Tiểu luận về chính sách kích cầu
Download Tiểu luận Đánh giá các chính sách kích cầu của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới miễn phí Đề xuất các chính sách hỗ trợ đối với lao động mất việc làm, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành chức năng triển khai chính sách cho doanh nghiệp vay ưu đãi trả lương, bảo hiểm cho công nhân mất việc làm; bổ sung vốn chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm; cho vay ưu đãi để học nghề và xuất khẩu lao động. Bộ Lao động - thương binh và xã hội chịu trách nhiệm nắm chắc số lượng lao động mất việc làm, Bộ Kế hoạch và đầu tư quản lý số lượng doanh nghiệp để triển khai chính sách hiệu quả.Thủ tướng lưu ý: các dịch vụ xuất khẩu lao động hiện thu phí và qua nhiều khâu trung gian, do đó Bộ Lao động - thương binh và xã hội sớm rà soát chính sách để giúp người lao động giảm bớt khó khăn. Đối với công tác dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ, Thủ tướng đề nghị đào tạo theo hướng cấp phiếu (tương đương 12 tháng lương khi xuất ngũ) để họ tìm các trường học phù hợp với điều kiện thực tiễn. /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-28206/ ++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho! một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện đúng lúc là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyển pha của chu kỳ kinh tế. Có trường hợp kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra. Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu quá lớn tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Điều này càng được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối nhà nước không dư dật. Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng, do đó sớm gây ra tác động tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế (thường là những người có thu nhập thấp hơn), sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động. Để kích cầu trúng đích, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác nhau tương ướng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất. Ngoài ra, có hai điều kiện cần để chính sách kích cầu phát huy tác dụng. Thứ nhất, chính sách phải tạo được đầu ra cho sản phẩm của doanh nghiệp; thứ hai, ngân sách kích cầu phải được sử dụng một cách hiệu quả. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM TRONG NĂM 2008 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua: Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, ngoài nội dung tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, có nội dung mới là chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế. Muốn chủ động được trước hết phải nhận biết hết những biểu hiện của suy giảm kinh tế. Hiện nay có hai kênh tác động mạnh: Bên ngoài, suy giảm kinh tế toàn cầu làm giảm kim ngạch xuất khẩu (cả lượng và giá), vốn đầu tư (kể cả trực tiếp và gián tiếp), kiều hối và du lịch (kể cả lượng khách và doanh số). Bên trong, đầu ra của hàng tiêu dùng và xuất khẩu thu hẹp, sản xuất, kinh doanh giảm sút, việc làm, thu nhập và sức mua đều ảnh hưởng. Hơn thế, trong sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp (DN) có tâm lý chờ đợi (chính sách cụ thể, sự giảm giá vật tư, nguyên liệu nhập khẩu, lãi suất và tỷ giá thay đổi...). Thách thức lớn của chúng ta là các áp lực gây lạm phát và mức lạm phát tính theo thời gian còn cao (hai con số), trong khi những tháng gần đây chỉ số giá (biểu hiện sức mua) giảm và sản xuất, kinh doanh đang ở chiều sút kém. Chúng ta vẫn phải thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát và chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế. Vừa phải rút một số tiền thừa trong lưu thông ở những chỗ cần rút về, vừa phải đưa tiền vào lưu thông theo yêu cầu kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Vấn đề là đưa vào đâu, rút ở chỗ nào khối lượng tiền đó để vừa không để lạm phát quay trở lại, vừa ngăn chặn suy giảm kinh tế (tất nhiên trong lúc này việc ngăn chặn suy giảm kinh tế có vị trí và ý nghĩa quan trọng). Ðây là hai vấn đề mâu thuẫn nhưng cũng hỗ trợ nhau nếu làm đúng hướng và đúng liều lượng vì nếu suy giảm kinh tế thì không duy trì được tăng trưởng, không bảo đảm ổn định kinh tế, chính trị - xã hội và không giải quyết được vấn đề an sinh xã hội. 2. Các giải pháp kích cầu ở Việt Nam trong thời gian qua: a) Về mặt chính sách Ngày 11/12, Chính phủ ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giảm pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một trọng tâm của Nghị quyết số 30, trong đó Chính phủ xác định 12 giải pháp mà các bộ ngành liên quan phải triển khai. Kích cầu đầu tư : 8 giải pháp cơ bản Kích cầu tiêu dùng: 4 giải pháp cơ bản Trong thực tiễn Về chính sách thuế sẽ điều chỉnh giãn, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 trong thời gian 9 tháng đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế; giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân đến tháng 5-2009. Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 1-2 đến 31-12-2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90% thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán, giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp trong quý 4/2008 và cả năm 2009. Ngoài ra còn có các chính sách giãn thời gian ân hạn nộp thuế; giảm thuế suất thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu một số mặt hàng quan trọng. Về tài chính có các chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động vay vốn các ngân hàng thương mại để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh (quy mô dự án tối thiểu là 100 triệu đồng). Đối với chính sách tiền tệ thì ngoài hạ lãi suất cơ bản xuống 7%, áp dụng từ 1-2, Chính phủ cũng dành khoản tiền trị giá 1 tỉ đô la Mỹ (tương đương 17.000 tỉ đồng) hỗ trợ lãi suất 4% cho các khoản vay sử dùng làm vốn lưu động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dự kiến, khoản tiền này sẽ đem về khoảng 420.000 tỉ đồng giá trị các khoản vay được hỗ trợ lãi suất. Ngoài ra, có thể tính đến khoản 36.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ và hàng loạt các chính sách an sinh xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn khác. Như vậy, tổng số tiền sử dụng cho gói kích cầu như nói ở trên, theo một số công bố của thành viên Chính phủ, tổng cộng có thể lên đến trên 120.000 tỉ đồng, tương đương khoảng 24% tổng dự toán chi ngân sách của năm 2009. Đây là khoản tiền rất lớn so với nhiệm vụ chi thường xuyên hàng năm của Chính phủ. Tác động và những nhận định đánh giá về các giải pháp kích cầu Tác động hiện tạiCác thành viên Chính phủ thừa nhận, công tác thống kê hiện nay yếu, dẫn đến việc triển khai các chủ trương chính sách chậm và không sát với điều kiện thực tiễn, do vậy, mỗi bộ ngành phải chịu trách nhiệm về công tác dự báo thống kê của ngành mình. Việc chi ra 1 tỉ đô la nói trên là hết sức cần thiết nhưng cũng cần hiểu gói chi tiêu này trong dự kiến của Chính phủ không nhằm mục đích thay thế toàn bộ sự giảm sút của tổng cầu trong nền kinh tế thời điểm hiện nay. Đây chỉ là một giải pháp để bù đắp một phần sự giảm sút của tổng cầu. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, việc quản lý đang gặp khó khăn thì cần tập trung phần tăng chi tiêu của Chính phủ vào ba nhiệm vụ mà bản thân thị trường không thể thay thế, đó là: xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng; giải quyết công ăn việc làm; phục vụ các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp. Phầ...
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 31 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply. |