quả các giải pháp thúc đẩy xuất nhập khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định Thương mại tự do đã ký kết, tăng tốc độ thông quan hàng hóa xuất, nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu biên giới Việt Nam – Trung Quốc; (iii) Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và khuyến khích các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới, xanh, ít phát thải, có sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân; (iv) Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành, sớm đưa vào sử dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng nhằm duy trì và mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh./.