Nguyên nhân dẫn đến thay đổi ngưỡng nghèo

Nguyên nhân dẫn đến thay đổi ngưỡng nghèo

Ông Ngô trường Thi, Vụ trưởng, Chánh VPQG về giảm nghèo phát biểu với lớp tập huấn cán bộ giảm nghèo cấp tỉnh tổ chức tại tỉnh Quảng Nam khi đi thực tế tại huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam 

Trong thời gian qua, ở nước ta việc đánh giá nghèo đói hoàn toàn dựa vào các tiêu chí thu nhập, trong đó chuẩn nghèo được xác định theo phương pháp “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”. Các nhu cầu cơ bản bao gồm chi cho nhu cầu tối thiểu về lương thực/thực phẩm và chi cho những nhu cầu phi lương thực/thực phẩm thiết yếu (giáo dục, y tế, nhà ở...). Cách tiếp cận theo thu nhập này không phù hợp với tính đa chiều của nghèo đói. Bời vì, trong đánh giá một số chỉ tiêu về nhu cầu cơ bản của con người không thể lượng hóa được bằng tiền như (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường, đường xá và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế/giáo dục công v.v...), mặt khác với các hộ có có thu nhập trên chuẩn nghèo thì trong một số trường hợp thu nhập đó sẽ không được chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu; vì những lý do như không tiếp cận được dịch vụ tại nơi sinh sống, hoặc thay vì chi tiêu cho giáo dục hoặc y tế, thu nhập có thể bị chi cho thuốc lá, bia rượu và các mục đích khác. Do đó, việc áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều sẽ khắc phục được những nhược điểm trong phương pháp tiếp cận cũ, đồng thời giải quyết nhu cầu thực tế mà người nghèo, cận nghèo cần trợ giúp thực sự.

Khái niệm nghèo - nghèo đa chiều

Theo Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa sự không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn” (Tuyên bố Liên hợp quốc, 6/2008, được lãnh đạo của tất cả các tổ chức UN thông qua). Tại hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban Kinh tế Xã hội Khu vực Châu á- Thái bình dương (ESCAP) tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9 năm 1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao rằng: "Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những như cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội,  phong tục tập quán của  từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận." Còn theo  Amartya Kumar Sen, nhà Kinh tế học Ấn Độ (đoạt giải Nobel Kinh tế) thì: Để tồn tại, con người cần có những nhu cầu vật chất và tinh thần tối thiểu; dưới mức tối thiểu này, con người sẽ bị coi là đang sống trong nghèo nàn. Như vậy, các khái niệm trên cho thấy sự thống nhất cao của các quốc gia, các nhà chính trị và các học giả cho rằng nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt/không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Do vậy, để đo lường nghèo đói theo cách tiếp cận đa chiều, cần kết hợp đồng thời nhiều chiều/chỉ số để nắm bắt được thiếu hụt về các nhu cầu cơ bản khác nhau, đồng thời cung cấp thông tin toàn diện phục vụ cho giảm nghèo, tăng cường an sinh, và phát triển xã hội. 

Ở nước ta, cách tiếp cận nghèo đa chiều cũng dựa trên cách tiếp cận của thế giới nhưng có những điểm cần lưu ý trong quá trình vận dụng để đánh giá, đo lường nghèo đa chiều. Thời gian qua, chuẩn nghèo, tỷ lệ nghèo và xác định đối tượng nghèo ở Việt Nam hoàn toàn dựa vào các tiêu chí thu nhập, trong đó chuẩn nghèo được xác định theo phương pháp “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”. Các nhu cầu cơ bản bao gồm chi cho nhu cầu tối thiểu về lương thực/thực phẩm và chi cho những nhu cầu phi lương thực/thực phẩm thiết yếu (giáo dục, y tế, nhà ở...). Cách tiếp cận theo thu nhập này không phù hợp với tính đa chiều của nghèo đói, bởi vì: Thứ nhất, một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường, đường xá và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế/giáo dục công v.v...). Thứ hai, với các hộ có có thu nhập trên chuẩn nghèo thì trong một số trường hợp thu nhập đó sẽ không được chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu; vì những lý do như không tiếp cận được dịch vụ tại nơi sinh sống, hoặc thay vì chi tiêu cho giáo dục hoặc y tế, thu nhập có thể bị chi cho thuốc lá, bia rượu và các mục đích khác. Đặc biệt, khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010 với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa và di cư rất nhanh, phương pháp này càng bộc lộ nhiều hạn chế.  

Mặc dù các chính sách giảm nghèo đã bao phủ được nhiều mặt đời sống của người nghèo (nhóm chính sách hỗ trợ sinh kế, hỗ trợ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, điều kiện và môi trường sống, trợ giúp thông tin...), nhưng cách tiếp cận theo thu nhập hiện tại đã dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng, nhận diện nghèo và phân loại đối tượng chưa chính xác, từ đó chính sách hỗ trợ mang tính cào bằng và chưa phù hợp với nhu cầu. Đồng thời các chương trình và chính sách hỗ trợ giảm nghèo bị chồng chéo về đối tượng và nội dung hỗ trợ, phân tán và manh mún, gây kém hiệu quả. Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo hiệu quả, bền vững hơn, vừa qua, Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Nghị quyết về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu (thu nhập) và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản". Và Chính phủ cũng đã chỉ đạo, giao cho Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu xây dựng Đề án tổng thể về đổi mới phương pháp tiếp cận nghèo đói ở Việt nam từ đơn chiều sang đa chiều, trình Chính phủ xem xét vào cuối năm 2014.

Cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều ở Việc Nam

Về nguyên tắc chung, thứ nhất là cách tiếp cận nghèo đa chiều tại Việt Nam là cách tiếp cận theo quyền nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Các nhu cầu cơ bản này được coi là quan trọng ngang bằng nhau[1] và con người có quyền được đáp ứng tất cả các nhu cầu này để có thể đảm bảo một cuộc sống bình thường. Cách tiếp cận này khác một cách cơ bản với cách tiếp cận đơn chiều dựa trên thu nhập trong đó coi thu nhập bằng tiền là tiêu chí duy nhất đại diện cho nhu cầu của con người. Các văn bản pháp luật cơ bản làm cơ sở định hướng cho xây dựng phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều ở Việt Nam là Hiến pháp sửa đổi năm 2013, trong đó Điều 34 có quy định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Nghị quyết 15-NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020: đưa ra các nhiệm vụ về đảm bảo an sinh xã hội trong đó có đáp ứng các nhu cầu tối thiểu về y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và thông tin. Nghị quyết 76/2014/QH13 của Quốc hội chỉ đạo định hướng "xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản". thứ hai là trong qua trình chuyển đổi phương pháp tiếp cập đo lường nghèo từ đơn chiều sang nghèo đa chiều, chuẩn nghèo đa chiều và chuẩn nghèo thu nhập sẽ được sử dụng song song. Chuẩn nghèo đa chiều sử dụng để phản ánh ngưỡng thiếu hụt về các nhu cầu cơ bản của con người Việt Nam. Chuẩn nghèo thu nhập thể hiện mức sống bằng tiền. Chuẩn thu nhập sẽ được dùng làm như tiêu chí bổ sung để phân loại đối tượng nghèo đa chiều thành cách đối tượng ưu tiên chính sách. Thứ ba là khi tiếp cận nghèo đa chiều phân tách rõ ràng 3 công việc: đo lường và giám sát nghèo, xác định hộ nghèo, và xác định đối tượng thụ hưởng chính sách. Thứ tư là, đo lường và giám sát nghèo sẽ được tiến hành độc lập bởi cơ quan thống kê và sử dụng các chuẩn nghèo khách quan, được xây dựng trên cơ sở khoa học, nhằm giám sát và đánh giá sự thay đổi tình trạng nghèo qua thời gian, không gian, và đối tượng, cung cấp thông tin cho hoạch định chính sách vĩ mô; cơ quan thống kê sẽ chịu trách nhiệm công bố tỷ lệ nghèo hàng năm, giai đoạn của cả nước cũng như từng địa phương. Thứ năm là, việc xác định hộ nghèo và các đối tượng an sinh xã hội khác được tiến hành bởi ngành Lao động, Thương binh và Xã hội từ nhận diện, lập danh sách phục vụ cho công tác quản lý, xác định đối tượng thụ hưởng, và hoạch định chính sách cả cấp trung ương và địa phương. Thứ sáu là việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách: mỗi chính sách phụ thuộc vào nội dung và nguồn lực cụ thể sẽ xác định đối tượng thụ hưởng tương ứng; các đối tượng thụ hưởng cũng không nhận được sự hỗ trợ như nhau mà tùy thuộc nhu cầu mà sẽ được phân loại hỗ trợ cho phù hợp.

Mục tiêu của Phương pháp đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam

Đó là nhằm đạt được ba mục tiêu cơ bản sau: (1) Đo lường quy mô và mức độ nghèo: Trên cơ sở đó nhằm theo dõi tiến trình giảm nghèo và, đánh giá tác động của các chương trình, chính sách giảm nghèo và phát triển xã hội qua thời gian, giữa các vùng, các nhóm dân cư, đặc biệt là theo các chiều nghèo, đồng thời phục vụ cho hoạch định chương trình, chính sách phù hợp' (2) Xác định đối tượng hộ nghèo: đặc biệt là những hộ nghèo nhất và các thiếu hụt của họ để đặt mục tiêu, thiết lập ưu tiên, xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội hiệu quả, phù hợp với các đối tượng và nhu cầu khác nhau. (3) Xác định đối tượng thụ hưởng chính sách: Thông tin về tình trạng nghèo và đối tượng nghèo kết hợp với các tiêu chí bổ sung khác sẽ giúp từng chương trình, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội xác định được các đối tượng phù hợp nhất cho các hỗ trợ của mình.

Đo lường nghèo đa chiều

Phương pháp luận đo lường nghèo đa chiều của Việt Nam áp dụng phương pháp Alkire&Foster do Tổ chức Sáng kiến phát triển con người và chống nghèo đói Oxford (OPHI) xây dựng. Phương pháp này đã được sử dụng để tính Chỉ số nghèo đa chiều (MPI) trong Báo cáo Phát triển Con người của Liên hợp quốc từ năm 2010. Đây cũng là phương pháp đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đo lường và giám sát nghèo, xác định đối tượng nghèo, đánh giá và xây dựng các chính sách giảm nghèo và phát triển xã hội. Theo phương pháp này, để đo lường nghèo đa chiều cần xác định khái niệm nghèo đa chiều của Việt Nam, xác định đơn vị đo lường là hộ hay người, xác định các chiều thiếu hụt, xác định các chỉ số đo lường và ngưỡng thiếu hụt trong từng chiều, xác định cách tính mức độ thiếu hụt và quy định chuẩn nghèo đa chiều. Như vậy, khái niệm nghèo đa chiều của Việt Nam được hiểu là tình trạng con người không được đáp ứng một số nhu cầu cơ bản trong cuộc sống. Chuẩn nghèo sẽ quy định nếu ở mức độ nào đó không được đáp ứng một số nhu cầu xã hội cơ bản thì một hộ gia đình sẽ bị coi là nghèo đa chiều. Các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013, Nghị quyết 15-NQ/TW, và Nghị quyết 76/2014/QH13 bao gồm nhu cầu y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và thông tin, và an sinh xã hội. Về đơn vị phân tích, Nghèo đa chiều sẽ được đo lường ở cấp hộ do một số lý do sau: Văn hoá gắn kết hộ gia đình ở Việt Nam rất chặt chẽ: các thành viên hộ gia đình chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau khi khó khăn. Đo lường nghèo thu nhập ở Việt Nam cũng tập trung vào cấp hộ gia đình, như tỷ lệ hộ nghèo theo thu nhập; mặt khác, đo lường nghèo đa chiều cấp hộ sẽ có tính so sánh với các thước đo nghèo khác. Một số chỉ số đo lường nghèo đa chiều là chỉ số chỉ có thể đo lường ở cấp hộ mà không có ở cấp cá nhân, ví dụ các chỉ số thể hiện điều kiện nhà ở, điện, nước, vệ sinh, tài sản, v.v... Tuy nhiên, số liệu vẫn cần thu thập ở cấp cá nhân đối với một số chỉ số thiếu hụt để xác định chính sách phù hợp cho cấp cá nhân (ví dụ các chính sách y tế, giáo dục,..). Bên cạnh đó, có thể tổng hợp thông tin hộ thành thông tin của nhóm dân cư hay đơn vị hành chính để xác định những chính sách phù hợp ở cấp cộng đồng (ví dụ các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng trường học, cơ sở y tế cho cấp quận/huyện, tỉnh/thành phố, v.v...).

Các chiều thiếu hụt và chuẩn nghèo đa chiều

Việc lựa chọn các chiều thiếu hụt tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, đối với Việt Nam, các chiều được lựa chọn dựa vào các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013, Nghị quyết 15-NQ/TW, và Nghị quyết 76/2014/QH13. Tổng số bao gồm 5 chiều: y tế, giáo dục, điều kiện sống, việc làm và tiếp cận thông tin (dự kiến). Các chỉ số đo lường của mỗi chiều và ngưỡng thiếu hụt của từng chỉ số, trong đó các chỉ số được xác định theo những nguyên tắc sau: Các chỉ số cần phản ảnh được việc được đáp ứng hay không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản; các chỉ số cụ thể, đo đếm được, đặc biệt khi thu thập số liệu ở quy mô lớn; Ưu tiên lựa chọn chỉ số phản ánh kết quả, hoặc các chỉ số đo lường mức độ tiếp cận và khả năng chi trả các dịch vụ cơ bản; các chỉ số nên nhạy cảm với thay đổi chính sách, có lợi thế về nguồn lực và khả năng thực thi, có tính định hướng chính sách. Về ngưỡng thiếu hụt của từng chỉ số được xác định nhằm phản ánh nhu cầu cơ bản tối thiểu của Việt Nam được thể hiện trong các mục tiêu của các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật lao động, Luật việc làm, Luật bảo hiểm xã hội, Luật giáo dục đào tạo, Luật nhà ở,  Luật bảo hiểm y tế, Luật khám chữa bệnh, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam 2011-2020, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2011-2015, các chiến lược/kế hoạch phát triển ngành. Về điểm số cho các chiều nghèo và chỉ số: Các chiều, thể hiện quyền được đáp ứng các nhóm nhu cầu cơ bản, sẽ được cho điểm bằng nhau, chứng tỏ các nhóm quyền có vai trò quan trọng ngang bằng nhau. Ví dụ: có tất cả 5 chiều, mỗi chiều được 20 điểm, như vậy tổng số điểm thiếu hụt sẽ là 100 điểm. Trong mỗi chiều, các chỉ số cũng được cho điểm bằng nhau. Ví dụ: trong chiều Giáo dục có 2 chỉ số, thì mỗi chỉ số sẽ được 10 điểm. Ở mỗi chỉ số trong chiều Giáo dục này, nếu hộ gia đình không thiếu hụt thì sẽ có điểm bằng 0, nếu thiếu hụt sẽ có điểm bằng 10. Tổng điểm của tất cả các chỉ số thiếu hụt sẽ cộng thành điểm thiếu hụt chung của cả hộ. Nếu điểm thiếu hụt chung này nhiều hơn chuẩn nghèo thì hộ sẽ bị coi là nghèo đa chiều. 

BẢNG TÍNH TOÁN SƠ BỘ CÁC CHIỀU, CHỈ SỐ, NGƯỠNG THIẾU HỤT

CHIỀU

NGHÈO

CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG

NGƯỠNG THIẾU HỤT

ĐIỂM

1) Giáo dục

1.1. Bằng cấp cao nhất của thành viên hộ gia đình từ đủ 15 tuổi đến 30 tuổi

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ đủ từ đủ 15 tuổi đến 30 tuổi hiện không đi học và không có bằng tốt nghiệp Trung học Cơ sở

10

1.2. Tình trạng đi học của trẻ em trong độ tuổi đi học (5- dưới 15 tuổi)

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên hộ gia đình trong độ tuổi đi học (5-dưới 15 tuổi) hiện không đi học

10

2)Y tế

2.1. Tiếp cận các dịch vụ y tế

Hộ gia đình có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh

10

2.2. Bảo hiểm y tế

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên hiện tại không có bảo hiểm y tế

10

3) Điều kiện sống

3.1 Nhà ở

Hộ gia đình đang ở trong nhà:

1. Thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ

Nhà ở phân ở 4 cấp độ: nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ

Hoặc

2. Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn  8m2

8

3.2 Nguồn nước sinh hoạt

Hộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh

6

3.3. Hố xí

Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh

6

4) Việc làm

4.1 Việc làm

Hộ gia đình có ít nhất một thành viên trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp

10

4.2. Bảo hiểm xã hội

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên có việc làm nhưng không có bảo hiểm xã hội

10

5)Tiếp cận thông tin

5.1 Tiếp cận dịch vụ viễn thông

Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng  điện thoại và internet

10

5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin

Hộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản: Ti vi, radio, máy tính

10

Chuẩn nghèo đa chiều

Chuẩn nghèo đa chiều tức là mức độ thiếu hụt mà nếu hộ thiếu nhiều hơn mức độ này thì bị coi là nghèo đa chiều. Theo chuẩn nghèo đa chiều quốc tế, một hộ gia đình thiếu 1/3 tổng điểm thiếu hụt trở lên sẽ bị coi là nghèo đa chiều. Chuẩn này sẽ được giữ không thay đổi trong thời gian quy định, không phụ thuộc vào lượng ngân sách có sẵn, không thay đổi khi thay đổi mục tiêu hay khi tình hình thay đổi do tác dộng chính sách. Có thể quy định chuẩn cận nghèo đa chiều, và chuẩn nghèo đa chiều nghiêm trọng. Trong giai đoạn 2015-2020, Chuẩn nghèo đa chiều được xác định như sau (dự kiến): Một hộ gia đình được coi là hộ nghèo đa chiều nếu hộ gia đình thiếu từ 2/5 tổng số nhu cầu cơ bản trở lên (40 điểm trở lên). Một hộ gia đình được coi là hộ cận nghèo đa chiều nếu hộ gia đình thiếu từ 1/5 đến 2/5 tổng số nhu cầu cơ bản (20 đến 40 điểm). Một hộ gia đình được coi là hộ nghèo đa chiều nghiêm trọng nếu hộ gia đình thiếu từ 3/5  tổng số nhu cầu cơ bản trở lên (60 điểm trở lên).

Đo lường nghèo thu nhập: Theo tinh thần Nghị quyết 15-NQ/TW và nghị quyết 76/2014/QH13, cần tiến hành nghiên cứu và xây dựng chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập. Mức sống tối thiểu là mức thu nhập nhằm đáp ứng chi trả những nhu cầu tối thiểu nhất mà mỗi người cần phải có để sinh sống. Chuẩn mức sống tối thiểu được xây dựng dựa trên cơ sở các nhu cầu tối thiểu về tiêu dùng lương thực thực phẩm và nhu cầu chi tiêu phi lương thực, thực phẩm. Đây là tiêu chí mang tính khách quan, không phụ thuộc vào khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước, còn được gọi là chuẩn phúc lợi xã hội đầy đủ. Đồng thời, cần tiến hành xây dựng chuẩn hỗ trợ chính sách (hoặc chuẩn nghèo cùng cực) là mức độ tối thiểu cần thiết để đáp ứng nhu cầu đơn giản của con người, phù hợp với khả năng cân đối ngân sách, tuy nhiên không được thấp hơn 1,25 USD/người ngày theo tỷ giá qui đổi tương đương (PPP). Về vai trò của các bên có liên quan: Tổng cục Thống kê chịu trách nhiệm thu thập số liệu để đo lường nghèo thu nhập thông qua Khảo sát mẫu mức sống hộ gia đình 2 năm 1 lần, công bố tỷ lệ hộ nghèo đa chiều; Chủ trì phối hợp với Bộ LĐTBXH xây dựng chuẩn mức sống tối thiểu theo phương pháp xây dựng chuẩn nghèo thu nhập khoa học. Bộ LĐTBXH chủ trì phối hợp với Tổng cục thống kê và các bộ ngành có liên quan xây dựng Chuẩn mức sống cùng cực (chuẩn chính sách) dựa vào mức độ khả thi ngân sách cho các chính sách hỗ trợ.

Xác định hộ nghèo - Danh sách hộ nghèo: Công tác xác định hộ nghèo sẽ được ngành Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện. Bộ LĐTBXH xây dựng hướng dẫn quy trình xác định hộ nghèo và giám sát việc thực hiện tại các địa phương. Quy trình xác định hộ nghèo này sẽ dựa trên hai nhóm chuẩn nghèo đa chiều (nghèo, cận nghèo, nghiêm trọng) và chuẩn nghèo thu nhập (chuẩn mức sống tối thiểu, chuẩn mức sống cùng cực). Ngoài ra tỉnh/thành phố sẽ được hướng dẫn cho phép có chuẩn nghèo của riêng mình, ví dụ đặt ngưỡng cao hơn của TW, tùy thuộc vào khả năng và đặc điểm của địa phương. Các địa phương (tỉnh/thành phố) chịu trách nhiệm xác định danh sách hộ nghèo của địa phương theo các chuẩn nghèo đa chiều và thu nhập ở trên. Sản phẩm của quá trình này sẽ là một Danh sách nghèo tổng thể bao gồm các danh sách nhỏ của hộ nghèo đa chiều, cận nghèo đa chiều, nghèo đa chiều nghiêm trọng, nghèo thu nhập theo các chuẩn khác nhau, nghèo theo từng chỉ số thiếu hụt (Xem Bảng1).

Bảng 1. Danh sách hộ nghèo tỉnh/thành phố...năm....

Hộ

Giáo dục

Y tế

......

Nghèo đa chiều

Nghèo thu nhập

Bằng tốt nghiệp THCS

Trẻ em trong độ tuổi đi học (5-17 tuổi) hiện không đi học

Thiếu bảo hiểm y tế

Ốm đau không được khám chữa bệnh

...

Nghèo

(thiếu từ 2/5 nhu cầu cơ bản)

Cận nghèo

(thiếu 1/5 NCCB

Nghiêm trọng

(thiếu từ 3/5 nhu cầu cơ bản)

Mức sống tối thiểu

Cùng cực

(Chuẩn chính sách)

Hộ 1

x

x

x

x

x

Hộ 2

x

x

x

x

x

Hộ 3

x

x

x

x

x

.....

Tổng số

Tỷ lệ

Lưu ý rằng: Đây là danh sách nghèo tổng thể, nhận diện tất cả các hộ nghèo/thiếu hụt khác nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các hộ trong danh sách này sẽ được hỗ trợ hoặc được hỗ trợ như nhau. Danh sách này sẽ làm cơ sở cho việc xác định đối tượng thụ hưởng của các chính sách khác nhau, cả của TW và địa phương, đồng thời hoạch định chính sách ở cấp địa phương (tỉnh, huyện, xã).

Về tổ chức xác định hộ nghèo, thực hiện tương tự như quy trình xác định hộ nghèo thu nhập đang được thực hiện tại các địa phương, Bộ LĐTBXH sẽ xây dựng công cụ xác định hộ nghèo đa chiều, hướng dẫn cho các địa phương tiến hành thu thập số liệu, phân loại và cập nhật thông tin về đối tượng. Dự kiến có tổng rà soát hộ nghèo vào năm 2015, sau đó cứ 2 năm 1 lần các địa phương tiến hành cập nhật thông tin và rà soát bổ sung đối tượng.

Xác định đối tượng thụ hưởng chính sách

Việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội ở cả cấp TW và địa phương sẽ phụ thuộc vào ngân sách và nội dung của các chính sách. Như đã nói ở trên, không phải tất cả các hộ trong Danh sách hộ nghèo phân loại nêu trên đều trong diện thụ hưởng của các chương trình, chính sách, đặc biệt là chương trình giảm nghèo. Hơn nữa, với các hộ trong diện thụ hưởng, không phải hộ nào cũng được hỗ trợ như nhau; căn cứ vào mức độ thiếu hụt và nhu cầu thực tế của đối tượng, áp dụng chính sách hỗ trợ có điều kiện, có thời gian, hạn chế tính ỷ lại.

Chương trình giảm nghèo có thể có tiêu chí riêng cho từng chính sách phù hợp, ví dụ đối tượng trong diện hỗ trợ ưu tiên là các hộ gia đình nghèo đa chiều, cộng với nghèo thu nhập cùng cực. Chương trình bảo hiểm y tế có thể xác định đối tượng thụ hưởng là các hộ gia đình nghèo về chỉ số Bảo hiểm y tế kết hợp với điều kiện dưới mức sống trung bình về thu nhập v.v... Tương tự, các địa phương khác nhau có thể xác định các đối tượng cho các chính sách khác nhau dựa vào danh sách nghèo này.

Tùy thuộc mỗi chính sách mà việc xác định đối tượng hỗ trợ sẽ khác nhau. Các nhóm cơ bản có thể được phân loại ở đây là: (1) Nhóm hộ nghèo đa chiều: có hơn 40 điểm thiếu hụt'; (2) Nhóm hộ nghèo thu nhập: có thu nhập bình quân thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập; (3) Nhóm hộ nghèo cùng cực: là hộ nghèo đa chiều và có thu nhập bình quân thấp hơn chuẩn thu nhập cùng cực; (4) Nhóm hộ nghèo: có thu nhập bình quân thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu nhưng cao hơn chuẩn cùng cực và có thiếu hụt các nhu cầu cơ bản; (5) Nhóm hộ cận nghèo: có thu nhập bình quân thấp hơn chuẩn mức sống trung bình nhưng cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu và có thiếu hụt các nhu cầu cơ bản...

Như vậy, có thể thấy ở đây hai chuẩn khách quan và không thay đổi là chuẩn nghèo đa chiều và chuẩn mức sống tối thiểu sẽ không bị tác động bởi ngân sách, còn gọi là chuẩn giám sát. Các chuẩn khác có thể tùy thuộc mục đích, phạm vi chương trình và mức độ ngân sách để tăng lên hoặc giảm xuống cho phù hợp. Quá trình áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, các chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung, được thực hiện theo diện phổ cập, trong thời gian qua đã chứng minh có tác động rất hiệu quả đến tốc độ giảm nghèo, do vậy không nhất thiết phải xác định đối tượng hỗ trợ./.