Mộ vua quang trung ở đâu

Việc an táng vua Quang Trung là một việc khá phức tạp, không được ghi chép rõ ràng trong lịch sử vì sự tồn tại ngắn ngủi của triều Tây Sơn và sự bài bác của triều đại kế tiếp. Đến nay, theo các công trình nghiên cứu khác nhau, nhiều giả thuyết được đặt ra về vấn đề này.

Tháng 9 dương lịch năm 1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản lên nối ngôi, tức là Cảnh Thịnh đế. Khi đó nhà Tây Sơn đang đối đầu với lực lượng lớn mạnh trở lại của Nguyễn Ánh - người thừa kế ngôi chúa của họ Nguyễn ở Đàng Trong.

Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn mất chủ quyền. Để trả thù nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã sai đào và san phẳng mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam cầm trong ngục tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là "Ông Vò". Do sự thù hằn của nhà Nguyễn, nhiều chứng tích về Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn, trong đó có lăng mộ của ông, được xem là đã bị phá huỷ. Một số công trình nghiên cứu gần đây của các nhà chuyên môn muốn nêu ra các giả thuyết về việc an táng ông.

Sau khi Quang Trung mất (16-9-1792 dương lịch), các triều thần sai sứ sang Nhà Thanh dâng biểu giả rằng Mộ vua được chôn tại Tây Hồ gần Bắc Thành để bày tỏ sự "trung thành" với Nhà Thanh[1]. Vua Càn Long tưởng thật tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Cả triều thần nhà Thanh được lệnh làm lễ truy điệu vua Quang Trung. Sứ nhà Thanh sai quan án sát Quảng Tây là Thành Lâm[1] đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng và đọc văn tế. Trong văn tế có câu:

Chầu ngôi Nam cực, Lòng trung nghĩa hết đạo thờ vua Chôn đất Tây hồ

Việc xây lăng và đắp mộ cho Quang Trung là một việc lớn, Triều Tây Sơn thực hiện hết sức bí mật vì những lý do chính trị lúc đó [2]. Ngô Thì Nhậm, một triều thần nhà Tây Sơn vào thời gian này, trong bài Cảm Hoài cho biết Quang Trung có một cung điện tên là Đan Dương, được xây trong một vùng rừng núi được chọn làm nơi đặt thi hài của ông:

Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta

Vị trí của Đan Lăng nằm ở đâu hiện nay không có chút tư liệu xác thực nào còn lưu lại.

Phủ Dương Xuân

Một số nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân[2] gần đây cho rằng Lăng Đan Dương (hay Đan Lăng) nằm gần chùa Thiền Lâm, gần nơi làm việc Thái Sư nhà Tây Sơn Phan Huy Ích. Thêm vào đó, khi Ngọc Hân mất để thực hiện nguyện vọng của bà là được chôn cùng Quang Trung. Trong điều văn của bà có câu: "Bên Đan Lăng quanh quất mạch liên châu". Từ những lời chỉ dẫn của hai cận thần nhà Tây Sơn và nghiên cứu địa hình Phú Xuân, ông Nguyễn Đắc Xuân cho rằng Đan Lăng nằm gần Phủ Dương Xuân, mà hiện nay có thể nằm ở ấp Bình An, Thành phố Huế.

Lăng Ba Vành

Một số nguồn khác[3][4], nhà nghiên cứu Trần Viết Điền cho rằng lăng của Vua Quang Trung nằm ở vị trí của Lăng Ba Vành ở làng Cư Chánh, ngoại ô Huế. Cùng với việc công bố công trình nghiên cứu về Lăng Ba Vành, ông Trần Viết Điền cũng nghiên cứu độ tin cậy của các giả thuyết về lăng mộ Vua Quang Trung. Qua bài[5] phản biện về giả thuyết của ông Nguyễn Đắc Xuân, ông Trần Viết Điền đã đưa ra những đánh giá của mình về độ tin cậy của giả thuyết Nguyễn Đắc Xuân.

Núi Khuân Sơn

Giả thuyết này dựa vào một bài thơ "Kiến Quang Trung linh cữu" (Thấy linh cữu vua Quang Trung)[6] của người đương thời là Lê Triệu (1771-1846), quê ở Lệ Trung, Đại Trung, Hoằng Hóa, Thanh Hóa:

Trấp niên sất sá tẩu phong vân Như thử anh hùng cổ hãn văn Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt "Khuân Sơn" hoạ tại bách niên phần Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận Cô phụ đường đường bát xích thân Quang cảnh nhất ban thành phấn mị Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần!

Dịch thơ (Hồng Phi phiên âm và dịch):

Bao năm thét mắng át phong vân Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác "Khuân Sơn" phần mộ hoạ trăm năm[7] Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận Nỡ phụ đường đường tám thước thân Quang cảnh thảy đều thành cát bụi Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần! [8]

Bài thơ ý miêu tả rắng tác giả đã từng đến viếng Quang Trung tại núi "Khuân Sơn". Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế[6].

Bình Thuận

Một ngôi mộ khác ở xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận cũng được nhiều người tin rằng đó mới chính là mộ của Quang Trung Hoàng đế. Theo đó, do sợ triều Nguyễn phát hiện nên mộ vua được an táng kín đáo trong một khu rừng già, cách xa biển và khu dân cư. Để giữ bí mật, hoàng hậu Lê Ngọc Hân không cho đặt bức tượng nào cạnh mộ vua. Trải qua bao đời, người địa phương gọi ngôi mộ này là "Mả ông Duông", do phát âm trại từ "Mả ông Vua".[9]

Giả thuyết lăng mộ vẫn còn nguyên

Một số nghiên cứu lại sử Nhà Nguyễn (nguồn mô tả việc phá lăng nhiều nhất) gần đây chỉ ra rằng: lăng mộ vua Quang Trung có thể vẫn còn nguyên vẹn, vị vua đầu triều nhà Nguyễn là Gia Long vẫn chưa quật phá mộ của Quang Trung vì tình thế lịch sử[10].

  1. ^ a b Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược Lưu trữ 2008-01-30 tại Wayback Machine
  2. ^ a b Thanh Tùng (31 tháng 3 năm 2007). “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”. Báo Tiền Phong online. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  3. ^ Những bí ẩn về lăng mộ Vua Quang Trung sắp được giải mã ? Lưu trữ 2008-03-07 tại Wayback Machine BaoBinhDinh, truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2008
  4. ^ Nhà vật lý đi tìm mộ vua Quang Trung, Tuổi trẻ Online, truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2008
  5. ^ “Phản biện giả thuyết Nguyễn Đắc Xuân”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2009.
  6. ^ a b Hồng Phi - Hương Nao (ngày 8 tháng 8 năm 2006). “Bài thơ chữ Hán "Nhìn thấy linh cữu Quang Trung" mới tìm thấy”. Báo điện tử Sân khấu Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2008.
  7. ^ Trong nguyên bản "Khuân" là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế 1992) chép: "Núi Khuân Sơn ở phía Nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía Tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía Bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng"
  8. ^ Doanh Tần tức Tần Thủy Hoàng; ý tác giả ví Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thủy Hoàng
  9. ^ Ấn tín nhà Tây Sơn và ngôi mộ thần thái giám
  10. ^ “Có thể mộ Quang Trung chưa bị Gia Long quật phá!”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2008.

9.http://redsvn.net/chum-anh-lang-ba-vanh-noi-nghi-cua-hoang-de-quang-trung/

  • Nguyễn Huệ
  • Nhà Tây Sơn
  • Nguyễn Ánh
  • Nguyễn Đắc Xuân Cung điện Đan Dương thời Quang Trung, đăng trên Vietscience.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Việc_an_táng_Quang_Trung&oldid=68940379”

Vua Quang Trung - vị hoàng đế có số phận rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Sự đặc biệt không chỉ ở sự xuất thân của vua từ một người nông dân áo vải cờ đào, không chỉ ở tài năng quân sự kiệt xuất, mà ngay cái chết của nhà vua cũng khác thường.

Cho đến bây giờ đã qua hơn 200 năm kể từ khi vua băng hà (1792), vẫn không rõ vua mất vì lý do gì, lăng mộ của vua nằm ở đâu. Hồ sơ này muốn trình bày lại toàn cảnh cuộc giải mã “bí ẩn lăng mộ vua Quang Trung” kéo dài ròng rã 80 năm qua.

Từ một gợi ý của linh mục Léopold Cadière - chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H) của Hội Những người bạn của Huế xưa, nhà khảo cứu Nguyễn Thiệu Lâu, giáo sư sử địa Trường trung học Khải Định (tức Trường Quốc Học Huế), đã tìm thấy một ngôi mộ hoang ở vùng đồi núi phía tây nam Huế vào năm 1941.

20 năm sau (1961), ông Lâu đã công bố kết quả cuộc tìm kiếm này trên tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn) số 99 ngày 15/2/1961 với một khẳng định gây sửng sốt: đó là lăng mộ vua Quang Trung.

Gợi ý của linh mục Cadière

“Sở dĩ tôi đi tìm lăng ngài Quang Trung là do cha Cadière, một nhà khảo cứu, đã bảo tôi: “Le tombeau de Nguyễn Huệ est dans la région montagneuse, a l’Ouest de Hue. Cherchez le et vous en ferez une étude”. Dịch ra tiếng Việt như sau: Lăng Nguyễn Huệ ở trong miền núi, phía tây thành phố Huế. Ông hãy đi tìm lăng ấy và ông sẽ khảo cứu”.

Mộ vua quang trung ở đâu

Lăng Ba Vành với ngôi mộ hình mai rùa. Ba vòng thành bao quanh đã bị cây bụi phủ kín.

Tại vùng đồi gần lăng Khải Định, giáo sư Lâu đã tìm thấy một ngôi mộ hoang bị đào bới, bao quanh là ba vòng thành, có một tấm bia bằng đá bị ai đó dùng búa rập lên các chữ Hán. Giáo sư Lâu khẳng định đây là lăng vua Quang Trung đã bị vua Gia Long cho đào bới, đập phá.

Bài báo được viết theo kiểu bút ký nên không đưa ra các phân tích, đối chiếu tư liệu. Vì vậy, hơn hai tháng sau, cũng trên tạp chí Bách Khoa (số 101 ngày 1/4/1961), tác giả Bửu Kế - bấy giờ là quản thủ thư viện Viện Đại học Huế (sau này là một nhà Huế học rất nổi tiếng) - đã phản biện bằng bài báo “Từ lăng Sọ đến lăng Ba Vành”.

Số là sau khi đọc bài báo của nhà nghiên cứu Nguyễn Thiệu Lâu, ông Bửu Kế đã đi khảo sát các lăng mộ ở phía tây nam Huế, trong đó có lăng Ba Vành và xác định: ở Huế không có lăng của triều Tây Sơn.

Điều khiến người ta lưu ý nhất là việc tác giả Bửu Kế đã tìm thấy trong tu viện Thiên An, nơi cất giữ toàn bộ tư liệu của linh mục L.Cadière (trước khi ông qua đời năm 1955), một tài liệu quan trọng liên quan đến lăng Ba Vành.

Ba Vành là lăng của Ý đức hầu Lê Quang Đại?

Tài liệu quan trọng mà tác giả Bửu Kế tìm thấy là lá thư của linh mục L.Cadière gửi ông R.Orbanb - bấy giờ là quan hội lý Bộ Hộ (một chức quan cai trị của người Pháp làm việc trong Bộ Hộ của triều Nguyễn), trợ bút của tạp chí B.A.V.H - nhờ xác minh: ai là người được chôn trong lăng Ba Vành; vì sao có việc đào và đốt người dưới mộ, đập phá bia; ngôi mộ sau này đưa vào đó là của ai?

Ông R.Orbanb yêu cầu Bộ Lễ triều Nguyễn xác minh và bộ này đã trả lời bằng phúc thư, cho biết đã giao phủ Thừa Thiên hỏi làng Cư Chánh (địa bàn tọa lạc lăng Ba Vành). Lý trưởng làng Cư Chánh trả lời: vào năm Thành Thái 13 (1901), lý trưởng của làng là ông Nguyễn Bút đã cho phép ông Vũ Bá Khương, một vị quan của Cơ mật viện triều Nguyễn, đưa người thân của mình vào chôn ở đó (tức ngôi mộ nhỏ mới chôn sau này, nằm phía trước ngôi mộ bị đào - PV).

Mộ vua quang trung ở đâu

Công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Hữu Đính.

Ông Khương khai lăng Ba Vành nguyên là của vị quan thượng thư Hộ Bộ kiêm Binh Bộ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, tên là Lê Quang Đại, tước hiệu Ý đức hầu, người làng Đồng Di (huyện Phú Vang).

Từ các tư liệu này, tác giả Bửu Kế đi đến kết luận: “Ta tạm tin rằng lăng Ba Vành không phải là lăng của vua Quang Trung”. 13 năm sau, trên tạp chí Đại Chúng số 1-1974, tác giả Lê Văn Hoàng (thư ký hội đồng kiểm kê, sắp xếp văn thư của nội các triều Nguyễn thời Bảo Đại) lại tiếp tục “Nói về lăng Ba Vành”. Bài báo này tiếp tục khẳng định: “Ngôi mộ (Ba Vành) chắc chắn trăm phần trăm không phải là mộ của vua Quang Trung”.

Với lời khẳng định “chắc như đinh đóng cột” của hai học giả uy tín về lăng Ba Vành, tưởng rằng việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung phải chuyển sang hướng khác. Nhưng không phải như vậy.

Lời giải đầu tiên về lăng Ba Vành

Năm 1975, ngay sau ngày giải phóng, kỹ sư lâm học Nguyễn Hữu Đính - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TP Huế - đã trở lại khảo sát lăng Ba Vành mà theo lời ông là “có vị trí, hình dáng và quy mô rất kỳ lạ”. Đến thời điểm này đã có bảy bài báo viết về lăng Ba Vành, nhưng có đến sáu bài phủ nhận là lăng Quang Trung. Điều đó lại thôi thúc ông Đính vào cuộc một cách quyết liệt và bài bản hơn.

Niềm tin của ông Đính nhân lên khi ông gặp được một nhân chứng rất quan trọng, đó là cụ Hoàng Viếng - thư ký riêng của linh mục L.Cadière vào những năm cuối đời. Cụ Viếng cho biết một lần vào năm 1955, linh cảm vị linh mục này sắp ra đi, ông Viếng đã hỏi: “Thưa cha, người ta nói lăng Ba Vành là lăng Quang Trung phải không?”.

L.Cadière trả lời: “Phải, phải”. Độ một tháng sau thì L.Cadière qua đời (6/7/1955, tại Huế, thọ 86 tuổi). Ngày 17/4/1986, ông Đính hoàn tất công trình khảo cứu “Lăng vua Quang Trung ở đâu? Lăng Ba Vành ở làng Cư Chánh, Huế có phải là lăng vua Quang Trung không?”.

Một ngày đầu năm 2016, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan cho chúng tôi xem bản thảo công trình nghiên cứu của thân phụ mình. Tác giả Nguyễn Hữu Đính đi đến kết luận: lăng Ba Vành không phải của vị quan có tên Lê Quang Đại.

Bởi vì quy mô lăng của một vị quan Hộ Bộ kiêm Binh Bộ không thể lớn hơn cả lăng các chúa Nguyễn, cũng như các vị quan đương thời có chức tước to hơn ông ta. Lăng Ba Vành là một ngôi lăng ngụy trang.

Theo ông Đính, ý đồ ngụy trang thể hiện qua việc sửa ngày tháng, niên hiệu phụng lập lăng ghi trên bia, khiến người ta tin rằng đó là lăng của Ý đức hầu Lê Quang Đại. Lăng Ba Vành chính là lăng của vua Quang Trung. Vua Gia Long khi chiếm lại ngôi từ nhà Tây Sơn đã cho quật mồ, lấy xác vua Quang Trung lên để trừng trị. Dấu vết ngôi mộ bị đào bới vẫn còn ở lăng Ba Vành.

Ông Đính còn đưa ra một phát hiện mới. Đó là các bài thơ của Ngô Thì Nhậm - một vị quan cận thần của vua Quang Trung - có một câu trong bài Cảm Hoài nhắc đến: “Đan Dương cung điện nhật tam thu”, một bài khác có tựa đề Khâm vãn Đan Dương lăng.

Như vậy, theo ông Đính, lăng vua Quang Trung có tên là Đan Dương. Đan Dương lăng chính là lăng Ba Vành. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Châu Phan cho biết ông Đính đã gửi bản thảo công trình nghiên cứu lăng Ba Vành đến các cơ quan chức năng. Nhưng ông không nhận được một phúc đáp nào cả cho đến khi qua đời năm 1995.

Tưởng rằng lời giải bài toán lăng Ba Vành cũng chìm vào quên lãng cùng với sự ra đi của cụ già Nguyễn Hữu Đính, nhưng đã có một người trẻ tuổi hăng hái nhập cuộc. Đó là một thầy giáo vật lý...