Giải pháp nào nhằm bảo vệ đa dạng sinh học có bao nhiều giải pháp hợp lý

Chiến lược này đặt đích đến năm 2030 là mở rộng và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên bảo đảm đạt được các chỉ tiêu cơ bản sau: diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên đất liền phấn đấu đạt 9% diện tích lãnh thổ đất liền; diện tích các vùng biển, ven biển được bảo tồn đạt từ 3 - 5% diện tích vùng biển tự nhiên của quốc gia; 70% khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên được đánh giá hiệu quả quản lý; các khu vực tự nhiên được quốc tế công nhận: 15 khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế [khu Ramsar], 14 khu dự trữ sinh quyển, 15 vườn di sản ASEAN; tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc duy trì ổn định từ 42% - 43%.

Để thực hiện việc bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học, Việt Nam xác định 3 giải pháp lớn nhằm quản lý hiệu quả hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn; Củng cố và mở rộng các khu vực tự nhiên có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế và phục hồi hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái.

* Quản lý hiệu quả hệ thống di sản, khu bảo tồn

Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên và hành lang đa dạng sinh học, Việt Nam sẽ tập trung vào thực hiện hàng loạt các giải pháp về chính sách, thể chế.

Đó là, thực hiện hiệu quả Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trên cơ sở các quy hoạch được phê duyệt, tiếp tục củng cố và mở rộng hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; thúc đẩy thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước và biển; thành lập và quản lý bền vững các hành lang đa dạng sinh học kết nối giữa các khu bảo tồn thiên nhiên.

Về lâu dài, cần kiện toàn và tăng cường năng lực hệ thống quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên; rà soát, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, tổ chức hoạt động và nâng cao năng lực của các Ban quản lý, tổ chức được giao quản lý khu di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hệ thống kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, hệ thống quan trắc đa dạng sinh học; giáo dục môi trường, đa dạng sinh học; thử nghiệm và từng bước áp dụng các mô hình đồng quản lý khu bảo tồn thiên nhiên ở những địa bàn phù hợp.

Nhằm tiêu chuẩn hóa các hệ thống di sản thiên nhiên, Việt Nam sẽ xây dựng, ban hành các tiêu chí và tổ chức thực hiện đánh giá hiệu quả quản lý di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; hướng dẫn đăng ký công nhận các khu bảo tồn thiên nhiên trong “Danh lục Xanh” toàn cầu.

Xây dựng các quy định, hướng dẫn bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên, bồi hoàn đa dạng sinh học, chính sách đầu tư cho di sản thiên nhiên, khu bảo tồn đất ngập nước, khu bảo tồn biển; xây dựng chính sách chuyển đổi nghề, hỗ trợ thực hiện mô hình sinh kế hộ gia đình bền vững của cộng đồng dân cư sinh sống hợp pháp trong vùng đệm cũng là những chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.

Các hệ sinh thái san hô, cỏ biển sẽ được bảo tồn và phục hồi

* Gìn giữ những giá trị đa dạng sinh học quý của thế giới

Với 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới; 3 di sản thiên nhiên thế giới; 10 Vườn di sản ASEAN…, tài nguyên đa dạng sinh học của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và tôn vinh. Để gìn giữ những di sản này, Việt Nam tiếp tục xây dựng hành lang pháp lý để quản lý các di sản thiên nhiên được tổ chức quốc tế công nhận, các khu dự trữ sinh quyển thế giới theo hướng quản lý tổng hợp, có sự tham gia của các bên liên quan; bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội, phát huy các nguồn lực để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Chúng ta tiếp tục nghiên cứu, đề cử công nhận danh hiệu quốc tế về đa dạng sinh học; rà soát, đánh giá các khu vực đạt tiêu chí công nhận các danh hiệu quốc tế, chú trọng các khu vực đại diện cho vùng sinh thái, các khu vực biển, đảo trong việc đề cử các khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế Ramsar, di sản thiên nhiên thế giới, vườn di sản ASEAN; thành lập và tăng cường năng lực mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển, di sản thiên nhiên thế giới, khu Ramsar, vườn di sản ASEAN.

Từ thành công trong việc bảo tồn các di sản, Việt Nam còn xây dựng các mô hình bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển bền vững, cải thiện sinh kế cộng đồng; ưu tiên áp dụng các mô hình thí điểm, cơ chế mới về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các khu dự trữ sinh quyển.

* Phục hồi các hệ sinh thái

Hàng loạt các hệ sinh thái đang bị suy thoái sẽ được lên kế hoạch phục hồi như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, trong đó ưu tiên tập trung ở các khu bảo tồn biển; khoanh vi bảo vệ để phục hồi tự nhiên các khu vực có rạn san hô, thảm cỏ biển đang bị suy thoái.

Đồng thời sẽ áp dụng các biện pháp khoanh nuôi tái sinh, phục hồi tự nhiên các hệ sinh thái bị suy thoái trong các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu vực đa dạng sinh học cao, hành lang đa dạng sinh học; xây dựng các quy trình và hướng dẫn kỹ thuật phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, đặc biệt các hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, thảm cỏ biển.

Hai chương trình lớn triển khai có hiệu quả sẽ góp phần phục hồi các hệ sinh thái quan trọng, đó là Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước giai đoạn 2021 - 2030; Đề án Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025 gắn với mục tiêu phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng.

Để bảo tồn đa dạng sinh học tại các khu vực ngoài khu bảo tồn thiên nhiên, Việt Nam sẽ tiến hành điều tra, đánh giá, xác định các khu vực đa dạng sinh học cao, vùng đất ngập nước quan trọng; hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học hiệu quả tại các khu vực này. Đồng thời hực hiện các biện pháp bảo vệ, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng phá, khai thác trái phép rừng, rạn san hô, thảm cỏ biển; thúc đẩy việc quản lý hiệu quả các vùng đất ngập nước quan trọng; nhân rộng các mô hình sử dụng đất ngập nước hiệu quả.

Cần có giải pháp kịp thời bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái của Việt Nam

[ĐCSVN] – Không chỉ đối mặt với hàng loạt các vấn đề ô nhiễm, biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên đất, nước…Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học, hệ sinh thái và tài nguyên rừng nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân suy giảm, mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, ảnh hưởng tới cuộc sống của cộng đồng.


Cần có giải pháp kịpt hời bảo vệ hệ sinh thái của Việt Nam. [Ảnh minh họa: Bích Liên]

Nguy cơ đe dọađa dạng sinh học, hệ sinh thái

Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có đa dạng sinh học [ĐDSH] cao của thế giới, với nhiều kiểu hệ sinh thái [HST], các loài sinh vật và nguồn gen phong phú và đặc hữu. Đa dạng sinh học ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn, các HST với nguồn tài nguyên sinh vật phong phú đã mang lại những lợi ích trực tiếp cho con người và đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây trồng; cung cấp vật liệu cho xây dựng và các nguồn dược liệu, thực phẩm… Giá trị ĐDSH cung cấp khoảng 80% thủy sản khai thác ven bờ, 40% lượng protein cho người dân...

Các HST có tính ĐDSH cao đang thu hút nhiều khách du lịch, hứa hẹn đem lại nhiều giá trị về kinh tế. 70% tăng trưởng du lịch là từ các vùng duyên hải giàu tính ĐDSH. Ngoài ra, trong bối cảnh ô nhiễm ngày càng gia tăng, biến đổi khí hậu [BĐKH] đang trở nên khắc nghiệt hơn thì vai trò ứng phó với BĐKH của các HST càng quan trọng. Tuy nhiên, ĐDSH tại nước ta đang bị suy thoái nghiêm trọng.

Theo Báo cáo Môi trường quốc gia vừa được Bộ tài nguyên và Môi trường công bố cuối năm 2016, các HST bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất là rừng tự nhiên bị thu hẹp một cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của một số loài ngày một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của HST như điều hoà nước, chống xói mòn, tiêu hủy chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Và cuối cùng là hệ thống kinh tế sẽ bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường.

Hiện nay, điều đáng lo ngại là chất lượng rừng tự nhiên tiếp tục giảm. Tuy độ che phủ rừng có xu hướng tăng nhưng chủ yếu là rừng trồng với mức ĐDSH thấp, trong khi rừng tự nhiên với mức ĐDSH cao nhưng tỷ lệ bảo tồn còn rất thấp.

Báo cáo cũng chỉ ra trong giai đoạn 1990 - 2013, diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng đều tăng lên, tuy nhiên tốc độ tăng hàng năm của diện tích rừng trồng cao hơn khoảng 6 lần tốc độ phục hồi của rừng tự nhiên. Do thời tiết khô hạn diễn ra thường xuyên trong giai đoạn 2011 - 2015 nên hiện tượng cháy rừng vẫn xảy ra tại một số địa phương. Tính riêng năm 2014, tổng diện tích rừng bị cháy là 3.157ha, tăng 157,2% so với năm trước. Vấn nạn chặt phá rừng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều tỉnh nhưng có xu hướng giảm dần. Năm 2011, diện tích rừng bị chặt phá trong cả nước lên tới 6.710,3ha thì đến năm 2014, diện tích rừng bị chặt phá chỉ còn là 870ha, đây là nỗ lực rất lớn của ngành lâm nghiệp. Tuy nhiên, trong số diện tích rừng bị cháy và bị phá, rừng nguyên sinh vẫn chiếm tỷ lệ lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và tăng các nguy cơ lũ lụt, sự cố môi trường. Diện tích rừng trồng tăng với tốc độ nhỏ hơn tốc độ khai thác. Diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá gây sức ép không nhỏ đối với phát triển lâm nghiệp cũng như đối với môi trường tự nhiên của nước ta khi HST rừng đóng vai trò quan trọng trong hấp thụ và lưu giữ CO2 trong tự nhiên.

Cùng với đó, nhiều nơi diễn ra tình trạng tất rừng do chuyển đổi mục đích, tiêu biểu phải kể đến Tây Nguyên. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [NN&PTNT], nguồn tài nguyên rừng Tây Nguyên đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng, đa dạng sinh học rừng cũng bị suy giảm. Đặc biệt, việc mất rừng còn do chuyển đổi đất rừng sang đất sản xuất, chuyển đổi rừng nghèo sang trồng cao su với hơn 72.000 ha, chuyển hơn 8.000 ha đất rừng để xây dựng khoảng 50 công trình thủy điện; đồng thời, làm cho hàng ngàn héc ta rừng bị ngập trong lòng hồ, hàng chục ngàn héc ta rừng bị triệt phá… Công tác quản lý, khôi phục rừng cũng còn nhiều bất cập. Cụ thể, 55 công ty lâm nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp nhưng vẫn hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước, với nguồn nhân lực mỏng, năng lực và trách nhiệm có hạn, cơ chế quản lý bất cập… dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, buông lỏng quản lý rừng để mặc cho “lâm tặc” phá rừng, nhiều diện tích rừng trở nên vô chủ…

Cần có giải pháp kịp thời

Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, ĐDSH có vai trò vô cùng quan trọng, là nguồn cung cấp cho những dịch vụ sinh thái, từ việc lọc nước cho tới sản xuất thức ăn, chu trình cácbon và những dịch vụ này đáng giá hàng tỉ đô la mỗi năm. Mặc dù ĐDSH có tầm quan trọng như vậy nhưng nó đang đứng trước những mối đe dọa nghiêm trọng. Những hoạt động của con người đang phá hủy các vùng sinh thái phong phú như: rừng nhiệt đới, vùng đất ngập nước, các rạn san hô, các cánh đồng cỏ, và có nguy cơ biến hành tinh của chúng ta thành một nơi cằn cỗi. Điều này sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với chính con người.

Đặc biệt, khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống. Tình hình hiện nay cho thấy việc khôi phục bảo vệ các hệ sinh thái, nguồn tài nguyên rừng, sự đa dạng loài và đa dạng di truyền để bảo tồn ĐDSH, ngăn chặn sự diệt vong của các loài quý hiếm là một việc làm cấp bách.

Các chuyên gia cũng cho rằng, ngoài những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, việc quy hoạch, bảo tồn ĐDSH, trong đó bảo vệ và phát triển rừng ven biển phải đảm bảo ổn định lâu dài. Cần có những cơ chế chính sách hợp lý cho những người tham gia bảo vệ rừng cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân về tầm quan trọng của rừng ngập mặn.

Theo Cục Bảo tồn ĐDSH [Bộ Tài nguyên và Môi trường], hiện nay diện tích các khu vực có hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.

Thực tế ở Việt Nam, công việc chuyển đổi đất, đặc biệt đất rừng sang đất trồng cây công nghiệp, lương thực vẫn diễn ra hàng năm. Xây dựng các cơ sở hạ tầng như đường, công trình đập thủy điện đã gây ra sự suy thoái, chia cắt, hình thành rào cản sự di cư và làm mất các sinh cảnh tự nhiên. Việc khai thác trái phép gỗ và lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt săn bắn, buôn bán trái phép các loài động vật hoang dã cũng như khai thác thủy sản bằng các biện pháp hủy diệt vẫn tồn tại dường như là thách thức đối với các cấc cấp quản lý bảo tồn ĐDSH. Do vậy, hoạt động bảo tồn ĐDSH cần được thực hiện thường xuyên, có định hướng cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhu cầu của cộng đồng chung về một môi trường sống lành mạnh.

Để ngăn chặn kịp thời và xử lý dứt điểm tình trạng phá rừng lấy đất sản xuất, khai thác, buôn bán, vận chuyển, kinh doanh lâm sản trái pháp luật…, đồng thời, khắc phục những thiếu sót, yếu kém trong công tác quản lý bảo vệ rừng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị chỉ đạo quyết liệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng và chống người thi hành công vụ. Các lực lượng liên ngành [kiểm lâm, công an, quân đội] duy trì hoạt động, thực hiện quy chế, phương án phối hợp chặt chẽ, tổ chức thường trực tại hiện trường, thường xuyên phối hợp chính quyền cơ sở, hỗ trợ chủ rừng tăng cường kiểm tra, truy quét để phát hiện, ngăn chặn kịp thời hành vi lấn chiếm đất rừng, chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép, kiên quyết xóa bỏ các “điểm nóng” về phá rừng, khai thác lâm sản trái phép. Xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm, các chủ rừng, cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm để phá rừng, cháy rừng; rà soát, kiểm kê, thu hồi toàn bộ diện tích đất rừng bị chặt phá, lấn chiếm; sử dụng sai mục đích, hoặc chuyển mục đích sử dụng trái quy định của pháp luật để phục hồi rừng, đặc biệt tại các công ty, doanh nghiệp lâm nghiệp./.

Bích Liên

TIN LIÊN QUAN

  • Bài 3: Phát huy mạnh mẽ sự nghiệp “phò chính, trừ tà”
  • Cần địa phương hỗ trợ cát đắp cho dự án cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ
  • Sẵn sàng lắng nghe, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng người Việt tại Nga
  • Xây dựng tổ chức Đoàn thực sự là trường học của những người cộng sản trẻ tuổi
  • Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương
  • Thủ tướng Phạm Minh Chính: Doanh nghiệp nhà nước phát huy vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế
  • Khởi tố, bắt tạm giam bà Nguyễn Phương Hằng

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề