Lãi suất liên ngân hàng 2015 mới nhất năm 2022

Mục lục bài viết

  • 1. Quy định mới về lãi suất trong bộ luật dân sự hiện nay ?
  • 2. Hỏi về vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay tài sản ?
  • 3. Quy định về mức lãi suất ngân hàng khi cho vay tín chấp ?
  • 4. Mức lãi suất cho vay như thế nào là hợp pháp ?
  • 5. Cách tính lãi của chế độ vay vốn cho học sinh, sinh viên như thế nào ?

1. Quy định mới về lãi suất trong bộ luật dân sự hiện nay ?

Bộ luật dân sự năm 2015 có một số quy định thay đổi rất đáng chú ý so với luật dân sự cũ về bốn loại lãi suất, đó là lãi suất cho vay, lãi suất chậm trả nợ gốc, lãi suất chậm trả nợ lãi và lãi suất chậm trả khác.

Luật sư phân tích:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:

"Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận:

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ".

Theo đó, về lãi suất, mức lãi suất vay tiền cũng theo thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 20%/năm [nếu thỏa thuận không rõ thì sẽ là 10%/năm]. Như vậy, từ năm 2017, trần lãi suất cho vay được nới thêm tới 6,5% [từ 13,5% lên 20%/năm]. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ, các tổ chức tín dụng [TCTD] thì có được cho vay vượt mức lãi suất 20%/năm hay không với quy định mở rộng “trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.

Như vậy, các ngân hàng, tổ chức tín dụng sẽ chịu sự điều chỉnh của BLDS năm 2015 hay Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 ?

Có thể thấy, hợp đồng vay tài sản nói chung, hợp đồng tín dụng nói riêng là một loại giao dịch dân sự.

Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định trong BLDS. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là một trong những điển hình của việc cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền dân sự, theo đó các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế – xã hội, định hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi. Nhưng để bảo đảm không biến lãi suất trần trở thành công cụ pháp lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế – xã hội.

Chính vì vậy, tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế, đó là:

i] Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lãi suất theo đề nghị của Chính phủ; ii] Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù.

Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất thì sẽ áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật khác có liên quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù vay khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vay vàng, ngoại tệ… nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng.

Điều đó có nghĩa, nếu Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các hợp đồng tín dụng thì các tổ chức tín dụng sẽ áp dụng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Tuy nhiên, theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, thực tiễn cho thấy chưa thực sự áp dụng một cơ chế lãi suất riêng cho các hợp đồng tín dụng, mặc dù xét về mục đích chính sách pháp luật thì quy định này là mong muốn của nhà làm luật. Nhưng xét về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này đã và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau, kể cả trong công tác xét xử của Tòa án và điều đó không có lợi cho các chủ thể trong hợp đồng tín dụng trước những rủi ro pháp lý có thể xảy ra trong thi hành pháp luật.

Cũng giống như các TCTD khác, các công ty tài chính thường đưa ra một mức lãi suất nhất định đối với các khoản tiền vay. Đây là cách giúp cho các tổ chức này có thể tự đứng vững, ổn định, trở thành nhà cung cấp tài chính trong dài hạn trong khu vực mà các tổ chức này hoạt động. Tuy nhiên, do quản lý nhiều khoản vay nhỏ thường tốn chi phí hơn so với việc quản lý một khoản vay lớn, nên một số tổ chức thường đưa ra mức lãi suất cao hơn so với mức lãi suất thông thường để có thể bù đắp được chi phí quản lý và rủi ro.Vòng quay này đang bị xáo trộn bởi trần lãi suất 20% nêu trong Điều 468 BLDS năm 2015. Còn đối với hệ thống NHTM, trước hết, theo tinh thần của các quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước [NHNN] và Luật Các tổ chức tín dụng, mặc dù chưa hoàn toàn cụ thể song có thể hiểu rằng, lãi suất trong hoạt động ngân hàng ở điều kiện bình thường sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không theo trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, NHNN mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng. Cơ chế xác định lãi suất này có thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng của TCTD với khách hàng.

Như vậy, nếu trần lãi suất cho vay tại BLDS năm 2015 điều chỉnh đối với cả hoạt động ngân hàng thì luôn luôn có một mức lãi suất trần khống chế với hoạt động kinh doanh của các TCTD. Thực vậy, với tư cách là trung gian tài chính nhận tiền gửi từ công chúng và sử dụng tiền gửi này để cấp tín dụng, mức lãi suất cho vay của các TCTD được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, chi phí cho vay, thời hạn vay, uy tín của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay… Do vậy, TCTD thường xác định mức lãi suất cho vay khác nhau đối với từng loại khách hàng và từng loại khoản vay, nên việc áp cùng một mức trần lãi suất cho vay là thiếu hợp lý.

Riêng về hoạt động vay tiêu dùng tại các CTTC, đây là hoạt động vay mượn khá đặc thù, dựa trên tín chấp là chủ yếu và các thủ tục giấy tờ khá đơn giản, nên độ rủi ro cao hơn so với các hình thức tín dụng thông thường. Do đó, để bù đắp rủi ro, lãi suất cho vay tiêu dùng sẽ cao hơn so với mặt bằng lãi suất chung. Để quản lý hoạt động cho vay tiêu dùng, không nên áp trần lãi suất mà phải dựa trên thỏa thuận giữa khách hàng và bên cho vay. Nếu khống chế trần lãi suất sẽ gây rủi ro, làm méo mó thị trường. Hơn nữa, lại không phù hợp với xu hướng hội nhập mà Việt Nam đang theo đuổi. Trong điều kiện đặc biệt, nhà quản lý có thể sử dụng công cụ hành chính, tuy nhiên, việc sử dụng ngày càng nhiều biện pháp hành chính sẽ càng gây khó cho cả hai, cả bên cho vay lẫn người đi vay.

Nhìn chung lãi suất cho vay của các ngân hàng không quá 20%/năm.

Tuy nhiên, riêng lãi suất cho vay thông qua thẻ tín dụng thì lại phổ biến trong khoảng 20-35%/năm, đặc biệt là lãi suất cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính phổ biến ở mức 20-40%, có khi lên đến 50-70%. Vì vậy, nếu phải áp dụng trần lãi suất cho vay 20% của BLDS năm 2015, thì sẽ rất phi thực tế và trái ngược với nguyên tắc tự do hóa lãi suất đã được thừa nhận trong ngành ngân hàng và nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là mức lãi suất vay nói chung, sắp tới nếu vượt 100%/năm [135%/năm trước đây], thì có nguy cơ phạm vào tội cho vay nặng lãi và nếu vay vượt 20%/năm [13,5%/năm trước năm 2017], thì bị vô hiệu, bị xử phạt hành chính và không được thừa nhận là chi phí hợp pháp để tính thuế, trong khi lãi suất cho vay của riêng các TCTD thì lại có thể được phép vượt cả mức phạm tội hình sự.

Khoản 5 Điều 466[3] BLDS năm 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, mà theo đó, nếu chậm trả nợ gốc thì ngoài việc phải trả nợ gốc, còn phải trả lãi với mức lãi suất “bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng”. Như vậy, theo quy định này, lãi suất chậm trả nợ gốc quá hạn tối đa kể từ năm 2017 sẽ được tăng thêm 1% so với trước kia. Quy định này cũng là bất hợp lý, vì nếu trước đây, cứ chậm trả nợ gốc là đều phải trả một mức lãi suất quá hạn 9%, thì nay sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào lãi suất vay. Ví dụ, nếu vay 2%/năm, khi quá hạn thì chỉ phải trả 3% [cộng thêm 1%], còn nếu vay 20%/năm, khi quá hạn thì phải trả tới 30%/năm [20% x 150% = 30%, cộng thêm 10%], sẽ thúc đẩy được trách nhiệm trả nợ của bên vay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay. Đặc biệt, nếu các TCTD được phép cho vay tới 70%/năm như đã nêu trên, thì lại được phép tính lãi suất chậm trả lên tới 105%/năm. Và riêng mức lãi suất ngất ngưởng này của các TCTD còn được tiếp tục duy trì đến cả sau khi đã có phán quyết của Tòa án theo Án lệ số 08/2016/AL [ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.]
Mà theo đó, trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm:

lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn [nếu có], lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay.

Ngoài việc quy định trả nợ gốc trong hạn và quá hạn như trên, BLDS năm 2015 còn có thêm một quy định mới về việc trả nợ lãi tính trên số lãi chậm trả [còn được gọi là lãi nhập gốc để tính lãi tiếp hay lãi mẹ đẻ lãi con]. Cụ thể điểm a, khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 quy định, lãi suất chậm trả đối với số tiền lãi được chốt cứng là 10%/năm. Quy định mới của BLDS năm 2015 đã tăng thêm gánh nặng đối với người vay vốn, khi không có khả năng trả nợ đối với các khoản vay lãi suất cao, thì sẽ phải trả lãi suất quá hạn rất cao, nhất là cả khoản lãi chồng lên lãi. Riêng lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng thì BLDS năm 2015 chưa đề cập đến, vì sẽ là bất hợp lý nếu hiểu rằng, mức lãi vay ngoại tệ tối đa 20% và mức lãi chậm trả lãi bằng 10%/năm.

Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.

Như vậy, theo quy định này Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định áp dụng theo lãi suất cơ bản[4] do Ngân hàng Nhà nước công bố. Tuy nhiên, hiện một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn quy định về việc áp dụng theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Ví dụ: điểm d khoản 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, mà theo đó, quy định phạt tiền đối với hành vi “Cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay”. Nên đây cũng là vấn đề mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm tiếp cận để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật liên quan để phù hợp với quy định BLDS năm 2015 về áp dụng lãi suất.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015 về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, thì mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận, nhưng không quá 10%/năm.

Còn trọng tài thương mại thường chấp nhận thỏa thuận mức lãi suất chậm trả tiền mua hàng hóa, dịch vụ theo hợp đồng thương mại, có thể cao hơn giới hạn 9% hay 10% theo quy định của BLDS, nếu như lãi suất cho vay trung bình ở mức 7%/năm trở lên. Trường hợp này là căn cứ vào quy định bên bị chậm thanh toán có quyền yêu cầu bên kia trả lãi “theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường” theo quy định tại Điều 306[6] Luật Thương mại năm 2005 về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán.

Để giải quyết dứt điểm được quy định về lãi suất trong hạn và quá hạn. Để giải quyết vướng mắc này, có ý kiến cho rằng cần phải có một trong các văn bản quy định hoặc giải thích rõ việc các TCTD được phép áp dụng mức trần lãi suất cao hơn 20%, cụ thể: Sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, theo hướng cho phép áp dụng vượt trần lãi suất chung quy định của BLDS năm 2015. Hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích luật theo thẩm quyền. Điều đáng ngại là, dù có hợp thức hóa được mức lãi suất cho vay vượt 20%/năm của các TCTD, thì vẫn tiếp tục gây ra tình trạng bất hợp lý giữa các chủ thể cho vay. Vì lãi suất cho vay bên ngoài TCTD, trong đó có lãi suất cho vay cầm đồ, thực tế thường phải cao hơn hoặc ít nhất cũng phải ngang bằng với mức lãi suất cho vay của các TCTD[7]. Như cũng có ý kiến cho rằng, không cần phải sửa luật nào cả, vì Điều 4[8] BLDS năm 2015 đã có những điều chỉnh đáng ghi nhận khi quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng BLDS. Theo đó, trong trường hợp có sự khác nhau giữa BLDS năm 2015 và luật khác thì các quy định của luật khác sẽ được ưu tiên áp dụng, trừ trường hợp các quy định của luật khác vi phạm nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 468 BLDS năm 2015 đã có quy định loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20% trong “trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. “Luật khác” ở đây được hiểu là pháp luật chuyên ngành.

Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và khoản 2, khoản 3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện đặc biệt cần có sự can thiệp của Nhà nước, Ngân hàng nhà nước mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng, cơ chế xác định lãi suất này có thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng.

Như vậy, có thể hiểu, BLDS năm 2015 đã loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho vay của các TCTD, mà theo đó, pháp luật về tín dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong quan hệ tín dụng là TCTD và khách hàng được tự thoả thuận.

Quan điểm của tác giả về vấn đề này, dù có sự vênh nhau giữa quy định về lãi suất của BLDS năm 2015 với luật chuyên ngành [khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010], mà theo đó, lãi suất trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD theo cơ chế thoả thuận nhưng “theo quy định của pháp luật”. Việc ghi thêm cụm từ này khiến các TCTD, khách hàng có quan hệ tín dụng với TCTD và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật thật sự “lúng túng” không biết theo pháp luật về tín dụng ngân hàng [không áp dụng trần lãi suất cho vay] hay theo pháp luật dân sự [áp dụng trần lãi suất cho vay]. Từ đó, người viết kiến nghị, pháp luật chuyên ngành cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn về việc áp dụng lãi suất này, theo đó, cần thiết phải sửa đổi tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, theo hướng bỏ cụm từ “theo quy định của pháp luật”, sửa đổi này sẽ là “rào chắn” không quy chiếu ngược trở lại với BLDS nhằm tránh xảy ra tình trạng “lòng vòng”, không rõ ràng trong các quy định của pháp luật và như vậy sẽ ổn thỏa hết mọi việc, nhất là phù hợp hơn với các quy định BLDS năm 2015.

Nhằm tạo điều kiện thị trường tài chính hoạt động một cách minh bạch và bền vững, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hướng dẫn việc thực hiện BLDS năm 2015 cụ thể hơn. Trong đó, cần giải thích rõ “trừ trường hợp các luật khác liên quan có quy định khác” nêu tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, sẽ áp dụng cho những đối tượng cụ thể nào? Có như vậy mới giải tỏa nỗi lo cho doanh nghiệp, thúc đẩy thị trường phát triển.

Trân trọng cảm ơn!

2. Hỏi về vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay tài sản ?

Em chào anh/chị ạ, Em có thắc mắc này mong các anh chị giải đáp.

Theo như em được biết thì NHNN mỗi khoảng thời gian thì lại ra một mức lãi suất cơ bản nhất định, vậy thì cụm từ "*đối với loại cho vay tương ứng" ở đây có ý nghĩa như thế nào ạ ? Nếu là chỉ về thời hạn vay như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Vậy thì nếu trong trường hợp hai bên cho vay nhưng không ấn định thời hạn vay thì có lấy được mức lãi suất cơ bản của NHNN để tính mức cao nhất không? Hay là lấy mức lãi suất không kỳ hạn của ngân hàng thương mại nhà nước để tính mức cao nhất ạ?

Em cám ơn anh/chị! ​​

Best regards,

Người hỏi: V.H.Linh

Luật sư tư vấn quy định về lãi suất trong hợp đồng, gọi ngay: 1900.6162

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới thư mục tư vấn của công ty chúng tôi, với câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:

"Điều 469. Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn

1. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý".

Bên cạnh đó Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:

"Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ".

Căn cứ vào 468 và 469 Bộ luật dân sự năm 2015 ta có thể hiểu rằng đối với hợp đồng vay không xác định kỳ hạn và có lãi, lãi suất do các bên tự thỏa thuận nhưng cũng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ấn định tại thời điểm đó. Luật có quy định lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước ấn định là mức cao nhất đối với hợp đồng vay tài sản. Do đó không được áp dựng mức lãi suất không kỳ hạn của Ngân hàng thương mại để tính mức lãi suất cao nhất cho hợp đồng vay.

Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi. Trân trọng./.

3. Quy định về mức lãi suất ngân hàng khi cho vay tín chấp ?

Chồng tôi có vay của ngân hàng VP Bank theo hình thức vay tín chấp số tiền là 90 triệu đồng với lãi suất là 27% trong 3 năm. Tôi hỏi có quy định nào về lãi suất cho vay của các ngân hàng không ?

Xin trân trọng cảm ơn!

Luật sư tư vấn pháp luật dân sự: 1900.6162

Luật sư tư vấn:

"Điều 91, Luật Các tổ chức tín dụng của Quốc hội, số 47/2010/QH12 về Lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng:

2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật".

Theo quy định trên thì khi vay vốn ngân hàng thương mại, các bên có quyền thỏa thuận lãi suất. Mặc dù được tự do thỏa thuận về mức lãi suất vay nhưng vẫn phải tuân theo pháp luật dân sự về lãi suất. Cụ thể tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mức lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự như sau:

"Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ".

Hiện nay, mức lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước công bố vẫn là 9% /năm. Như vậy, mức lãi suất cho vay tối đa cũng sẽ không quá 13,5% /năm. Bên cạnh đó, nếu chồng bạn vay vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu phục vụ một số lĩnh vực, nghành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì mức lãi suất tối đa sẽ là:

"Điều 13. Lãi suất cho vay

2. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn:a] Phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;

b] Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương mại;

c] Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

d] Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ;

đ] Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật công nghệ cao".

Như vậy, trong trường hợp của bạn, lãi suất cho vay của các ngân hàng được quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng 2010, điều Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc Khoản 2 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN.

Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email hoặc qua tổng đài tư vấn: 1900.6162

4. Mức lãi suất cho vay như thế nào là hợp pháp ?

Xin chào Luật Minh Khuê! Các Luật sư có thể tư vấn cho tôi biết cho vay với lãi suất 5%/tháng thì có phải là cho vay nặng lãi hay không? Tháng 7/2014, một người bạn vay của tôi số tiền 41 triệu đồng, Tuy nhiên đến nay không trả tiền gốc và lãi cho tôi. Khi cho vay tôi có làm hợp đồng trả góp có ký kết cuả 2 bên. Tôi có tìm đến nhà nhưng đã chuyển đi nơi khác.

Vậy nếu khởi kiện thì liệu có thắng kiện được không?

Xin tư vấn giúp tôi. Xin cảm ơn quý công ty!

Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Trả lời:

Theo qui định của Bộ luật dân sự năm 2015 mức lãi suất hợp pháp mà các bên được phép thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản được quy định tại Điều 468, cụ thể như sau:

"Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ".

Bạn cho vay với lãi suất 5%/tháng, tức là 60%/năm. Như vậy, lãi suất cao gấp 3 lần mức lãi suất mà pháp luật cho phép, cho nên đây là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức lãi suất này thấp hơn 10 lần mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định nên bạn sẽ không bị xử lý hình sự, mà chỉ bị xử phạt hành chính. Với hành vi này, bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điểm d khỏa 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình :

"Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay."

Nếu trong hợp đồng vay tài sản, các bên có thỏa thuận về mức lãi suất vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, khi có tranh chấp xảy ra thì Nhà nước không thừa nhận và bảo vệ quyền lợi cho bạn đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản.

Trong trường hợp bên vay không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay, thì bên vay sẽ có nghĩa vụ sau theo qui định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:

"Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:a] Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;b] Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác".

Như vậy, nếu bên vay không trả nợ, bạn có thể khởi kiện ra tòa án để yêu cầu bên vay thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc nếu phát hiện có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bạn có thể liên hệ với cơ quan công an để tố giác hành vi phạm tội. Cơ quan công an sẽ tiến hành xác minh các tình tiết có liên quan.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi với câu hỏi của bạn. Chúc bạn thành công!

5. Cách tính lãi của chế độ vay vốn cho học sinh, sinh viên như thế nào ?

Kính gửi công ty Luật Minh Khuê, hiện tôi có một số thắc mắc mong được giúp đỡ. Gia đình tôi vì hoàn cảnh khó khăn nên mẹ tôi có làm thủ tục vay vốn sinh viên. Tôi học niên khóa 2009 - 2012 hiện đã ra trường. Em gái tôi học khóa 2012 - 2016 đang học năm 4. Hai chị em vay cùng 1 sổ vay vốn, vậy xin hỏi cách xác định mức lãi như thế nào ?

Cảm ơn!

Trả lời

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi cho chúng tôi, Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:

Theo Quyết định số 157/2007QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/9/2007, Quyết định số 853/QĐ-TTg ngày 03/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh mức cho vay và lãi suất cho vay đối với học sinh, sinh viên [HSSV] và các văn bản khác liên quan, có quy định như sau:
- Về mức lãi suất cho vay tính như sau:

+ Các khoản giải ngân cho vay từ 1/10/2007 đến 31/7/2011 áp dụng lãi suất cho vay 0,5%/tháng.

+ Riêng các món vay giải ngân được hỗ trợ lãi suất từ ngày 1/5/2009 đến ngày 31/12/2009 trong thời gian 24 tháng kể từ ngày phát tiền vay của số tiền vay đó chỉ phải trả lãi suất 0,17%/ tháng.

+ Các khoản giải ngân cho vay từ 1/8/2011 trở đi sẽ áp dụng mức lãi suất cho vay 0,65%/tháng.

+ Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất khi cho vay.

+ Ưu đãi lãi suất trong trường hợp trả nợ trước hạn: Trường hợp đối tượng vay vốn trả nợ trước hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng lãi suất phải trả sẽ được giảm lãi vay. Ngân hàng Chính sách xã hội quy định cụ thể mức ưu đãi lãi suất trong trường hợp trả nợ trước hạn.

- Về việc trả nợ vay:

+ Khi giải ngân số tiền cho vay của kỳ học cuối cùng, NHCSXH nơi cho vay cùng người vay thoả thuận việc định kỳ hạn trả nợ của toàn bộ số tiền cho vay. Người vay phải trả nợ gốc và lãi tiền vay lần đầu tiên khi học sinh, sinh viên có việc làm, có thu nhập nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày học sinh, sinh viên kết thúc khoá học.

+ Số tiền cho vay được phân kỳ trả nợ tối đa 6 tháng 1 lần, phù hợp với khả năng trả nợ của người vay do ngân hàng và người vay thoả thuận.

+ Thời hạn trả nợ là khoảng thời gian được tính từ ngày người vay trả món nợ đầu tiên đến ngày trả hết nợ gốc và lãi. Đối với các chương trình đào tạo trên một năm, thời gian trả nợ tối đa bằng thời hạn phát tiền vay.

Mời bạn tham khảo về việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn trả nợ và chuyển nợ quá hạn như sau:

+ Đến kỳ trả nợ cuối cùng, người vay có khó khăn chưa trả được nợ, phải có văn bản đề nghị gia hạn nợ thì được Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét cho gia hạn nợ cho đối tượng vay vốn; thời gian gia hạn nợ tối đa bằng 1/2 thời hạn trả nợ.

+ Trường hợp đối tượng được vay vốn không trả nợ đúng hạn theo kỳ hạn trả nợ cuối cùng và không được phép gia hạn nợ, Ngân hàng Chính sách xã hội chuyển thành nợ quá hạn. Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội có biện pháp thu hồi nợ.

+ Ngân hàng Chính sách xã hội quy định cụ thể việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn trả nợ và chuyển nợ quá hạn.

Như vậy, mức lãi suất và thời hạn cụ thể mà bạn phải trả căn cứ vào thời gian bạn nhận được tiền vay, số tiền vay nhận được, thỏa thuận của người vay với Ngân hàng chính sách xã hội. Mọi thông tin chi tiết bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với luật sư của chúng tôi qua số : 1900.6162

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề