Kinh đô đầu tiên của việt nam ở đâu
Kinh đô Hoa Lư tồn tại được 42 năm, trong đó 12 năm đầu là triều Đinh (968 - 980), 29 năm kế tiếp là triều Tiền Lê (980 - 1009) và 1 năm (1009 - 1010) là triều Lý. Bạn đang xem: Kinh đô đầu tiên của việt nam Năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô.Cố đô Hoa Lư hiện nay với diện tích 13.87 km² nằm trọn trong Quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình. Nơi đây là quần thể kiến trúc, di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt quan trọng cần được ưu tiên gìn giữ hàng đầu của Việt Nam, được tổ chức UNESCO công nhận là một trong bốn vùng lõi thuộc quần thể di sản Thế giới Tràng An. Cùng với bề dày lịch sử lên tới hơn 1000 năm, nơi đây là nơi lưu giữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại. Thành Nội có diện tích tương đương thành Ngoại, thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên. Xem thêm: Những Ca Sĩ Nổi Tiếng Nhất Thế Giới Theo Forbes, Top 20 Ca Sĩ Nổi Bật Nhất Hollywood Thành là nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình. Thành nội cũng có 5 đoạn tường thành nối liền các dãy núi. Cả hai thành đều lợi dụng nhánh sông Hoàng Long chảy dọc thành, vừa là hào nước tự nhiên, vừa là đường thủy, phục vụ việc di chuyển ra vào thành.Hai thành này được ngăn cách với nhau bằng một lối đi tương đối hiểm trở gọi là Quèn Vông. Ngày nay, trong vùng có các di tích lịch sử: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Vua Lê Đại Hành, đền thờ Công chúa Phất Kim, lăng vua Đinh, lăng vua Lê, phủ Vườn Thiên, chùa Nhất Trụ, chùa Kim Ngân, bia Câu Dền, hang Bim, núi Mã Yên, núi Phi Vân, núi Cột Cờ, sông Sào Khê, một phần khu sinh thái Tràng An và các đoạn tường thành, nền cung điện nằm dưới lòng đất.... Ngoài ra, các di tích liên quan trực tiếp đến khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư gồm các di tích không nằm trong 2 vùng trên nhưng có vai trò quan trọng đối với quê hương và sự nghiệp của triều đại nhà Đinh như chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, cổng Đông, cổng Nam, động Thiên Tôn, động Hoa Lư,...
14:58, 11/06/2010 Vùng đất Hoa Lư trước đây trải rộng hơn 10 làng xã của hai huyện Gia Viễn và Gia Khánh, bây giờ là đất huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Thuở xưa, các vua chúa gọi đất này là châu Trường Yên. Nguyễn Nhân Thống
Việt Nam là một đất nước nằm ở Ðông Nam châu Á, ven biển Thái Bình Dương. Từ bao đời nay, cộng đồng các dân tộc Việt Nam sống chung trong một đất nước mà do yêu cầu khai phá và làm thủy lợi của nền nông nghiệp lúa nước nên phải cố kết trong một quốc gia - dân tộc thống nhất. Ðộc lập dân tộc gắn liền với thống nhất quốc gia là một đặc điểm chi phối của lịch sử Việt Nam. Trên lãnh thổ thống nhất đó, cộng đồng các dân tộc anh em đã sinh sống và phát triển hợp thành dân tộc Việt Nam thống nhất cùng chung một nền văn hiến lâu đời, bền vững. Từ khi có lịch sử dân tộc, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang, dân tộc ta liên tục đấu tranh anh dũng kiên cường, bền bỉ, chinh phục thiên nhiên hà khắc, chống sự xâm lược của kẻ thù từ bên ngoài để tồn tại và phát triển. "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" (Sông núi nước Nam, Vua Nam ở). Kinh đô là nơi nhà vua đóng đô, là trung tâm chính trị của vương triều, của đất nước. Qua bao thời kỳ lịch sử, nước ta có rất nhiều lần thay đổi kinh đô. Từ kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang do các Vua Hùng đứng đầu, đến kinh đô Cổ Loa do An Dương Vương xây dựng, kinh đô Mê Linh của Hai Bà Trưng. Tiếp đó là kinh đô Long Biên của Lý Nam Ðế và Triệu Việt Vương, kinh đô Vạn Anh - Ðại La thời kỳ chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ ba (603 - 939). Thời kỳ Ngô Quyền giành được độc lập, Cổ Loa lại trở thành kinh đô của đất nước. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Ðinh Tiên Hoàng đã lập nên nhà nước Ðại Cồ Việt với kinh đô Hoa Lư độc đáo mang nhiều giá trị lịch sử quý báu. Triều Tiền Lê cũng đóng đô tại đây. Mùa thu năm Canh Tuất (1010), Vua Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Ðại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Cùng với sự biến động của lịch sử, của đất nước, nhiều địa danh đã được chọn làm kinh đô của các vương triều khác nhau như Tây Ðô và Lam Kinh ở Thanh Hóa, thành Hoàng Ðế ở Bình Ðịnh. Ðặc biệt là thành Phú Xuân sau này gọi là Huế được chọn làm kinh đô dưới thời Tây Sơn (1789 - 1802) và thời Nguyễn (1802 - 1945); xét về mặt vị trí, thời đó, Huế (Phú Xuân) nằm ở trung tâm đất nước lại có phong cảnh nên thơ; do vậy, được cả Quang Trung và nhà Nguyễn sau này chọn làm nơi đóng đô lập quốc. Hiểu biết về kinh đô nước Việt được xây dựng qua các triều đại phong kiến cũng chính là hiểu rõ thêm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Việc bảo tồn các di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa vật chất nói riêng, trong đó có các cố đô là một trách nhiệm, một nghĩa vụ thiêng liêng, là niềm tự hào của mỗi người dân đối với tài sản vô giá do tổ tiên đã tốn biết bao công sức, trí tuệ và tiền của để tạo dựng trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc. "Kinh đô nước Việt qua các triều đại phong kiến Việt Nam" được các tác giả trình bày một cách khoa học, ngắn gọn, theo trình tự thời gian, nhiều tư liệu thiết thực, rất thuận tiện cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về các kinh đô nước Việt xưa. Hy vọng cuốn sách sẽ mang đến cho bạn đọc nhiều thông tin bổ ích và lý thú. VÕ ÐĂNG |