Tại sao bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ là dân sự

Chuyến thăm bất ngờ của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergey Shoigu tại chiến trường Ukraine - Nguồn: RT

Theo RT, ngày 16-7, Bộ Quốc phòng Nga tiết lộ Bộ trưởng Sergey Shoigu đã gặp các sĩ quan chỉ huy của quân đội Nga thuộc nhóm chiến đấu phía nam và trung tâm, gồm tướng lục quân Sergey Surovikin và đại tá Alexander Lapin, cùng các sĩ quan chỉ huy cấp cao khác.

"Người đứng đầu Bộ Quốc phòng Nga đã đưa ra các chỉ thị cần thiết để tăng cường hoạt động của các nhóm tại tất cả khu vực hoạt động, nhằm loại trừ khả năng Ukraine tiến hành các cuộc tấn công lớn bằng tên lửa và pháo nhằm vào cơ sở hạ tầng dân sự và cư dân của các khu định cư trên khắp vùng Donbass cùng các nơi khác" - Bộ Quốc phòng Nga cho biết.

Bộ trưởng Sergey Shoigu cũng đã trao Huy chương Sao vàng cho đại tá Alexander Lapin và thiếu tướng Esedulla Abachev vì "những hoạt động của họ trong chiến dịch quân sự" nói trên.

Bộ Quốc phòng Nga cho biết sắc lệnh phong tặng các giải thưởng cao nhất của Nhà nước Nga cho hai chỉ huy trên đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin ký trước đó.

Trong diễn biến liên quan, theo Hãng tin Reuters, ngày 16-7, Bộ Quốc phòng Nga cho biết lực lượng Nga đã phá hủy một nhà máy ở thành phố Dnipro của Ukraine. Nhà máy này là nơi sản xuất các bộ phận cho tên lửa đạn đạo Tochka-U.

Ngoài ra, bộ này nói thêm quân Nga đã bắn rơi 3 máy bay và 2 trực thăng của Ukraine. Phía Ukraine hiện chưa lên tiếng về các thông tin này.

Triều Tiên chỉ trích Ukraine là 'bấu víu vào Mỹ'

BÌNH AN

[Bqp.vn] - Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đứng đầu, có chức năng quản lí nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân và dân quân tự vệ; đồng thời là cơ quan trung ương chỉ đạo, chỉ huy quân đội nhân dân và dân quân tự vệ cùng nhân dân đấu tranh trong thế trận chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc.


Trụ sở Bộ Quốc phòng.

Tổ chức

Tổ chức hiện nay gồm: Văn phòng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Tổng cục Tình báo Quốc phòng và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc khác.

Ngày thành lập: Ngày thành lập 27/8/1945 [ngày Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập và ra tuyên cáo].

Địa chỉ: Số 7 Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội.


Tổ chức Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tên gọi qua các thời kỳ

Bộ Quốc phòng [8/1945 - 10/1946]; Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy [11/1946 - 7/1947, sau khi thống nhất Bộ Quốc phòng với Quân sự Ủy viên hội]; Bộ Quốc phòng [7/1947 - 10/1948, khi chia Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy thành Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy]; Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy [10/1948 - 3/1949, sau khi hợp nhất Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy]; Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh [3/1949 - 1975, sau khi đổi tên Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng Tư lệnh quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam]; Bộ Quốc phòng [từ 1976 đến nay].

Nguyên tắc hoạt động quốc phòng

1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

2. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

3. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng; giữa tăng cường quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội.

4. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

5. Kết hợp với hoạt động an ninh và hoạt động đối ngoại.

Theo Điều 5. Nguyên tắc hoạt động quốc phòng, Luật Quốc phòng, số 39/2005/QH, ngày 14/6/2005, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.

Nhiệm vụ, quyền hạn

Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ. Bộ Quốc phòng có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục và các đơn vị trực thuộc khác. Bộ Quốc phòng quyết định phong hàm cấp tá, cấp úy cho sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng trong phạm vi cả nước; giúp Chính phủ xây dựng dự án luật, pháp lệnh, nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh về quốc phòng.

2. Chủ trì, phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng quy hoạch, kế hoạch nhà nước về quốc phòng trình Chính phủ quyết định; xây dựng, quản lý, chỉ huy Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.

3. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác quốc phòng ở bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật.

Theo Điều 45. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng, Luật Quốc phòng, số 39/2005/QH, ngày 14/6/2005, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.

Hiện nay, một số người đang cổ súy cho cái gọi là “dân sự hóa” Quân đội; kiến nghị đòi “trao quyền kiểm soát Quân đội” cho Quốc hội, Nhà nước và Chính phủ”, cho rằng “Quân đội chỉ phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng”[!]. Vậy đâu là bản chất của những luận điểm như vậy?

1. Quan điểm trên thể hiện sự áp đặt luật pháp tư sản vào nước ta

Họ đã lấy luật pháp nhà nước tư sản làm “thước đo”, “tiêu chí” pháp lý cho mọi nhà nước, chế độ xã hội. Đó là thứ “triết lý” về chế độ “dân sự quản lý quân sự của nhà nước tư sản”, theo Khoản 8, Điều I, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ở đó, không có điều luật nào dành cho các nhánh hành pháp và tư pháp quyền ban hành luật pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Đó là sự vay mượn triết lý luật pháp về “chia tách” quyền lực quân sự [một dạng quyền hành pháp] với quyền lập pháp và tư pháp, bằng trích dẫn Khoản 1, Điều II quy định: “Quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ”; Khoản 2, Điều II quy định: “Tổng thống sẽ là Tổng Tư lệnh các lực lượng lục quân và hải quân Hoa Kỳ và của các lực lượng dự bị ở một số bang”. Còn những người có quyền ban hành pháp luật, thì họ dựa vào Khoản 6, Điều I quy định: “Trong thời gian được bầu làm Thượng nghị sĩ hoặc Hạ nghị sĩ, không một ai sẽ được bổ nhiệm vào một chức vụ dân sự trong chính quyền Hòa Kỳ. Trong thời gian đó,... không một ai đang đảm nhiệm một chức vụ dân sự nào trong chính quyền Hoa Kỳ được bầu vào Quốc hội”.

Đó cũng là sự vin mượn tinh thần pháp lý quân sự tư sản: quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân sự mà không có chiều ngược lại; vào Chỉ thị 1344.10 của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, quy định thành viên quân đội không thể “Là ứng cử viên hay nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong bộ máy dân sự”. Năm 2008, luật pháp của Hoa Kỳ quy định, người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm mới được làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Họ cũng dựa vào Điều lệ Nữ Hoàng [Vương quốc Anh], quy định: Nghiêm cấm các thành viên quân đội nắm giữ các vị trí hoạt động tích cực trong các tổ chức chính trị; đồng thời, hạn chế chặt chẽ việc bổ nhiệm vào các vị trí này trong và sau thời gian quân ngũ”, v.v.

Tuy nhiên, điều đã được nhân loại thừa nhận là: luật pháp của một chế độ nhà nước phải do ý chí, nguyện vọng của nhân dân [chủ thể quyền lực của nhà nước đó] quyết định và chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia đó. Do vậy, việc lấy luật pháp của nước này áp đặt cho nước khác là hoàn toàn phi lý. Không thể dùng pháp luật của nhà nước tư sản soi chiếu sang pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, hai loại nhà nước khác nhau về bản chất. Cũng giống như không thể áp đặt luật pháp của Việt Nam lên nhà nước tư sản. Như vậy, quan điểm “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam là không phù hợp.

2. Bản chất “dân sự hóa” quân đội ở các nước tư sản

Dựa trên “học thuyết phân quyền tư sản”, những người có quyền lập pháp ở các nước tư sản đã ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của ba nhóm lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự” [dân quản quân] đã được ghi tạc, ban hành trong luật pháp thì “chắc chắn” việc của quân đội tất yếu là việc của phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không phải là việc của đảng phái nào, phái quân sự nào! Tuy nhiên, trái ngược với những tư tưởng “tam quyền phân lập”, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy một nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” về nó. Muôn vàn ví dụ về quản lý nhà nước đối với quốc phòng của Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới cho thấy rõ điều này. Trên thực tế, dù luật pháp của Hoa Kỳ có chặt chẽ đến đâu thì các chính đảng vẫn can thiệp cả vào lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Hoa Kỳ đã trải qua 45 đời tổng thống, chỉ có tổng thống đầu tiên là G. Washington không thuộc đảng phái nào; còn 44 tổng thống khác đều là người đứng đầu hay đại diện cho các đảng phái khác nhau. Hầu hết các Tổng thống Hoa Kỳ đều nhất quán thực thi đường lối của đảng đã cử mình làm đại diện tranh cử. Ví dụ như, trong quá trình tranh cử, ông Đô-nan Trăm [ứng cử viên đại diện cho Đảng Cộng hòa] tuyên bố sẽ rút quân đội khỏi Trung Đông nếu trúng cử. Và giờ đây khi là tổng thống, Ông đã thực thi đường lối quân sự đó. Như vậy, tư tưởng, đường lối nhất quán của một chính đảng và một tổng thống đắc cử đã thực thi. Do đó, không có cái gọi là “dân quản quân”, mà thực chất là “đảng quản quân”.

Một vài ví dụ khác, năm 1950, Tổng thống Mỹ Truman chọn Thống tướng Lục quân G. Marshall mới nghỉ hưu được hơn 5 năm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong khi Luật An ninh quốc gia Mỹ năm 1947 quy định: “Bộ trưởng phải được chỉ định từ giới dân sự. Đối với cựu quân nhân Mỹ, họ chỉ có thể được đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau 10 năm kể từ khi họ giải ngũ”. Mới đây, ông J. Mattis, Đại tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ, mới nghỉ hưu năm 2013 vẫn được Tổng thống Đô-nan Trăm đề cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng viện phê chuẩn ngày 20-01-2017, trong khi luật pháp Hoa Kỳ năm 2008 quy định: “người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm mới được làm bộ trưởng quốc phòng” và “quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân sự, không có chiều ngược lại”. Điều trên cho thấy nguyên tắc “dân quản quân” đã không được thực hiện triệt để.

Nhiều nước trên thế giới, như: Nga, U-crai-na, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia,… Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thường là quân nhân. Ở Nga, đến năm 2001 mới có ông S. B. I-va-nốp là người dân sự đầu tiên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng đến năm 2012, Tổng thống V. Putin sử dụng lại người nhà binh, bổ nhiệm Đại tướng S. Sôigu làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Quyết định đó được các chuyên gia quân sự đánh giá cao, cho rằng, người đứng đầu quân đội phải nắm rõ việc quân sự, phải có uy với cấp dưới, khi cần quản lý nhà nước đã có cố vấn, thư ký hỗ trợ; nếu người dân sự làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì sẽ khó thể hiện tính quyết đoán, nhất là giải quyết những vấn đề đột xuất, đòi hỏi quyết đoán nhanh trong điều kiện khó khăn, căng thẳng.

Có thể thấy, bản chất chế định pháp lý người đứng đầu quân đội [Bộ trưởng Bộ Quốc phòng] ở Mỹ và một số quốc gia khác không phải là quân nhân, mà là dân sự, đó không có nghĩa là “dân sự hóa” quân đội mà là sử dụng con người dân sự cụ thể để quản lý công việc quân sự. Tuy nhiên, chế định này không phải lúc nào cũng thực hiện được. Vì vậy, quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam, cho rằng “Quân đội chỉ phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng” chỉ là sự thiếu hiểu biết về tri thức pháp lý và quản lý nhà nước về quốc phòng của một số người mà thôi.

3. Thực chất mục đích của quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội là kết hợp “diễn biến hòa bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam

Với việc đưa ra quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội, một số người đã đánh tráo khái niệm “dân sự quản lý quân sự” với “dân sự hóa” Quân đội; họ đánh đồng việc dân sự quản lý quân sự với biến việc của quân sự thành việc của dân sự, làm cho người khác hiểu sai về bản chất vấn đề.

Mặc dù chế định “dân sự quản lý quân sự” ở các nước tư sản không thực hiện được [như đã đề cập ở trên], song những người đưa ra quan điểm “dân sự hóa” Quân đội không bao giờ đề cập tới sự thật này. Họ ra sức ca ngợi và cổ súy cho pháp lý và đời sống luật pháp tư sản theo hướng cái gì cũng “tốt đẹp”, “thiên đường”; làm cho người ta tưởng việc “dân sự hóa” quân đội của nhà nước tư sản là tốt đẹp, dễ làm, nhà nước xã hội chủ nghĩa cứ theo thế mà làm. Đây là thủ đoạn chính trị tinh vi, kết hợp giữa “diễn biến hóa bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Thực chất mục đích của quan điểm cổ vũ “dân sự hóa” Quân đội theo hướng pháp lý “dân sự quản lý quân sự” của nhà nước tư sản là nhằm tác động, thay đổi đường lối, cơ chế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên tắc hoạt động quốc phòng là tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, mục đích chính trị cuối cùng của quan điểm cổ súy “dân sự hóa” Quân đội, không phải cái gì khác hơn là nhằm loại bỏ quyền lãnh đạo Quân đội và hoạt động quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước hiến định. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch - một thủ đoạn, âm mưu tinh vi, xảo quyệt, từ đánh tráo khái niệm, đến tiêm nhiễm, thẩm thấu tư tưởng, chuyển hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và hoạt động quốc phòng, cuối cùng là kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ mưu đồ của họ; cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa, đấu tranh bác bỏ tư tưởng, quan điểm sai trái này.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN VĂN QUANG,

Video liên quan

Chủ Đề