Kinh tế thị trường kinh tế chính trị
TRUNG TÂM GIA SƯ GLORY - TRUNG TÂM UY TÍN TẠI HẢI PHÒNG. ĐỊA CHỈ: NGÕ 275 ĐÔNG KHÊ, NGÔ QUYỀN, HẢI PHÒNG
Bác nông dân thứ hai, cũng sở hữu một mảnh đất rộng. Tuy nhiên, khác với bác nông dân thứ nhất, bác này không khai thác các cây tự nhiên trên mảnh đất đó vì nó không mang lại nhiều kinh tế. Bác quyết định ra chợ mua giống hoa về trồng, vì bác thấy rằng, trồng hoa có năng suất cao hơn, kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng để có giống hoa, bác phải qua thị trường (tức là chợ) để mua, cùng với mua phân bón và thuốc trừ sâu. Sau một thời gian trồng trọt, bác đem ra thị trường để bán. Nhưng khác với bác nông dân thứ nhất, bác nông dân thứ hai, không thể bán với giá ngẫu nhiên được. Bác phải tính toán giá bán hợp lý sao cho có lãi so với đồng vốn bỏ ra, nhưng không quá cao vì phải cạnh tranh với những người bán hoa khác. Như vậy, hoạt động mua bán của bác nông dân thứ hai là biểu hiện của Kinh tế thị trường, do yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất thông qua thị trường, theo nguyên tắc thị trường, quy luật của thị trường (QL cạnh tranh, cung cầu, giá trị…) Với ví dụ đơn giản về hai người nông dân trên, ta đi đến kết luật về kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó, sản xuất và trao đổi đều được thực hiện thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Phần 2. Đặc trưng của Kinh tế thị trường.
Chúng ta thấy rằng, trong kinh tế thị trường luôn tồn tại đa dạng các chủ thể kinh tế như: chủ thể là Nhà nước, là tập thể, là tư nhân, là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, là doanh nghiệp liên doanh liên kết … Ví dụ như: Trong lĩnh vực Ngân hàng chẳng hạn, có Ngân hàng của nhà nước (Ngân hàng Agribank - Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viettinbank – Công thương); ngân hàng liên doanh (sacombank, techcombank…), ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài ( ANZ, Citibank, shinhanbank…) Sự đa dạng chủ thể kinh tế này là tất yếu trong kinh tế thị trường, xây dựng nên môi trường cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế vận động và phát triển. Đồng thời, sự đa dạng của các chủ thể kinh tế chính là biểu hiện của nhiều hình thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu 100% vốn nước ngoài)… Dù đa dạng các chủ thể kinh tế, nhưng trong nền kinh tế thị trường thì các chủ thể kinh tế này đều phải bình đẳng trước pháp luật, và đều chịu sự tác động khách quan của quy luật thị trường, các bạn nhé!
Ví dụ nguồn lực vốn chẳng hạn; Khi xảy ra dịch bệnh Covid toàn cầu, nền kinh tế thế giới trở nên khó khăn hơn, thị trường lao động khủng hoảng, số lượng người thất nghiệp nhiều, thị trường hàng hóa và dịch vụ đình trệ, sức mua giảm. Do vậy, dưới tác động của suy thoái thị trường, chủ đầu tư sẽ có xu hướng dịch chuyển nguồn lực vốn đầu tư sang các nước, hoặc các khu vực an toàn., như Việt Nam. Rõ ràng, thị trường là yếu tố quyết định tới sự phân bổ các nguồn lực xã hội.
Các chủ thể kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, suy cho cùng động lực chính là vì lợi ích kinh tế - xã hội. Chủ thể là Doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể phải đặt mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu kinh tế để duy trì và phát triển. Đối với chủ thể là nhà nước khi tham gia kinh tế thị trường, có thể vì lợi ích kinh tế song phải đảm bảo cả lợi ích xã hội nữa. Ví dụ: các dự án đầu tư công như Điện, đường, trường, trạm … Nhà nước vừa phải hướng tới mục tiêu kinh tế, nhưng vừa phải cân đối phù hợp với thu nhập của mọi thành phần nhân dân. Đặc trưng thứ 6, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế. Bản chất của kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa càng được mở rộng về phạm vi và quy mô thì càng tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Cho nên, mở cửa kinh tế là xu hướng tất yếu của các nền kinh tế thị trường trên thế giới. Mở cửa kinh tế tạo ra những cơ hội về khai thác thị trường, và tranh thủ nguồn lực quốc tế.Ví dụ về trồng vải thiều và trồng nhãn ở Hải Dương và Hưng Yên chẳng hạn. Nếu chỉ phát triển thị trường đầu ra ở Việt Nam thôi thì đặc sản quả vải và quả nhãn chỉ thu được những giá trị nhất định. Nhưng nhờ có mở của kinh tế, nông sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế, giá trị của vải và nhãn Việt Nam đã tăng thêm nguồn thu nhập cho nông dân. Từ đó, bà con nông dân đầu tư, quy hoạch thành những trang trại quy mô để mở rộng diện tích canh tác và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Những tin mới hơn Những tin cũ hơn
Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị dưới nhãn quan của chính trị gia. Thuật ngữ "kinh tế chính trị" được dùng lần đầu tiên năm 1615 bởi trong tác phẩm Traité d'économie politique. Thuật ngữ "kinh tế chính trị" xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hy Lạp với nghĩa là "thiết chế chính trị"[1]. Kinh tế chính trị học cung cấp các khái niệm và hệ thống kiến thức cơ bản nhất cho khoa kinh tế hiện đại như cung cầu, lợi nhuận, tự do thương mại... Nhiều quan điểm của các trường phái kinh tế chính trị đã trở thành các tín điều mang tính ý thức hệ của các nhà kinh tế học và các chính trị gia.
"Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với "kinh tế" là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Trong tác phẩm nổi tiếng An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia, 1776, thường được gọi tắt là Của cải của các quốc gia hay Quốc phú luận), Adam Smith chỉ rõ:
Kinh tế chính trị chịu ảnh hưởng của triết học chính trị. Các trường phái kinh tế chính trị được phát triển dựa trên quan điểm của các trường phái triết học chính trị. Chủ nghĩa tự do cho rằng nhà nước nên hạn chế can thiệp vào đời sống xã hội. Khi áp dụng quan điểm này vào kinh tế học tạo ra kinh tế chính trị học cổ điển. Chủ nghĩa bảo thủ bảo vệ thị trường và quan niệm giá trị tư bản thặng dư thuộc về cá nhân nên những nhà kinh tế chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa bảo thủ thường phản đối phân phối lại thu nhập, ủng hộ tự do kinh doanh. Chủ nghĩa xã hội tin rằng mỗi cá thể tạo ra giá trị thặng dư đều là thành viên của xã hội nên giá trị thặng dư đó mang tính chất xã hội do đó cần được xã hội điều tiết. Điều này được phản ánh trong kinh tế chính trị học Marxist. Chủ nghĩa cộng sản cho rằng tăng trưởng kinh tế-xã hội do giá trị thặng dư xã hội sinh ra do đó nó phải thuộc về toàn thể xã hội. Đại diện của chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx, Friedrich Engels, Lenin và Lev Davidovich Trotsky.
Kinh tế chính trị liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội khác. Các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị thường sử dụng tri thức của các ngành khoa học xã hội khác để giải thích các hiện tượng, các hành vi kinh tế. Một số ngành khoa học xã hội có liên quan mật thiết đến kinh tế chính trị học như xã hội học, nhân loại học, sử học, luật học... Xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội. Nhiều nhà xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội hình thành dựa trên quan hệ sản xuất cũng như sự ảnh hưởng của quan hệ sản xuất lên hoạt động xã hội loài người. Nhân loại học áp dụng kinh tế chính trị để nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống tư bản toàn cầu và các nền văn minh địa phương. Lịch sử luôn thay đổi, phương pháp lịch sử được môn kinh tế chính trị áp dụng để nghiên cứu các quy luật chung của hoạt động kinh tế-xã hội. Luật học, luật pháp được chính quyền áp dụng để quản lý xã hội. Trong kinh tế chính trị, luật cùng với các tư tưởng xã hội và quan điểm chính trị tạo nên kiến trúc thượng tầng. Sinh thái học có quan hệ với kinh tế chính trị bởi vì hoạt động kinh tế-xã hội loài người ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái. Những thay đổi về mặt sinh thái tác động trở lại đến con người, nhiều khi tiêu cực. Trường phái này bắt đầu từ tác phẩm Của cải của các quốc gia của Adam Smith (1776) đến Các nguyên lý kinh tế chính trị của John Stuart Mill (1848). Các đại biểu của trường phái này bao gồm Smith, David Ricardo, Thomas Malthus và Mill. Cái tên "Kinh tế chính trị cổ điển" là do Marx đặt ra.[2] Những đóng góp lớn của trường phái này bao gồm lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường và lý luận về giá trị, về phân phối. Smith là người đầu tiên thảo luận về lý luận giá trị lao động và Ricardo phát triển lý luận này. Kinh tế chính trị MarxistĐây là trường phái kinh tế chính trị mà Karl Marx là người sáng lập và Friedrich Engels là một đại biểu khác. Trường phái này đã phát triển đáng kể những lý luận về phân công lao động và lý luận giá trị lao động của kinh tế chính trị tân cổ điển, từ đó giới thiệu lý luận về lao động thặng dư, giá trị thặng dư, quy luật giá trị và thay đổi hình thái giá trị. Marx đã phê phán lý luận về dư thừa dân số của Malthus và giới thiệu khái niệm về đội quân lao động dự bị. Marx đã tiếp thu và phát triển những lý luận của Ricardo về phân phối. Những đóng góp quan trọng khác của trường phái này là các lý luận về phương tiện sản xuất, phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất... Kinh tế chính trị tân cổ điểnKinh tế chính trị tân cổ điển có các đại biểu là William Stanley Jevons, Carl Menger, Léon Walras, Philip Henry Wicksteed, William Smart, Alfred Marshall, Eugen von Böhm-Bawerk, Friedrich von Wieser, Vilfredo Pareto. Trường phái này phê phán quan niệm của kinh tế chính trị cổ điển về thỏa dụng, cũng như phê phán quan niệm của kinh tế chính trị Mác-xít về giá trị sử dụng. Từ đó, họ giới thiệu khái niệm về thỏa dụng biên. Chính vì thế, trường phái này còn được gọi là chủ nghĩa cận biên. Đóng góp quan trọng khác của trường phái này bao gồm lý luận về sự lựa chọn trong ràng buộc, quyền sở hữu, hàng hóa công cộng, độc quyền, ảnh hưởng ngoại lai... Kinh tế chính trị KeynesKinh tế chính trị Keynes phê phán lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường của trường phái cổ điển. John Maynard Keynes phát triển lý luận về tính bất ổn định của tái sản xuất và tăng trưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kinh_tế_chính_trị&oldid=68733019” |