Sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức và pháp luật

Sự khác biệt chính : Luật được định nghĩa là một hệ thống pháp lý bao gồm các quy tắc và nguyên tắc do cơ quan cầm quyền đặt ra để chi phối các vấn đề của cộng đồng. Trong khi, đạo đức được định nghĩa là các nguyên tắc đạo đức được đặt ra, đưa ra và theo sau bởi một cá nhân.

Nói chung, đạo đức là triết lý đạo đức trong đó một người đưa ra lựa chọn đạo đức cụ thể và tuân theo nó, trong khi luật pháp là một hệ thống bao gồm các quy tắc và nguyên tắc để quản lý một xã hội. Mặc dù, đạo đức dựa trên thiện chí của pháp luật, đạo đức hoàn toàn khác nhau về nền tảng, cơ sở và mục đích của họ. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về sự khác biệt, chúng tôi xác định các thuật ngữ luật và đạo đức.

Sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức và pháp luật
Không có định nghĩa chung cho thuật ngữ 'luật', nhưng nó thường được định nghĩa là một hệ thống thực thi bộ quy tắc và hướng dẫn để điều chỉnh hành vi xã hội. Luật cũng được định nghĩa là các quy định được thiết lập bởi một quyền lực cai trị. Những quy tắc này mô tả cách mọi người bắt buộc phải hành động với nhau trong xã hội. Họ là những yêu cầu để hành động một cách thiết lập trong một xã hội. Mặc dù, theo thẩm quyền, các luật này được công bố rộng rãi, thường được chấp nhận và thường bị ép buộc.

Đạo đức, mặt khác, là một nhánh của triết học là nghiên cứu về giá trị hoặc chất lượng. Nó bao gồm việc phân tích các khái niệm như đúng, sai, tốt, xấu, công bằng và trách nhiệm. Nó cố gắng xác định những gì tốt cho xã hội và cá nhân. Nó cũng tìm cách thiết lập một tập hợp các nghĩa vụ mà một người nợ mình và những người khác. Đạo đức bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "ethos" có nghĩa là "phát sinh từ thói quen". Những giá trị này cũng xuất phát từ ý thức đạo đức của một người và mong muốn giữ gìn sự tôn trọng bản thân của anh ta.

Đạo đức liên quan đến chính nó tại sao và làm thế nào để hành động. Nó bắt nguồn từ những lý thuyết mở rộng về đúng và sai, điều này đã dẫn đến các quy tắc ứng xử. Những quy tắc này đặt ra tiêu chuẩn hành vi của một người với xã hội của mình. Dựa trên điều này, pháp luật cũng bắt nguồn một bộ quy tắc để ổn định xã hội. Mặc dù, luật pháp là một dẫn xuất của đạo đức, luật pháp không tập trung vào việc thúc đẩy các ý tưởng xã hội, nó chỉ đơn thuần thúc đẩy quy ước của một xã hội tốt.

Sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức và pháp luật
Luật pháp giúp định hình chính trị, kinh tế và xã hội theo nhiều cách và đóng vai trò trung gian xã hội cho mối quan hệ giữa con người với nhau. Đạo đức, là về hành động và quyết định, giúp hình thành lương tâm và tính cách của một cá nhân. Nó bao gồm việc học cái gì đúng và cái gì sai và làm điều đúng. Ngoài ra, thật thú vị khi biết những hậu quả khác nhau, kết quả, sự thay thế và ý nghĩa cá nhân của quyết định đạo đức.
Do đó, đạo đức và pháp luật là cần thiết để cung cấp hướng dẫn và sự ổn định cho mọi người và toàn xã hội. Mặc dù, đạo đức và pháp luật đi đôi với nhau, đó là một mối quan hệ phức tạp giữa hai điều khoản. Mối liên hệ giữa luật pháp và đạo đức phụ thuộc vào nhận thức, bởi vì thường những gì được coi là phi đạo đức thường được coi là bất hợp pháp. Mặc dù, đó không phải là trường hợp.

Luật pháp không cấm nhiều hành vi sẽ bị lên án rộng rãi là phi đạo đức. Ví dụ, nói dối hoặc phản bội sự tự tin của một người bạn không phải là bất hợp pháp, nhưng hầu hết mọi người sẽ coi đó là phi đạo đức. Ngoài ra, tăng tốc là bất hợp pháp, nhưng nhiều người có thể không có bất kỳ xung đột đạo đức nào vượt quá giới hạn tốc độ. Vì vậy, pháp luật không chỉ đơn giản là mã hóa các chuẩn mực đạo đức.

So sánh giữa Luật và Đạo đức:

Pháp luật

Đạo đức

Định nghĩa

Nó được định nghĩa là một hệ thống thực thi tập hợp các quy tắc và hướng dẫn để chi phối hành vi xã hội.

Nó được định nghĩa là các hướng dẫn đạo đức được đặt ra, được đưa ra và theo sau bởi một cá nhân đối với xã hội của mình.

Đây là những quy tắc đạo đức mà mọi người bắt buộc phải tuân theo.

Đây là những quy tắc đạo đức mà mọi người cũng phải tuân thủ.

Quy tắc

Đây là những quy tắc được chính phủ nêu ra để cân bằng xã hội.

Đây là những quy tắc ứng xử của một cá nhân.

Thi hành

Nó được thi hành trên người dân.

Nó đến từ bên trong một cá nhân.

Phán quyết

Nó trực tiếp nói lên điều gì đúng và điều gì sai.

Ở đây, một người quyết định điều gì đúng và điều gì sai.

Đặc điểm

  • Nó được thi hành.
  • Nó cần phải được công bố.
  • Nó là nhất quán.
  • Nó cần phải được tuân theo.
  • Nó không thể được thi hành.
  • Nó không cần phải được công bố.
  • Nó có thể hoặc không thể nhất quán.
  • Không cần thiết phải tuân theo.

Trừng phạt

Có hình phạt hợp lệ cho việc vi phạm pháp luật.

Không có hình phạt cho việc thách thức đạo đức của một người.

Đánh giá

Luật được đánh giá theo tiêu chuẩn tư pháp.

Hành vi đạo đức được đánh giá bởi các tiêu chuẩn đạo đức.

Thực hiện

Những điều này được thực hiện bằng cách sử dụng đạo đức như một hiệu trưởng hướng dẫn.

Những điều này đến từ bên trong một người bởi các giá trị đạo đức của mình.

Ứng dụng

Luật pháp phụ thuộc vào quốc gia, nhà nước và nơi xảy ra tội phạm.

Đạo đức là phổ quát và có thể được áp dụng ở bất cứ đâu, trên toàn thế giới.

So sánh đạo đức và pháp luật. Xã hội được điều chỉnh bởi rất nhiều các quy phạm, trong đó không thể không kể đến là hai quy phạm đạo đức và pháp luật. Cả hai quy phạm này đều có vai trò quan trọng và có mối tương hỗ lẫn nhau. Vậy điểm giống và khác nhau của chúng là gì? Bài viết dưới đây sẽ so sánh và giải đáp về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Mời bạn đọc tham khảo cùng HoaTieu.vn.

Đạo đức và pháp luật

Sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức và pháp luật
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ tương hỗ và bổ trợ cho nhau.

Đạo đức là gì? Pháp luật là gì? Đạo đức và pháp luật giống và khác nhau thế nào? Phần dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết để trả lời cho những câu hỏi này.

1.1 Điểm giống nhau giữa đạo đức và pháp luật

  • Đạo đức và pháp luật đều là hệ thống các quy tắc xử sự chung, chuẩn mực xã hội đối với con người
  • Đạo đức và pháp luật giúp con người điều chỉnh hành vi để phù hợp với các quy tắc trong xã hội, qua đó tích cực hơn trong cộng đồng.
  • Đạo đức và pháp luật đều được áp dụng chung cho tất cả mọi người, có tính cộng đồng
  • Pháp luật và đạo đức đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh
  • Pháp luật và đạo đức đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội.
Tiêu chíĐạo đứcPháp luật
Khái niệmHệ thống các quy tắc, yêu cầu đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.Hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nguồn gốc hình thànhTừ thực tế cuộc sống và nhận thức của con ngườiCác quy tắc xử sự trong đời sống xã hội, được nhà nước ghi nhận thành các quy phạm pháp luật
Nội dungNhững triết lí, quy tắc, bài học ứng xử trong cuộc sốngCác quy tắc xử sự (việc được làm, không được làm...)
Hình thức thể hiệnNhiều hình thức: truyền miệng, được ghi chép lại,...1 hình thức: Văn bản pháp luật
Phương thức tác độngGiáo dục, tuyên truyềnGiáo dục, cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước
Tính chấtKhông bắt buộc, mang tính chung chung và không thống nhấtBắt buộc, chính xác, thống nhất
Không thực hiệnKhông bị xử phạtBị xử lý theo quy định của pháp luật
Chủ thể ban hànhDo ông cha đúc rút, truyền lại qua quá trình sống lâu dàiCác cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Phạm viRộng hơn pháp luật (do có một số khía cạnh pháp luật không quy định như trong lĩnh vực tình bạn, tình yêu, sự giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày...)Điều chỉnh quan hệ xã hội do nhà nước quy định

Trong khi pháp luật do Nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế có khi rất nghiêm khắc như hình phạt tù, tử hình,… thì đạo đức lại được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp mang tính xã hội và thường ít nghiêm khắc hơn.

Mặc dù đạo đức không có bất kỳ biện pháp đảm bảo thực hiện nào từ phía Nhà nước và ít nghiêm khắc hơn nhưng hiệu quả trong việc điều chỉnh hành vi của con người không lại hề kém cạnh pháp luật.

Vì đạo đức tác động hành vi của con người qua dư luận xã hội và nó có sức mạnh to lớn trong việc tác động đến ý thức và hành vi của con người. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có thời hiệu nhưng sự lên án, xử lý của đạo đức, của dư luận xã hội và của chính lương tâm con người thì không phụ thuộc vào thời hiệu nào cả, trái lại rất triền miên, day dứt, thậm chí suốt cả cuộc đời người vi phạm.

2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ gắn bó, khăng khít với nhau. Đạo đức và pháp luật có sự tương quan lẫn nhau, tuy nhiên, sự tương quan này lại tại mỗi thời kì mà mỗi khác tùy thuộc vào tình hình xã hội, tư tưởng của xã hội và nhà nước lúc đó.

Sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức và pháp luật
Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ gắn bó, khăng khít với nhau.

Pháp luật chỉ ra đời khi trong xã hội có sự xuất hiện của chế độ tư hữu và giai cấp. Giai cấp cầm quyền hay nhà nước quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và thực hiện sự thống trị của giai cấp đó đối với xã hội.

Các quy định của pháp luật sẽ không vi phạm, đi ngược lại với đạo đức xã hội. Quy phạm đạo đức có vai trò làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa. Có nhiều quy định của pháp luật quy định chủ thể không được làm những hành vi trái với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục.

Nhiều quy tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức phù hợp với ý chí của nhà nước nên được thể chế hóa, được nhà nước thừa nhận, được nhà nước nâng lên thành các quy phạm pháp luật.

Ví dụ như quy phạm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái, của con cái đối với cha mẹ, của ông và đối với cháu, của cháu đối với ông bà là được nhà nước thừa nhận từ những chuẩn mực và quy tắc đạo đức lâu đời.

2.2. Pháp luật điều chỉnh lại đạo đức:

Pháp luật có vai trò trong việc bảo vệ, duy trì và phát triển các quy tắc, chuẩn mực đạo đức phù hợp, tiến bộ phù hợp với xã hội.

Pháp luật góp phần vào công cuộc củng cố, phát huy vai trò của các chuẩn mực đạo đức nếu chúng phù hợp với ý chí của nhà nước, với tình hình của xã hội. Một số chuẩn mực đạo đức có thể được thừa nhận trong các quy phạm pháp luật. Ví dụ như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái được quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình.

Pháp luật có vai trò giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức đẹp đẽ, lâu đời của dân tộc; ngăn chặn sự tha hóa đạo đức.

3. Ví dụ về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

3.1. Ví dụ đạo đức là nền tảng hình thành pháp luật

Các phạm trù đạo đức như: nghĩa vụ đạo đức, lương tâm, nhân đạo, công bằng,... có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chẳng hạn như trong quy định pháp luật về phẩm chất của cán bộ trong ngành Tư pháp luôn nêu lên nguyên tắc: thực hiện nhiệm vụ theo đúng pháp luật và phải có phẩm chất đạo đức tốt.

Việc những người vi phạm pháp luật có hành vi tự thú khi chưa bị phát hiện về hành vi vi phạm pháp luật đó luôn được sự khoan hồng từ phía Nhà nước và được sự đánh giá cao của pháp luật và đạo đức. Trong Bộ luật Hình sự có quy định về tình tiết giảm nhẹ, có thể miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cũng đã thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta nhằm tạo cơ hội cho những người có hành vi vi phạm pháp luật có cơ hội để hoàn lương. Như vậy, việc đưa quan niệm đạo đức vào quy định pháp luật có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục nhân cách, phẩm chất của con người, đồng thời điều này cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước.

3.2. Ví dụ pháp luật điều chỉnh lại đạo đức

Điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nước ta quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Quy định này đòi hỏi người xác lập giao dịch dân sự không chỉ tuân thủ quy định pháp luật mà còn phải cân nhắc đến những quy tắc đạo đức. Như vậy, pháp luật sẽ là yếu tố đảm bảo cho hành vi của con người phù hợp với đạo đức hơn.

Hay trong Bộ luật hình sự cũng có quy định về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tội này đã được quy định tại điều 102 Bộ luật hình sự năm 1999 trước đây và được quy định tại điều 132 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đây cũng là ví dụ tiêu biểu cho pháp luật điều chỉnh lại đạo đức, có tác dụng bắt buộc mọi người phải thực hiện những nghĩa vụ về đạo đức, lương tâm, nhân đạo...

Hoatieu.vn vừa giúp bạn đọc So sánh đạo đức và pháp luật. Để biết thêm các thông tin hữu ích khác, mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Các bài viết liên quan: