Hướng dẫn làm reading ielts

Reading là một trong bốn kỹ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) được đánh giá trong bài thi IELTS và phản ánh khả năng đọc văn bản với độ dài và ngôn từ ở trình độ học thuật. Về bản chất, kỹ năng reading là cũng là một kỹ năng tiếp nhận (hay còn gọi là bị động) vì người đọc không cần hình thành ngôn ngữ mà thay vào đó là lọc thông tinhiểu nội dung. Bài thi IELTS sẽ đánh giá kỹ năng đọc hiểu và lọc thông tin này của người thi thông qua giới hạn về thời gian và thông qua sự đa dạng câu hỏi với nhiều hình thức khác nhau mà đòi hỏi thêm độ rộng về vốn từ vựng của người thi. Nếu các bạn nhận ra khả năng reading của bản thân vẫn chưa đáp ứng những tiêu chuẩn đánh giá này của IELTS, DOL sẽ cung cấp cho bạn những cách tiếp cận đã được chứng minh là hiệu quả tới mọi bài IELTS reading và đạt được điểm số cao nhất.

Tổng quan về bài ielts reading

Điều các bạn cần làm trước khi học các kỹ thuật và mẹo làm bài IELTS reading của DOL là đảm bảo các bạn nắm kỹ toàn bộ cấu trúc của bài thi reading. Sau khi đã rõ về chi tiết từng phần và yêu cầu của bài thi, chúng ta từ đó có thể biết được khi nào có thể áp dụng các kỹ thuật làm bài và áp dụng như thế nào để hiệu quả nhất.

Ielts reading là làm gì ?

IELTS reading là phần thi tính giờ trong 60 phút, yêu cầu người thi đọc 3 trích đoạn khác nhau (đề thi sẽ khuyên thí sinh dành tối đã 20 phút cho mỗi phần) và trả lời những câu hỏi liên quan đến bài đọc. Nội dung thi IELTS reading trên giấy và máy tính sẽ giống nhau.

Câu hỏi của bài IELTS reading được thiết kế để đo lường một số khía cạnh của kỹ năng đọc, bào gồm khả năng:

  • Đọc có giới hạn thời gian
  • Đọc để nắm ý chính
  • Đọc tìm chi tiết
  • Đọc lướt
  • Nhận ra ý kiến, thái độ và mục đích của người viết
  • Theo được sự phát triển ý của một lập luận
  • Nhận biết từ vựng linh hoạt

Bố cục bài thi ielts reading

Bài IELTS reading được thi sau kỹ năng listening và người thi sẽ được phát đề và một tờ phiếu trả lời điền đáp án. Đề bài thi sẽ bao gồm 3 phần (3 sections), mỗi phần có một trích đoạn và 13-14 câu hỏi đi kèm, với độ khó các phần tăng dần. Số lượng từ tổng cộng của 3 phần sẽ ở mức 2150-2750 từ và số lượng câu hỏi tổng cộng là 40 câu.

Nội dung của 3 trích đoạn được trích dẫn từ sách, tạp chí, tập san, báo, và chỉ yêu cầu kiến thức phổ thông, không yêu cầu kiến thức chuyên môn từ người đọc. Tất cả chủ đề của bài IELTS reading đề cập những vấn đề nổi bật gắn với xã hội, phù hợp với các cá nhân sẽ nhập học ở bậc đại học, sau đại học, và người đang đi làm. Các đoạn văn có thể được viết theo nhiều phong cách khác nhau, ví dụ như tường thuật, mô tả hoặc phân tích.

Thời gian làm bài ielts reading

Người thi được yêu cầu phải hoàn thành 40 câu hỏi của 3 sections trong 60 phút. Người thi phải chuyển câu trả lời của mình sang phiếu trả lời trong khung thời gian 60 phút này vì không có thêm thời gian điền phiếu trả lời như ở kỹ năng listening. Người thi cần cẩn thận khi viết câu trả lời trên phiếu vì lỗi chính tả và ngữ pháp sẽ bị mất điểm.

Thang điểm và cách tính điểm ielts reading

Điểm IELTS reading được tính bằng cách quy đổi số câu đúng trên 40 câu sang thang điểm từ 0 đến 9.

Điểm Số Câu đúng
9.0 39-40
8.5 37-38
8.0 35-36
7.5 33-34
7.0 30-32
6.5 27-29
6.0 23-26
5.5 20-22
5.0 16-19
4.5 13-15
4.0 10-12
3.5 7-9
3.0 5-6
2.5 3-4

Các dạng bài thường gặp trong ielts reading ~ các dạng câu hỏi (14 dạng)

Các câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra cả hai phương diện kỹ năng đọc là đọc nắm ý chínhđọc tìm chi tiết. Người thi có thể được yêu cầu chọn 1 câu trả lời đúng nhất từ 4 đáp án (A, B, C, D) hoặc 2 câu trả lời đúng từ 5 đáp án (A, B, C, D, E) hoặc 3 câu trả lời đúng từ 7 đáp án (A, B, C, D, E, F, G). Người thi viết câu trả lời đã chọn vào phiếu đáp án.

DOL cho bạn một lưu ý hữu ích là trật tự của những câu hỏi trắc nghiệm luôn luôn theo đúng trật tự của bài đọc. Có nghĩa là đáp án của câu hỏi số 1 sẽ nằm trong bài đọc trước đáp án của câu hỏi số 2 và cứ tiếp tục như vậy.

Dạng bài này đánh giá khả năng của người thi để nhận diện chi tiết của thông tin được truyền đạt trong bài đọc. Câu hỏi sẽ đưa một số lời phát biểu và hỏi “Do the following statements agree with the information in the text?” – “Các phát biểu sau đây có phù hợp với thông tin trong văn bản không?“. Sau đó người thi được yêu cầu trả lời ‘true’, ‘false’, hoặc ‘not given’.

Tuy nhiên, DOL lưu ý với các bạn rằng điều quan trọng là phải hiểu được sự khác biệt giữa ‘false’ và ‘not given’. ‘False’ có nghĩa là đoạn văn nói ngược lại với câu được đề cập. Trong khi ‘not given’ có nghĩa là lời phát biểu không được xác nhận và cũng không mâu thuẫn với thông tin trong đoạn văn, hay nói cách khác là thông tin của lời phát biểu không hiện diện trong bài đọc

Loại câu hỏi này đánh giá khả năng nhận biết quan điểm hoặc ý kiến của tác giả, vì vậy ta hay gặp ở các bài đọc nghị luận hay tranh luận. Người thi sẽ được cho một số câu và được hỏi ‘Do the following statements agree with the views/claims of the writer?‘ – ‘Những phát biểu sau đây có đồng ý với quan điểm / lời phát biểu của người viết không?‘. Sau đó, người thi được yêu cầu viết ‘yes’, ‘no’, hoặc ‘not given’ vào phiếu đáp án.

DOL lưu ý điều quan trọng là bạn phải hiểu sự khác biệt giữa ‘no’ và ‘not given’. ‘No’ có nghĩa là quan điểm hoặc phát biểu của tác giả hoàn toàn không đồng ý với tuyên bố trong câu hỏi; tức là tác giá đã ở đâu đó bày tỏ quan điểm hoàn toàn ngược lại với quan điểm được đưa ra trong câu hỏi; ‘not given’ có nghĩa là phát biểu của câu hỏi không thể được xác thực là đúng cũng không thể bị bác bỏ là sai với thông tin trong bài.

Dạng câu hỏi này kiểm tra khả năng scan đọc tìm chi tiết cụ thể, khác với dạng câu hỏi thứ 5 là đọc nắm ý chính. Các đoạn văn trong bài reading sẽ được đánh thứ tự chữ cái viết hoa (A, B, C, D…) Người thi được câu hỏi yêu cầu tìm thông tin cụ thể trong đoạn văn và viết chữ cái của đoạn chứa thông tin đó ra phiếu đáp án.

DOL lưu ý với các bạn rằng thông tin được yêu cầu tìm có thể là: chi tiết cụ thể, ví dụ, lý do, lời mô tả, sự so sánh, tóm tắt, lời giải thích. Vì vậy, đặc điểm thử thách thứ nhất của dạng câu hỏi này là các bạn không nhất thiết phải tìm các thông tin này ở mọi đoạn của bài đọc, và sẽ có những đoạn dư ra và có mục đích “gài bẫy”. Thử thách thứ hai là một đoạn có thể chứa đến 2 hoặc 3 thông tin mà đề bài yêu cầu tìm, nghĩa là một đoạn có thể là đáp án của nhiều hơn 1 câu hỏi. Khi rơi vào trường hợp này, đề sẽ thông báo “you can use any letter more than once” – “Bạn có thể sử dụng bất kỳ chữ cái nào nhiều hơn một lần“.

Trong dạng bài matching headings, người thi được kiểm tra khả năng đọc ý chính và phân biết với ý hỗ trợ. Mỗi đoạn của bài đọc sẽ được đánh dấu bằng chữ cái viết hoa (A, B, C, D …) . Người thi được cung cấp một list những đề mục (gọi là headings) được đánh số La Mã viết thường (i, ii, iii, iv…) ở câu hỏi.  Headings sẽ nói đến nội dung chính của một đoạn nằm trong bài đọc. Nhiệm vụ của người thi là phải nối headings tới đoạn văn phù hợp trong bài. 

Tuy nhiên, DOL lưu ý với bạn rằng, sẽ luôn có nhiều headings hơn số đoạn của bài đọc, vì vậy những headings dư sẽ không được sử dụng và chúng là hình thức “gài bẫy” của IELTS reading.

Loại câu hỏi này đánh giá khả năng đọc lướtscan của người thi qua việc nhận diện mối quan hệ giữa các thông tin trong đoạn hoặc nhận diện ý kiến của những nhân vật được đề cập trong bài. Câu hỏi sẽ cung cấp list những phát biểu hay thông tin, và yêu cầu người thi bắt cặp với ý của một list khác sao cho phù hợp. Ví dụ, nối kết quả nghiên cứu với tên người nghiên cứu, nối nhóm tuổi với đặc điểm tính cách, nối sự kiện với năm nó đã diễn ra trong lịch sử.

DOL lưu ý với các bạn trong kiểu câu hỏi này, số lượng đáp án trong list chọn có thể dư ra và có chức năng “gài bẫy”. Hơn nữa, sẽ có bài một đáp án có thể được dùng nhiều hơn một lần, và đề bài sẽ báo hiệu rằng ‘you may use any letter more than once‘ – ‘bạn có thể sử dụng bất kỳ chữ cái nào nhiều hơn một lần‘.

Nối đuôi câu là dạng câu hỏi đánh giá khả năng hiểu ý chính của một câu. Người thi được cho nửa đầu của các câu chưa hoàn chỉnh, cùng với một list các đáp án khả thi có thể nối để hoàn thành câu. 

DOL cho bạn một lưu ý, người thi sẽ có nhiều đáp án có thể chọn hơn số lượng câu hỏi và đáp án thừa còn lại là “bẫy” được cài bởi IELTS. Tuy nhiên, các câu hỏi dạng nối đuôi sẽ luôn luôn theo thứ tự như thông tin trong đoạn văn. Nghĩa là, đáp án cho câu hỏi đầu tiên sẽ nằm trong bài đọc trước đáp án cho câu hỏi thứ hai, và tiếp tục như vậy. 

Hoàn thành câu đánh giá khả năng xác định thông tin chi tiết của người thi. Người thi hoàn thành các câu có ô trống với số lượng từ nhất định được chọn từ bài đọc. Đề bài sẽ nói rõ người thi nên sử dụng bao nhiêu từ / số trong đáp án. Ví dụ:

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

Người thi viết nhiều hơn số từ yêu cầu sẽ bị mất điểm và các từ được gạch nối được tính là một từ.

DOL lưu ý các bạn trật tự của dạng câu hỏi này luôn luôn theo thứ tự của bài đọc. Nghĩa là đáp án của câu hỏi 1 sẽ nằm ở trong bài đọc trước đáp án của câu hỏi 2 và sẽ tiếp tục như vậy. 

Câu hỏi hoàn thành tóm tắt đánh giá khả năng đọc tìm chi tiết trong bài đọc. Người thi được cung cấp một bản tóm tắt của một phần của văn bản dưới dạng điền khuyết. Sau đó, người thi được yêu cầu điền vào ô trống sử dụng những thông tin nằm trong văn bản. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn lưu ý rằng bản tóm tắt thường chỉ gồm một phần của bài đọc hơn là toàn bộ. Các câu trả lời sẽ không nhất thiết điền theo thứ tự như trong văn bản nhưng thường sẽ nằm chung ở một đoạn của bài đọc. Các bạn có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống). Về điền ô trống, chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Câu hỏi hoàn thành ghi chú đánh giá khả năng đọc tìm chi tiết trong bài đọc. Người thi được cung cấp một danh sách ghi chú gạch đầu dòng dưới dạng điền khuyết. Sau đó, người thi được yêu cầu điền vào ô trống sử dụng những thông tin nằm trong văn bản. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn lưu ý rằng các câu trả lời sẽ không nhất thiết điền theo thứ tự như trong văn bản nhưng thường sẽ nằm chung ở một đoạn của bài đọc. Các bạn có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống). Về điền ô trống, chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Câu hỏi hoàn thành bảng đánh giá khả năng đọc tìm chi tiết trong bài đọc. Người thi được cung cấp một bảng dữ liệu thông tin trong bài đọc với những ô còn thiếu. Sau đó, người thi được yêu cầu điền vào ô trống sử dụng những thông tin nằm trong văn bản. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn lưu ý rằng các câu trả lời sẽ không nhất thiết điền theo thứ tự như trong văn bản nhưng thường sẽ nằm chung ở một đoạn của bài đọc. Các bạn có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống). Về điền ô trống, chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Câu hỏi hoàn thành lưu đồ đánh giá khả năng đọc tìm chi tiết trong bài đọc. Bởi vì loại câu hỏi này thường liên quan đến thông tin thực tế, nó thường được sử dụng với các bài đọc mô tả. Người thi được cung cấp một loạt các khung hoặc các bước được liên kết bằng các mũi tên để hiển thị một chuỗi sự kiện, với một số khung hoặc bước còn trống hoặc chỉ trống một phần. Sau đó, người thi được yêu cầu điền vào ô trống sử dụng những thông tin nằm trong văn bản. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn lưu ý rằng các câu trả lời sẽ không nhất thiết điền theo thứ tự như trong văn bản nhưng thường sẽ nằm chung ở một đoạn của bài đọc. Các bạn có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống). Về điền ô trống, chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Câu hỏi này đánh giá khả năng của thí sinh trong việc hiểu mô tả chi tiếtliên hệ nó với thông tin được trình bày dưới dạng hình ảnh. Người dự thi được yêu cầu hoàn thành các chú thính còn trống trên một hình ảnh liên quan đến nội dung bài reading. Hình có thể là một số loại máy móc, hoặc các bộ phận của tòa nhà hoặc của bất kỳ cấu trúc nào khác có thể được biểu diễn bằng hình ảnh. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn lưu ý rằng các câu trả lời sẽ không nhất thiết điền theo thứ tự như trong văn bản nhưng thường sẽ nằm chung ở một đoạn của bài đọc. Các bạn có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống). Về điền ô trống, chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Các câu hỏi trả lời ngắn đánh giá cả 2 khả năng đọc hiểu ý chính và đọc tìm chi tiết của người thi. Đề bài sẽ đặt những câu hỏi liên quan đến thông tin trong bài reading và người thi phải trả lời sử dụng từ nằm trong bài đọc. Đề bài sẽ chỉ rõ lượng từ / số được điền vào ô trống như: 

  • NO MORE THAN THREE WORDS AND/OR A NUMBER from the passage’ – ‘KHÔNG HƠN BA TỪ VÀ / HOẶC MỘT SỐ trong đoạn văn‘.
  • ONE WORD ONLY’ –CHỈ MỘT TỪ
  • NO MORE THAN TWO WORDS‘ – ‘KHÔNG HƠN HAI TỪ

DOL cho bạn một lưu ý hữu ích là trật tự của những câu hỏi trả lời ngắn luôn luôn theo đúng trật tự của bài đọc. Có nghĩa là đáp án của câu hỏi số 1 sẽ nằm trong bài đọc trước đáp án của câu hỏi số 2 và cứ tiếp tục như vậy. Một lưu ý khác là chúng ta chỉ chọn từ trong bài và không dùng từ của chúng ta nghĩ ra. Các từ được gạch nối được tính là một từ.

Các lỗi thường gặp trong bài ielts reading

Chuyên gia trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều đã từng là người mới. Khi các bạn bắt đầu tiếp cận với IELTS reading, các bạn chắc hẳn đã làm bài giống như cách mà chúng ta sẽ làm mọi bài đọc khác ở môn tiếng Anh trung học hay bài đọc ở những môn học khác. Khi các bạn làm quen hơn với IELTS reading, các đi tìm tòi và học hỏi những chiến lược hay bí quyết để giải bài đọc. Tuy nhiên, các bạn lại nhận ra điểm số của mình vẫn chưa được cải thiện dù đã thử nhiều phương pháp. Nếu bạn muốn biết chìa khóa để nâng band IELTS reading của mình, hãy tránh 3 lỗi phổ biến mà các bạn hay mắc phải này:

Tập trung quá nhiều vào chiến thuật giải đề hơn là học từ vựng    

  • Bản chất của đề thi IELTS reading là một bài thử thách vốn từ vựng của người đọc. Ba bài đọc với độ dài hơn 2000 chữ ở ba chủ đề khác nhau, cùng với 40 câu hỏi với đáp án được “gài bẫy” rải rác, tất cả đều đòi hỏi một tiêu chuẩn về mức độ từ vựng nhất định của người đọc. Do đó, chúng ta phải tập trung học từ vựng để xây dựng nền tảng cho mình chứ không thể dựa vào những mẹo làm reading IELTS để đạt được điểm số mong muốn. 
  • Đúng là chúng ta không nhất thiết phải đọc từ đầu đến cuối của bài đọc, không cần phải hiểu mọi chữ, và thi thoảng bài viết sẽ giúp ta đoán ý nghĩa từ vựng dựa vào ngữ cảnh, điều này chỉ đúng khi chúng ta hiểu được những phần còn lại của bài đọc, cũng như câu hỏi.
  • Chúng ta cũng sẽ không thấy được sự hiệu quả của phương pháp như skim và scan hay phương pháp đọc chi tiết hai câu đầu hai câu cuối và đọc lướt ở giữa, mà lại còn thấy việc đọc ngắt quãng này làm chúng ta không hiểu hay kể cả hiểu sai nội dung của bài đọc.

Không áp dụng paraphrasing vào IELTS reading

  • Tất cả các dạng câu hỏi của IELTS reading liên tục đánh giá kỹ năng xác định thông tin của người thi dưới áp lực thời gian và lượng từ lớn. Thông tin cần xác định có thể là ý chính của một đoạn, chi tiết của một câu, hay ý kiến và quan điểm của tác giả. 
  • Đúng là các phương pháp đọc câu hỏi trước hay gạch chân từ khóa đều sẽ bị giới hạn rất nhiều nếu từ vựng của chúng không đủ rộng. Nhưng chúng ta có nhất thiết phải biết nhiều từ vựng học thuật? Sự thật là band điểm IELTS 6.5 chỉ yêu cầu vốn từ vựng ngang cấp độ B2, nghĩa là từ vựng chuyên ngành và học thuật là không cần thiết để đạt được band này.
  • Chính xác hơn, chúng ta không tìm ra được thông tin cần tìm là vì chúng ta chưa linh hoạt trong việc phát hiện paraphrasing ở bài reading. Gần như trong mọi bài IELTS reading, phần câu hỏi chính là phiên biên bản paraphrase lại của bài đọc. Và hình thức paraphrase sẽ rất đa dạng với cách dùng từ đồng nghĩa, hoán đổi vị trí Subject và Object, chèn một mệnh đề dài vào giữa câu, thay đổi word form của từ, hay kể cả đưa định nghĩa dài dòng của một từ thay vì dùng một từ đồng nghĩa với từ đó.

Đọc dịch 

  • Trong bài IELTS reading, dịch và hiểu bài đọc theo tiếng Việt là một sai lầm khi chúng ta xét đến yếu tố thời gian. Dưới lượng giới hạn 60 phút và ba bài đọc dài, chúng ta nên vận dụng trí nhớ não bộ vào việc phát hiện và nhận diện paraphrasing, và tìm cách đơn giản hóa lượng thông tin mà chúng ta thu nhận, thay vì phải liên tục hình thành một phiên bản tiếng Việt dài tương tự.
  • Bên cạnh đó, dịch bài sẽ hình thành cho chúng ta một thói quen không tốt là tọc từ trái sang phải. IELTS reading thường xuyên chứa những cấu trúc ngữ pháp câu phức và câu ghép với nhiều mệnh đề đan xen và gián đoạn trật tự SVO của câu. Đây chính là điểm làm bật lên sự khác nhau giữa ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, vì cùng một câu đó phiên dịch sang tiếng Việt sẽ nghe rất lạ lẫm và khó hiểu. Trong khi, đọc theo tiếng Anh hoặc phương pháp Linear Thinking DOL lại dễ hiểu  và rõ ràng.

Kỹ năng cần có trong bài ielts reading

Cách làm bài reading ielts hiệu quả là chúng ta phải rèn luyện cho mình những kỹ năng cần thiết trong bài thi này, dưới đây là những chia sẻ của DOL về những kỹ năng đó, các bạn tham khảo nhé!

Paraphrase theo định nghĩa là sự trình bày lại ý nghĩa của một câu hoặc đoạn văn bằng cách sử dụng những từ khác. Hay nói cách khác, paraphrase là cách thể hiện cùng một nội dùng với nhiều hình thức trình bày khác nhau. Và paraphrase luôn luôn có mặt trong mọi bài IELTS reading. Ví dụ:

Nội dung bài đọc Paraphrase ở câu hỏi
… there has a been a rise in

criminal activities in big cities … 

… crime has been increasing … 
…  this happened in the latter part of the 19th century …  … occured in the late 1800s … 
… seems to be more costly …  … tends to be more expensive … 
… pupils are able to gain more

understanding by discovering ways

to solve issues … 

Students learn by finding solutions to problems … 
… there was a public referendum

on the issue … 

The citizens were given a vote on

the matter … 

… a huge impact on the local

ecosystem … 

… there were damaging

environmental effects… 

… production costs were far from

cheap … 

… the cost of manufacturing was

very high … 

Có thể thấy rằng rất nhiều cách diễn đạt khác nhau để cùng diễn đạt một ý. Và những cách thức diễn đạt này có thể dùng phương pháp từ đồng nghĩa, phương pháp thay đổi toàn bộ cấu trúc ngữ pháp, hay hoán đổi vị trí Subject và Object, chèn một mệnh đề dài vào giữa câu, thay đổi word form của từ, hay kể cả đưa định nghĩa dài dòng của một từ thay vì dùng một từ đồng nghĩa với từ đó. Các bạn có thể tham khảo thêm bài đọc về Paraphrase của DOL nhé.

Và hãy luôn ghi nhớ rằng chúng ta phải chuẩn bị tâm lý paraphrase này ở mỗi câu trong bài đọc. Liên tục phát hiện ra ý chính của Subject, Object, Verb và linh hoạt liên hệ với nhiều từ hay cụm từ có thể dùng miêu tả những ý chính đó, không tập trung quá nhiều vào phân tích ý nghĩa của từng câu một.

Kỹ năng thứ hai DOL cung cấp cho bạn là Simplify. Simplify là phương pháp đơn giản hoá nội dung một câu dựa vào cấu trúc của câu đó, giúp chúng ta nắm được bản chất cấu thành một câu cũng như đâu là thông tin chính, và đâu là thông tin hỗ trợ. 

Ví dụ:

Following the 2008 financial meltdown, which resulted in a deeper and more prolonged period of economic downturn than anyone expected, the search for explanations in the many post-mortems of the crisis has meant blame has been spread far and wide.

(Trích bài “UK companies need more effective boards of directors” trong cuốn “IELTS cambridge 12, NXB Cambridge, 2017)

Nhìn thấy “Following”, ta hình dung cấu trúc của câu: Following + Noun, S + V

➔ Những phần thông tin chính cần tìm là Noun và S, V

➔ Ta có

= Following financial meltdown
= the search for explanations in the many post-mortems of the crisis
= has meant (that) blame has been spread far and wide.

Thế nhưng vế Verb ở câu trên vẫn còn khá dài, nếu chú ý thì ta có thể lại đơn giản hóa Verb của câu trên là “meant” ➔ Đây là cấu trúc câu tường thuật: S mean that S + V

➔ Vế sau “that” mới là vế quan trọng cần đọc

➔ Câu còn lại: Following financial meltdown, blame has been spread and wide.

So sánh lại câu trước và sau khi rút nhé:

Before

Following the 2008 financial meltdown, which results in a deeper and more prolonged period of economic downturn than anymore expected, the research for explanation in the many post – mortems of the crisis has meant blame has been spread far and wide

After

Following financial meltdown, blame has been spread far and wide (sau sụp đổ tài chính, sự đổ lỗi lan ra và rộng).

Việc đọc connection giữa hai câu giúp bạn liên kết các ý lại với nhau tránh việc nhớ quá nhiều chi tiết, ngoài ra còn giúp bạn đoán từ vựng mà mình không biết.

Cùng quan sát thử đoạn văn sau đây:

Of all mankinds manifold creations, language must take pride of place. Other inventions -the wheel, agriculture, sliced bread – may have transformed our material existence, but the advent of language is what made us human. Compared to language, all other inventions pale in significance, since everything we have ever achieved depends on language and originates from it. Without language, we could never have embarked on our ascent to unparalleled power over all other animals, and even over nature itself.

(Trích bài “UK companies need more effective boards of directors” trong cuốn “IELTS cambridge 12, NXB Cambridge, 2017)

Simplification:

Sau khi rút gọn từng câu, đoạn còn lại:

Câu 1: Of all mankinds creations (O2) , language (S1)  take pride of place (V1 + O1)
Câu 2: Other inventions (S1) transformed (V1) our existence (O1)

but (conj) 

language (S2) is (V2) what made us human (O2)

Câu 3: Compared to language , all other inventions (S1) pale in significance (V1+O1) 

since (conj)

everything (S2) depends on (V2) language and originates from it (O2)

Câu 4: Without language , we (S1) never embarked on (V1) power (O1)

Nhiều bạn đọc đoạn trên sẽ thấy câu 1 3 4 khá khó hiểu vì chứa nhiều từ vựng lạ take pride of place , pale in significance , embarked on. DOL sẽ dùng bước Read connection để giúp bạn hiểu.

  • Bước 1: Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy các câu 1 2 3 4 không có từ nối như là beside hoặc however ➔ Có thể suy ra rằng 4 câu trên đang cùng phát triển 1 ý
  • Bước 2: Tuỳ từng bạn sẽ có vốn từ vựng khác nhau. Với mình, mình sẽ dùng câu 2 để đoán nghĩa 1 3 4. Câu 2 có nghĩa rằng: các phát minh khác thay đổi chúng ta, nhưng language là cái khiến chúng ta thành con người ➔ Đại khái là language đặc biệt hay quan trọng hơn các phát minh khác.
  • Bước 3: Câu 1 cùng một ý với câu 2, mà mình lại thấy từ pride giống giống từ proud ( tự hào) ➔ Mình càng chắc chắn rằng câu 1 có nghĩa là: trong tất cả các creations, language pride – tự hào – quan trọng
  • Bước 4: Câu 3 mình không biết pale in significance, nhưng mà câu 1 & 2, có nghĩa là language quan trọng ➔ Compared to language (so sánh với language), all other inventions pale in significance (thua, không quan trọng bằng)
  • Bước 5: Câu 4 Without language (không có language), we (chúng ta) never embarked on (không bao giờ có) power (sức mạnh) ➔ Language quan trọng
  • Bước 6: Kết luận main idea: The importance of language.

Vậy là việc đọc connection không những giúp tóm được nội dung đoạn mà còn giúp đoán được nghĩa những cụm chưa biết (take pride of place, pale in significance…)

Mẹo làm bài ielts reading

Chắc hẳn các bạn đã đều từng gặp khó khăn với kỹ năng reading trong một khoản thời gian nào đó và đi tìm tòi cũng như học hỏi những mẹo làm bài từ các bạn khác hay từ các người đã đạt được band mà bạn muốn hướng tới. Cũng vì lẽ đó, học viên IELTS ở mọi nơi đều dường như quen thuộc với một số phương pháp hay được lan truyền như cách đọc câu đầu câu cuối của mỗi đoạn để tiết kiệm thời gian, hay đọc câu hỏi trước và gạch chân từ khóa rồi skim và scan lần lượt trả lời câu hỏi.

Nhưng thực tế là những phương pháp vừa đọc ít và đọc ngắt quãng như vậy sẽ làm gián đoạn sự phát triển lập luận của tác giả, khiến chúng ta bỏ qua những dữ liệu có thể cần thiết, và phải lệ thuộc vào suy ngẫm và đoán mò khi trả lời câu hỏi. Khác biệt với những chiến lược kia, phương pháp luyện reading ielts Linear thinking của DOL – Học viện tiếng Anh tư duy tại TP. HCM, mang đến cho bạn cách tiếp cận toàn diện, thực tiễn. Và đặc biệt đây là cách luyện reading ielts hiệu quả, phù hợp với các bạn level thấp.

Để càng tối ưu hóa phương pháp Linear thinking của DOL và giúp bạn trả lời được nhiều câu đúng hơn trong lượng thời gian ngắn hơn, các bạn hãy lưu ý và tích hợp thêm những mẹo sau:

Mẹo 1: Các dạng câu hỏi luôn luôn nằm ở cùng 1-2 đoạn văn

  • Summary completion – Hoàn thành tóm tắt
  • Note completion – Hoàn thành ghi chú
  • Table completion – Hoàn thành bảng
  • Flow-chart completion – Hoàn thành lưu đồ
  • Diagram label – Chú thích hình

Các dạng đề này sẽ luôn nằm chung ở một đến hai đoạn của bài đọc, chứ không nằm rải rác cả bài. Các bạn cũng có thể sử dụng kiến thức ngữ pháp để dự đoán đáp án điền vào (noun, adjective, hay adverb sẽ điền được vào ô trống)

Mẹo 2: Các dạng câu hỏi luôn luôn theo thứ tự nội dung trong bài đọc

  • Multiple choice – Trắc nghiệm 
  • Matching sentence endings – Nối đuôi câu
  • Sentence completion – Hoàn thành câu
  • Short-answer questions – Câu hỏi trả lời ngắn

Các dạng đề này luôn luôn theo đúng trật tự của bài đọc. Có nghĩa là đáp án của câu hỏi số 1 sẽ nằm trong bài đọc trước đáp án của câu hỏi số 2 và cứ tiếp tục như vậy.

Mẹo 3: Các dạng câu hỏi tìm main idea:

  • Multiple choice – Trắc nghiệm
  • Matching headings – Nối đề mục với đoạn văn

Các dạng đề này đánh giá khả năng tìm ý chính của bài đọc, thay vì tìm chi tiết.

Mẹo 4: Các dạng câu hỏi tìm details:

  • Identifying information – chọn True/False/Not Given
  • Matching information – Nối chi tiết với đoạn văn
  • Matching features – Nối thông tin với nhau
  • Matching sentence endings – Nối đuôi câu
  • Sentence completion – Hoàn thành câu
  • Summary completion – Hoàn thành tóm tắt
  • Note completion – Hoàn thành ghi chú
  • Table completion – Hoàn thành bảng
  • Flow-chart completion – Hoàn thành lưu đồ
  • Diagram label – Chú thích hình

Các dạng đề này đánh giá khả năng tìm tìm chi tiết của bài đọc, thay vì tìm ý chính

IELTS reading là một trong 4 kỹ năng giao tiếp được đánh giá trên bài thi và bài thi sẽ bao gồm 3 trích đoạn cấp độ học thuật với 40 câu hỏi và người thi phải trả lời trong giới hạn 60 phút. Những khía cạnh của kỹ năng đọc sẽ được thể hiện qua bài thi và sẽ gồm có khả năng: Đọc có giới hạn thời gian; Đọc để nắm ý chính; Đọc tìm chi tiết; Đọc lướt; Nhận ra ý kiến, thái độ và mục đích của người viết; Theo được sự phát triển ý của một lập luận; Nhận biết từ vựng linh hoạt. Và kết quả của người thi được tính bằng cách quy đổi số câu đúng trên 40 câu sang thang điểm từ 0 đến 9. Để có thể đạt được số điểm mong muốn của bản thân, người thi cần trước tiên làm quen với đa dạng các bài đọc cũng nhưng những kiêu câu hỏi khác nhau. Cùng lúc đó, liên tục củng cố từ vựng, thực hành phát hiện paraphrase trong bài đọc, áp dụng Linear thinking thông qua chiến thuật Simplify và Read Connection.