Nội dung quản lý nhà nước về an ninh trật tự

Chiều 8/9, tại Hà Nội, Bộ Công an và Uỷ ban Quốc phòng và An Ninh [QP và AN] của Quốc hội tổ chức cuộc họp để thông báo về Chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2022, dự kiến Chương trình xây dựng Pháp luật, Pháp lệnh toàn khoá do Bộ Công an đề nghị và tổ chức Lễ Ký Quy chế phối hợp công tác giữa hai cơ quan.

Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Thiếu tướng Lê Tấn Tới, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban QP và AN của Quốc hội đồng chủ trì buổi lễ.

Dự buổi lễ có Thượng tướng Trần Quang Phương, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; Thượng tướng Nguyễn Văn Sơn, Thứ trưởng Bộ Công an; Trung tướng Trần Quốc Tỏ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an…

Bộ trưởng Tô Lâm cùng Chủ nhiệm Uỷ ban QP và AN của Quốc hội Lê Tấn Tới ký kết Quy chế phối hợp công tác.

Ngày 20/6/2013, Uỷ ban QP và AN của Quốc hội cùng Bộ Công an đã ký Quy chế phối hợp công tác. Sau hơn 8 năm thực hiện quy chế, công tác phối hợp giữa hai cơ quan đã được tăng cường và đạt nhiều kết quả tốt đẹp, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát, khảo sát và trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên.

Cụ thể, đã phối hợp xây dựng, thẩm tra chỉnh lý 14 luật, 2 pháp lệnh, 3 nghị quyết, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, đảm bảo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ An ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng CAND ngày càng vững mạnh.

Bộ trưởng Tô Lâm phát biểu tại buổi lễ.

Hai cơ quan đã tích cực chủ động phối hợp giám sát, khảo sát các nội dung có liên quan đến thực hiện chính sách, pháp luật về an ninh, trật tự và bảo đảm chế độ chính sách cho CAND. Đồng thời, phối hợp có hiệu quả trong hoạt động cung cấp trao đổi thông tin giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, theo đúng quy định của pháp luật…

Nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ phối hợp giữa Uỷ ban QP và AN của Quốc hội với Bộ Công an theo nguyên tắc chủ động thường xuyên kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; triển khai, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ có liên quan đến trách nhiệm của hai cơ quan trong thời gian tới, tại buổi lễ, Bộ trưởng Tô Lâm và Chủ nhiệm Uỷ ban QP và AN của Quốc hội Lê Tấn Tới đã ký quy chế phối hợp công tác. Theo đó, quy chế mới gồm 3 chương, 25 điều, đã bổ sung 3 điều, sửa đổi bổ sung 22 điều, khắc phục những bất cập, hạn chế của Quy chế phối hợp năm 2013.

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương phát biểu tại buổi lễ

Tại buổi lễ, Thiếu tướng Lê Tấn Tới khẳng định, việc xây dựng Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban QP và AN của Quốc hội và Bộ Công an là yêu cầu cần thiết đặt ra hiện nay. Vì Quy chế cũ từ năm 2013 đến nay đã có những thay đổi cả về lý luận và thực tiễn đặt ra. Quy chế được ký kết vừa là cơ sở để các cơ quan chuyên môn làm việc, trao đổi thông tin kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra; vừa để gắn kết tình cảm giữa Uỷ ban QP và AN của Quốc hội với các cơ quan chức năng của Bộ Công an.

Chủ nhiệm Uỷ ban QP và AN của Quốc hội Lê Tấn Tới phát biểu tại buổi lễ.

Đồng chí Trần Quang Phương bày tỏ vui mừng khi dự và chứng kiến Lễ Ký kết giữa Bộ Công an và Uỷ ban QP và AN; đánh giá cao hai cơ quan đã hoàn thiện dự thảo Quy chế phối hợp, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mình theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong thời gian tới, hai bên cần phải xác định cụ thể các hoạt động phối hợp, nội dung phối hợp, trình tự thực hiện; không chỉ chủ động phối hợp giữa hai cơ quan, mà có thêm nhiều ý kiến đóng góp trong hoạt động chung của Quốc hội.

Bộ trưởng Tô Lâm trao Kỷ niệm chương Bảo vệ An ninh Tổ quốc tặng đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội, các đồng chí Thường trực Uỷ ban QP và AN của Quốc hội, Vụ QP và AN, Văn phòng Quốc hội.

Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa Bộ Công an và Uỷ ban QP và AN trong các nhiệm kỳ của Quốc hội. Trong nhiệm kỳ tới, Bộ Công an tiếp tục coi nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý, chính sách pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự và các mặt công tác Công an.

Bộ trưởng Tô Lâm tin tưởng, thông qua Quy chế mới này, trong thời gian tới, quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan sẽ tiếp tục được củng cố, tăng cường và hiệu quả hơn.

Bộ trưởng Tô Lâm , Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cùng các đại biểu dự buổi lễ.

Cũng tại buổi lễ, Bộ trưởng Tô Lâm đã trao Kỷ niệm chương Bảo vệ An ninh Tổ quốc tặng đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội, các đồng chí Thường trực Uỷ ban QP và AN của Quốc hội, Vụ QP và AN, Văn phòng Quốc hội…

Vũ Linh

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀIANCT An ninh chính trịANQG An ninh quốc giaANTT An ninh trật tựBCA Bộ Công anCATP Công an thành phốCSND Cảnh sát nhân dânMTTQ Mặt trận Tổ QuốcPCCC Phòng cháy chữa cháyQĐ Quyết địnhQLNN Quản lý nhà nướcTTATGT Trật tự an toàn giao thôngTTATXH Trật tự an toàn xã hộiTTCC Trật tự công cộngTTĐT Trật tự đô thịTTGT Trật tự giao thôngTTXH Trật tự xã hộiUBND Ủy ban nhân dânMỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiGiữ vững An ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác; giữ gìn Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [14, Tr 86-87].Do vậy, Quản lý Nhà nước về An ninh quốc gia và Trật tự an toàn xã hội là một hoạt động quan trọng, luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Chúng ta biết rằng, lực lượng Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội. Thực tế những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của Công an các cấp, cán bộ, chiến sĩ công an phường Dịch Vọng đã làm tốt công tác quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường: tình hình an ninh chính trị được giữ vững , trật tự an toàn xã hội luôn luôn được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn còn có những thiếu sót, bộc lộ những bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại phường: công tác giữ gìn an ninh trật tự chưa được thực hiện thường xuyên, sự quản lý về trật tự an toàn xã hội chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ phận, ban, ngành liên quan, nên có những trường hợp vi phạm pháp luật không được xử lý nghiêm túc, làm mất lòng tin của dân. Có những đồng chí nhận thức về công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm , nên khi thực hiện các biện pháp công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó công tác xử lý chưa kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm pháp luật trên địa bàn của phường. Mặt khác, Công an Phường cũng chưa huy 2động được đông đảo và phát huy tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong phường tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn Trật tự an toàn xã hội, mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan đến trật tự an ninh chưa được tiến hành một cách đồng bộ nên đã làm hạn chế hiệu quả, hiệu lực Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại địa bàn phường Dịch Vọng.Với những đặc điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại phường Dịch Vọng, đề tài được tiến hành nghiên cứu, nhằm tổng kết, khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tìm ra những giải pháp, đóng góp kinh nghiệm để tăng cường công tác quản lý, giữ gìn TTATXH của cán bộ chiến sĩ công an phường Dịch Vọng. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường Dịch Vọng hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.2. Tình hình nghiên cứu đề tàiCho đến nay, lý luận Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội đã được đề cập đến nhiều trong các giáo trình dành cho chuyên ngành pháp luật như: Quản lý nhà nước về an ninh trật tự [ Chủ biên: Trần Viết Long và tập thể tác giả Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội - 2007]; Một số vấn đề lí luận cơ bản quản lý nhà nước về An ninh trật tự [Lê Ngọc Thanh – Đại Học Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội - 1996]; Một số lí luận cơ bản về hoạt động nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính [Chủ biên: TS Vũ Văn Hiền – Học Viện Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội - 2003]; Kỹ năng giao tiếp của cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội [Chủ biên: PGS. TS Đinh Trọng Hoàn – NXB Công An Nhân Dân - 2009]; Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội [Chỉ đạo biên soạn: Đại tá Phạm Văn Đức – NXB Công An Nhân dân, Hà Nội – 1998] Ngoài ra, cũng có không ít bài viết của các tác giả trong và ngoài ngành đã đề cập đến vấn đề này. Những công trình trên chính 3là cơ sở lý luận để tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện nội dung của luận văn này.Trong phạm vi các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ trước đây, cũng đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau liên quan đến Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đề tài “Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường Dịch Vọng hiện nay”. Có thể nói, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu3.1. Mục đích nghiên cứuTrên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế của công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn phường Dịch Vọng cùng với những nguyên nhân của thành công và hạn chế, luận văn xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự tại địa phương.3.2 Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội Phân tích đánh giá đúng thực trạng công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại phường Dịch Vọng. Rút ra những ưu diểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu xót đang đặt ra đối với công tác này trên địa bàn phường Dịch Vọng.4Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường Dịch Vọng.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu4.1. Đối tượng nghiên cứuĐề tài tập trung nghiên cứu hoạt động Quản lý Nhà nước của cán bộ, chiến sĩ Công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội tại địa phương. 4.2. Phạm vi nghiên cứuLuận văn tập trung nghiên cứu công tác Quản lý Nhà nước trên lĩnh vực đảm bảo, giữ gìn Trật tự an toàn xã hội của lực lượng công an nhân dân trên địa bàn phường Dịch Vọng trong thời gian từ 2006 đến nay. 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu5.1. Cơ sở lí luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về trật tự an toàn xã hội và công tác quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.5.2. Phương pháp nghiên cứuPhương pháp nghiên cứu tài liệu được dựng để nghiên cứu cỏc công trình khoa học đã được công bố, sách, giáo trình liên quan đến Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng kết và khảo sát thực tế về tình hình trật tự an toàn xã hội và công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này tại địa bàn phường Dịch Vọng.Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá, nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của công tác quản lý trật tự an toàn xã hội của cán bộ, chiến sĩ công an phường Dịch Vọng.56. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của để tài6.1. Ý nghĩa lý luậnLuận văn làm phong phú hơn những lý luận liên quan quản lý nhà nước về Trật tự an toàn xã hội, từ đó giúp cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Công an nhân dân rút ra nhận thức chung về vấn đề này để từng bước nâng cao hiệu quả công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cán bộ công an phường nói chung và công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội nói riêng rút ra được những kinh nghiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn phường mình quản lý, trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp để tăng cường công tác QLNN về TTATXH ở địa phương. Đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu về lĩnh vực này.Ngòai ra, việc nghiên cứu đề tài giúp tác giả củng cố thêm hệ thống nghiệp vụ lý luận Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội, nâng cao trình độ lý luận và khả năng ứng dụng vào thực tiễn công tác, đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của xã hội trong thời kỳ mới.7. Cấu trúc của luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, phần nội dung được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết. 6CHƯƠNG ICƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚCVỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG1.1. Khái niệm và mục đích Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội1.1.1. Khái niệm Trật tự an toàn xã hội Trong một số tài liệu, từ điển, bài viết , thuật ngữ Trật tự an toàn xã hội được hiểu một cách phổ biến nghĩa là chỉ sự hoạt động ổn định hài hòa của các thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật tự xã hội nhằm duy trì sự phát triển xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội là các thiết chế xã hội. Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định, cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Cũng có tác giả tách thuật ngữ Trật tự an toàn thành hai vấn đề riêng biệt là trật tự và an toàn để định nghĩa. Chẳng hạn: “Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau An toàn là yên ổn trọn vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn.” [Nguyễn Lân: Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt. Nxb Văn học. Hà Nội 2003, Tr 16, 704]. Trật tự công cộng [ xã hội] còn được hiểu là: Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của Trật tự an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người [3, Tr 1183].7Như vậy, nói đến trật tự, an toàn xã hội là nói đến tình trạng [trạng thái] ổn định , có trật tự, kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được xác lập trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành [được gọi là những quy phạm pháp luật] và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức truyền thống được mọi người trong xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ và nhờ đó mà mọi người có được cuộc sống yên ổn. Nói cách khác: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. Công tác đảm bảo Trật tự an toàn xã hội là giữ gìn trạng thái bình yên, an toàn, có trật tư, kỷ cương của xã hội, là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn và các hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến trạng thái đó.Dưới góc độ đảm bảo an ninh, trật tự, khái niệm Trật tự, an toàn xã hội được định nghĩa như sau: Là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. Đấu tranh giữ gìn Trật tự an toàn xã hội bao gồm: giữ gìn trật tự nơi công cộng; đảm bảo trật tự an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường Bảo vệ Trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường [3, Tr 1182].Dự đứng ở góc độ nghiên cứu nào, chúng ta cũng thấy có sự thống nhất trong đánh giá về nội hàm của khái niệm Trật tự an toàn xã hội, điều đó được thể hiện trên những dấu hiệu căn bản sau:- Đó là một trạng thái trật tự, nề nếp, kỷ cương, bình yên của xã hội.8- Trạng thái này chỉ đạt tới độ vững chắc khi được thiết lập trên cơ sở sự tự giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi người trong xã hội - Là kết quả tổng hợp của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội; công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên nhiều llĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.- Công tác bảo đảm Trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt. 1.1.2. Khái niệm Quản lý nhà nướcQuản lý là một hoạt động có từ lâu đời trong xã hội. Nói đến hoạt động quản lý trong xã hội là trực tiếp đề cập đến sự tác động, chỉ huy, điểu khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng với ý chí của chủ thể quản lý. Như vậy, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý bằng các hình thức và biện pháp nhằm đạt được mục đích đã đề ra, trong đó, chủ thể quản lý là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; đối tượng quản lý là các quá trình xã hội và hành vi của con người có liên quan. Quá trình quản lý phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu sau:- Yếu tố con người- Yếu tố chính trị- Yếu tố tổ chức- Yếu tố quyền uy- Yếu tố thông tin.Quản lý xã hội về thực chất là quản lý con người đang tham gia các quan hệ xã hội, vì vậy, nó là hoạt động quản lý bao trùm, có nội dung, phương pháp và phạm vi rộng lớn, trong đó, quản lý Nhà nước là hoạt động quản lý 9quan trọng nhất, do tính chất, đặc điểm và vai trò, chức năng của tổ chức Nhà nước trong toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội.Quản lý Nhà nước là hoạt động của hệ thống các cơ quan Nhà nước trong việc tổ chức, điều hành, phối hợp các quá trình xã hội, các hoạt động của tập thể, cá nhân nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy phạm pháp luật, đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc. Chất lượng, hiệu quả của quản lý Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó nổi bật là những yếu tố sau:- Tính hoàn chỉnh, đầy đủ, thống nhất chặt chẽ của các quy định trong hệ thống pháp luật.- Trình độ tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước với tư cách là những chủ thể thực hiện quản lý trực tiếp.- Mức độ phổ biến tuyên truyền và trình độ dân trí về văn hóa pháp luật, văn hóa đời sống xã hội trong các tầng lớp dân cư, các đối tượng quản lý. - Phương thức, biện pháp huy động và phối hợp các lực lượng xã hội để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.- Tính tự giác trong thực hiện nghĩa vụ, nhiệm vụ của đối tượng quản lý Trên bình diện chủ thể quản lý Nhà nước, khái niệm Quản lý Nhà nước có thể hiểu theo hai nghĩa như sau: Theo nghĩa rộng: Quản lý Nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy Nhà nước, bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực Nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, ở Việt Nam, hoạt động Quản lý Nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân lao động làm chủ”. Theo nghĩa hẹp, Quản lý Nhà nước là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước đối với các quá trình xã hội và 10hành vi hoạt động của con người trên cơ sở các quy định, quy phạm pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước đề ra. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn như ra quyết định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ v.v. QLNN theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lí hành chính nhà nước. Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra nhận thức chung về Quản lý Nhà nước như sau: Quản lý Nhà nước là hoạt động của các chủ thể [chủ yếu là các cơ quan nhà nước] trên cơ sở quy định của hệ thống pháp luật nhằm tổ chức và phối hợp những cố gắng chung của toàn xã hội để giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội và các nhiệm vụ khác trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.1.3. Khái niệm Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là bộ phận rất quan trọng của Quản lý Nhà nước nói chung, của Quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự nói riêng. Thực chất đó là sự tác động đồng bộ có mục đích của Nhà nước thông qua hoạt động của một hệ thống các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội được chức năng hóa trong lĩnh vực này [trên cơ sở quy định của pháp luật] vào tất cả các yếu tố cấu thành nên Trật tự an toàn xã hội nhằm tạo nên sự ổn định, an toàn cho đất nước trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhằm đạt tới các mục tiêu xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. 11 Thực hiện Quản lý Nhà nước về Trật tự xã hội xã hội trước hết nhằm đem lại sự bình yên trong hoạt động của các cơ quan, các tổ chức xã hội và cá nhân, bảo vệ trật tự pháp luật và kỉ cương xã hội, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ công dân, đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội, với các vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội. Về thực chất, khái niệm Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội bao gồm những điểm chính yếu sau:- Là sự tác động có tổ chức, có có hệ thống và bằng pháp luật vào tất cả những yếu tố cấu thành nên Trật tự an toàn xã hội nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm bảo cho một nền Trật tự an toàn xã hội theo ý chí của Nhà nước.- Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người có liên quan đến trật tự an toàn xã hội. - Hệ thống các chủ thể quản lý rất rộng, trong đó chủ thể trực tiếp, nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân. - Đối tượng Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là tất cả các cơ quan, tổ chức, nhóm người, cộng đồng người, các cá nhân tham gia các mối quan hệ thuộc phạm trù trật tự an toàn xã hội. Như vậy, có thể định nghĩa: Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực Trật tự an toàn xã hội. 1.1.4. Mục đích của Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội12 Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội, như đã phân tích, là một bộ phận trong Quản lý Nhà nước về An ninh, trật tự, vì vậy, mục đích của công tác này cũng phải được định hướng và nhằm góp phần thực hiện mục đích chung. Theo đó, mục đích cuối cùng của Quản lý Nhà nước về An ninh trật tự nói chung là bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và bình yên của xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Mục tiêu cụ thể của Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ an toàn các cơ quan nhà nước, các tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật và các kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với tình trạng phạm tội, với các vi phạm pháp luật và các loại tệ nạn xã hội, giữ cho xã hội luôn luôn ở trong trạng thái bình yên, trật tự, nề nếp kỷ cương Thực tiễn chứng minh rằng, nếu như quản lý trên lĩnh vực An ninh chính trị nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ nhà nước XHCN, kịp thời phát hiện và dập tắt mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá CNXH, chống phá cách mạng Việt Nam, thì quản lý về Trật tự an toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các quá trình xã hội, các hoạt động trong đời sống xã hội, đời sống cá nhân trong cộng đồng được diễn ra một cách bình thường, an toàn trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức XHCN. Giữa An ninh quốc gia và Trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, Trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc An ninh quốc gia, tăng cường lòng tin của quần chúng vào Đảng, Nhà nước, vào chế độ XHCN. Cần nhấn 13mạnh rằng: Nếu tình hình Trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành vấn đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu cực đến An ninh quốc gia. Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia. Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc [16, Tr 233].Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối sự nghiệp Bảo vệ An ninh quốc gia và giữ gìn Trật tự an toàn xã hội, vì vậy, Nghị quyết của Đảng là định hướng cho việc xác định mục đích công tác Quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, trong đó có quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.14 Cụ thể, trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống, công tác quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội hiện nay có mục đích như sau: Về chính trị: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, sự vững chắc của chế độ chính trị XHCN và tăng cường hiệu lực Quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực Trật tự an toàn xã hội, Về kinh tế - xã hội: Đảm bảo sự ổn định và phát triển các thành phần kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với những hoạt động tội phạm và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế Về tư tưởng văn hóa: Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng những giá trị trong truyền thống và bản sắc dân tộc, phát hiện kịp thời và có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động tội phạm, tệ nạn xã hội và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này. Về đối ngoại: Góp phần tích cực trong thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, củng cố và nâng cao vị thế của Việt nam trên thế giới Về an ninh quốc phòng: Xây dựng vững chắc nền An ninh nhân dân và thế trận An ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân. xây dựng lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, hiện đại. Chống âm mưu của các thế lực thù địch, phi chính trị hóa và chia rẽ lực lượng vũ trang.1.2. Nguyên tắc và một số quan điểm cần quán triệt trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội1.2.1. Nguyên tắc cơ bản trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các 15nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Một sự nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì không đạt được kết quả. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001, tr. 119]. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh.” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 2011, tr. 235]. Trong quá trình lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, các cấp ủy Đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với chức năng quản lý của cơ quan Nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng thành các cơ quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng cũng không khoán trắng cho chính quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách, bằng công tác cán bộ và công tác tổ chức, bằng công tác vận động quần chúng và công tác giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Quá trình quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội đòi hỏi các chủ thể phải dựa trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Pháp luật thể chế 16hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Do vậy, tăng cường pháp chế trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là hết sức quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Trong hoạt động quản lý, không cho phép các chủ thể thực hiện một cách chủ quan, tùy tiện mà phải làm theo đúng pháp luật. Dựa vào pháp luật, cơ quan Nhà nước mới có thể tiến hành giải quyết những vụ việc phức tạp xảy ra, phát hiện và xử lí người có hành vi phạm tội, vi phạm về trật tự an toàn xã hội một cách chính xác, nghiêm minh.Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội đòi hỏi quá trình xây dựng các văn bản pháp luật về TTATXH phải kịp thời, thống nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh trật tự đặt ra. Mặt khác, nguyên tắc này cũng đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tổ chức tuyên truyền phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho công dân, phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm về TTATXH. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ Đây là một nguyên tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan xuất phát từ đặc điểm quản lý về trật tự an toàn xã hội, từ mô hình tổ chức và thực tiễn hoạt động quản lý an ninh, trật tự của lực lượng Công an Nhân dân. Ở Trung ương, Bộ Công an thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước. Ngoài việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch quản lý tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Công an còn phải trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch, hoạt động tội phạm, những hành vi vi phạm pháp luật. Công an các cấp được tổ chức theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Công an cấp trên. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm, đặc trưng về chuyên môn nghiệp vụ của công tác công an, cũng như từ nguyên tắc song 17trùng, nên trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội cần phải quán triệt nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, trong đó quản lý theo ngành là chủ yếu.1.2.2. Một số quan điểm cơ bản cần quán triệt trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hộiQuan điểm thứ nhất: Nắm vững và thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Công an là lực lượng nòng cốtSự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung và quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội nói riêng. Do đó công tác quản lý nhà nước về TTATXH cần tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và phục vụ cho đường lối chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Tăng cường quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội, phát huy mạnh mẽ tác dụng của pháp chế làm nó trở thành vũ khí sắc bén để xây dựng và quản lý trật tự xã hội XHCN là rất cần thiết, song chưa đủ. Điều cần phải nhấn mạnh trong công tác quản lý là chất lượng, hiệu quả hoạt động của các chủ thể quản lý, đặc biệt là hệ thống các cơ quan trong bộ máy Nhà nước các cấp, các ngành. Cần thường xuyên quan tâm xây dựng những cơ quan chuyên trách: Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống văn bản pháp luật và các quy phạm pháp luật.Bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nhà nước vừa đại diện cho quyền lực nhân dân, vừa là một tổ chức để người dân thể hiện quyền làm chủ xã hội của mình, tham gia ngày càng tích 18cực, chủ động hơn những công việc tổ chức, quản lý của Nhà nước. Lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội nằm trong sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng, trực tiếp có liên quan đến lợi ích thiết thân của người dân, vì vậy công việc này vừa là sự nghiệp của toàn dân, vừa có sức thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân và trên thực tế, nhân dân có đủ năng lực sẵn sàng tham gia vào công tác này. Vấn đề là ở chỗ, cần tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình như thế nào trong tham gia vào công tác quản lý Nhà nước để đạt hiệu quả cao nhất. Đây cũng là biểu hiện của việc thực hiện tốt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hộiLực lượng Công an nhân dân là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành, các cấp và quần chúng trong công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Công an nhân dân phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất và tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác trong công tác này. Chức năng quan trọng nhất của lực lượng Công an nhân dân trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là phải làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước các cấp về những vấn đề có liên quan và đề xuất những biện pháp, phương thức nhằm giữ gìn, đảm bảo an ninh, trật tự ở cả tầm vĩ mô quốc gia, cũng như ở tầm vi mô địa phương, cơ sở, địa bàn phức tạp Ngoài ra Công an nhân dân phải biết kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn. Quan điểm thứ hai: Kết hợp giữa chủ động phòng ngừa và chủ động liên tục tấn công Đây là quan điểm chỉ đạo cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ An ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Xuất phát từ mục tiêu chiến lược là bảo vệ tuyệt đối an toàn cho cách mạng, không để các loại tội phạm, tệ nạn xã hội hoạt động gây rối trật tự an toàn xã hội, do đó, phòng 19ngừa, đấu tranh và trấn áp tội phạm phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau. Trong Nghị quyết số 08/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN [Khóa IX] về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ chủ động tiến công với chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính.Đối tượng đấu tranh có nhiều hành động tinh vi, xảo quyệt, vì vậy để chủ động bảo vệ an toàn cho cách mạng phải chủ động phòng ngừa. Điều này thể hiện tính triệt để cách mạng [xóa bỏ mọi nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tội phạm] trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Chủ động phòng ngừa đòi hỏi phải giữ yên bên trong [giữ yên nội bộ và giữ yên nội địa], phải kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ. Chủ động phòng ngừa trong cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự an toàn xã hội phải chặt chẽ, tích cực và thường xuyên, phải chủ động và liên tục tiến công.Quan điểm thứ ba: Quán triệt tinh thần kiên quyết, thận trọng, khách quan, toàn diện, nâng cao cảnh giác không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tộiBản chất ưu việt của chế độ ta là tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân, bảo vệ và phát huy được tính tích cực, tự giác của quần chúng trên mọi lĩnh vực. Do đó, không thể ngụy biện cho rằng, vì mục đích bảo vệ Đảng, Nhà nước mà tùy tiện dẫn đến làm oan người vô tội. Khi giải quyết, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về Trật tự an toàn xã hội, các cơ quan, tổ chức cần phải hết sức thận trọng, đảm bảo khách quan, đúng đắn, chính xác trong quá trình tiến hành.Bên cạnh đó công tác bảo vệ TTATXH phải kiên quyết, thận trọng đấu tranh trấn áp với các thế lực thù địch, tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên phải dựa trên chứng cứ, tài liệu đã thu thập và được kiểm tra xác 20minh. Mỗi đối tượng khác nhau, có phương thức, thủ đoạn hoạt động khác nhau, do đó phải đề cao cảnh giác, tiến hành việc phân loại rõ ràng, xây dựng và thực hiện đúng các kế hoạch, đối sách phù hợp với mỗi loại đối tượng. Những nhận xét, đánh giá, kết luận phải chính xác và quán triệt tinh thần kiên quyết, thận trọng để không lọt kẻ phạm tội và cũng không làm oan người vô tội Quan điểm thứ tư: Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trấn áp kết hợp với giáo dục cải tạo Bản chất nhân đạo cách mạng của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực bảo vệ thành quả cách mạng thể hiện rõ trong tư tưởng chỉ đạo việc xử lý các vụ, việc xâm hại đến An ninh chính trị và Trật tự an toàn xã hội: nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo. Thực tiễn đấu tranh bảo vệ An ninh chính trị, giữ gìn Trật tự an toàn xã hội cho thấy, tuy cùng là tội phạm, nhưng tính chất, động cơ, mục đích, vai trò, mức độ phạm tội của từng loại đối tượng và mỗi cá nhân đối tượng có khác nhau, do vậy trong xử lý, cần căn cứ vào pháp luật Nhà nước và tùy theo mức độ phạm tội mà xử lý một cách nghiêm minh thấu tình, đạt lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính sách khoan hồng được áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho những người phạm tội do ép buộc, bị lừa gạt, song đã nhận rõ lỗi lầm, thật thà hối cải, quyết tâm sửa chữa, lập công chuộc tội Nghiêm trị và khoan hồng là một thể thống nhất, không tách rời nhau. Tùy từng đối tượng cụ thể mà ta xử lý đúng đắn thì mới tránh được sai lầm, lệch lạc.Trấn áp tội phạm không phải là để tiêu diệt con người, hành hạ về thể xác mà chủ yếu là áp dụng các biện pháp cưỡng bức cần thiết để không cho họ tiếp tục hoạt động gây thiệt hại cho cách mạng và cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Quá trình giáo dục, cải tạo để làm chuyển biến tiến 21tới xóa bỏ ý thức phạm tội của người phạm tội là quá trình phải gay go, gian khổ và lâu dài. Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trấn áp kết hợp với giáo dục, cải tạo, lấy phòng ngừa xã hội đối với tội phạm là biện pháp cơ bản, đó là những vấn đề quan trọng để góp phần làm giảm tội phạm, giữ gìn Trật tự an toàn xã hội của đất nước.Quan điểm thứ năm: Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốcCác thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần khẳng định xây dựng Tổ quốc phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc. Đi đôi với việc xây dựng nền kinh tế đất nước ngày càng lớn mạnh, phải không ngừng nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ tốt công cuộc xây dựng Tổ quốc. Đây không chỉ là sự kế thừa bài học lịch sử, truyền thống dân tộc Việt Nam: dựng nước đi đôi với giữ nước, mà còn là một yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống đương đại, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ và của dân tộc. Nội dung bảo vệ phải được quán triệt trong suốt cả quá trình xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực cũng như trong từng khâu, từng mặt, từng giai đoạn. Sự kết hợp giữa phát triển sản xuất với bảo vệ sản xuất, giữa xây dựng kinh tế với bảo vệ kinh tế, giữa xây dựng CNXH với bảo vệ Tổ quốc XHCN cần được nhận thức đầy đủ và sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân. Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân để bảo vệ thành quả mà chúng ta xây dựng được. Đại hội lần thứ XI Đảng CSVN đã nhấn mạnh: Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh cả về tiềm lực và thế trận Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo [16, Tr. 234].22Quan điểm thứ sáu: Bảo vệ An ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn trật tự an toàn xã hội Đây là hai nội dung của một thể thống nhất trong chức năng quản lý nền trật tự XHCN, trong đó An ninh quốc gia là nội dung cơ bản nhất. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt Trật tự an toàn xã hội và ngược lại Trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho An ninh quốc gia càng được củng cố vững chắc, hiệu lực Quản lý Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc. Quan điểm thứ bảy: Kết hợp chặt chẽ hai chức năng của Nhà nước XHCN: Tổ chức, xây dựng với Bạo lực, trấn áp, trong đó nhấn mạnh tổ chức, xây dựng là chủ yếuMục đích của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là xây dựng thành công xã hội mới XHCN ở Việt Nam với những đặc trưng cơ bản là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [16, tr.70]. Một xã hội tốt đẹp như vậy là kết quả của quá trình phấn đấu dựng xây không ngừng của cả dân tộc, đòi hỏi sự đầu tư cao độ cả về trí tuệ và sức lực của toàn Đảng, toàn dân. Đảng CSVN nhận thức rất rõ ràng rằng, đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống 23xã hội. Quá trình đó nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen, mặt khác quá trình đó sẽ tiếp tục phải đối diện và phải vượt qua những trở lực, những sự phản kháng quyết liệt của các thế lực thù địch trong và ngoài nước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Quan điểm phải kết hợp giữa tổ chức, xây dựng với bạo lực trấn áp trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với học thuyết Mác-Lênin về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước XHCN. Theo đó, sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước XHCN là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên, Nhà nước XHCN có bản chất khác với những nhà nước trước đây trong lịch sử. Nó không chỉ là cơ quan bạo lực trấn áp và cũng không chủ yếu là bạo lực, trấn áp, Nhà nước này phải thực hiện công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN. Vì vậy, Lênin cho rằng, Nhà nước XHCN chỉ mang tính chất là “một nửa nhà nước”. Như vậy, theo lý luận mác-xớt, Nhà nước XHCN có hai chức năng cơ bản là: thực hiện bạo lực trấn áp, chuyên chính vô sản đối với mọi âm mưu, hành động chống phá thành quả cách mạng và sự nghiệp xây dựng CNXH; Tổ chức xây dựng một xã hội mới XHCN. Hai chức năng đó đều cần thiết, không thể thiếu và cùng thể hiện bản chất của Nhà nước XHCN. Song, do tính chất, tác dụng của mỗi chức năng đối với mục đích cuối cùng của cuộc cách mạng XHCN, nên chức năng tổ chức xây dựng được xác định là chủ yếu.Thực tế cũng đã chứng tỏ rằng, bạo lực trấn áp nhiều lắm cũng chỉ có thể xóa bỏ cái cũ và tạo điều kiện cho sự ra đời cái mới, bảo vệ cái mới. Bản thân sự xuất hiện, lớn mạnh của cái mới, đặc biệt trên lĩnh vực đời sống xã hội, phụ thuộc trực tiếp và là kết quả của quá trình dựng xây, của công sức tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội của các chủ thể, trong đó đặc 24biệt là vai trò của Nhà nước, với tư cách là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Mặt khác, cơ sở của sức mạnh của bạo lực là dựa trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh và dựa vào sức mạnh to lớn của khối đoàn kết toàn dân tộc , tất cả điều đó, rốt cuộc lại phụ thuộc vào công tác tổ chức và xây dựng nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Đối với Việt Nam, Công an nhân dân cùng Quân đội nhân dân được Hiến pháp, pháp luật xác định là lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước, là công cụ bạo lực chủ yếu trong đấu tranh bảo vệ An ninh quốc gia và giữ gìn Trật tự an toàn xã hội. Quá trình đấu tranh với các thế lực thù địch, tội phạm để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là quá trình kết hợp chặt chẽ bạo lực trấn áp với tổ chức xây dựng. Sự kết hợp đó thể hiện ở mục đích đấu tranh nhằm phục vụ cho công tác tổ chức xây dựng xã hội mới thành công, mặt khác, theo chức năng, Công an nhân dân tiến hành công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc xây dựng, tổ chức quản lý nền An ninh quốc gia và Trật tự an toàn xã hội. Bản thân lực lượng Công an nhân dân phải được tổ chức, xây dựng thành lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò nòng cốt, xung kích trong đấu tranh giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Lực lượng Công an nhân dân cũng trực tiếp làm công tác tổ chức xây dựng huấn luyện các lực lượng khác như: lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các tổ chức nhân dân tham gia lĩnh vực bảo vệ An ninh, trật tự. 1.3. Nội dung, chức năng và nhiệm vụ Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội của Công an Phường1.3.1. Nội dung Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội của Công an Phường Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm25

Video liên quan

Chủ Đề