Trung tâm mạng là gì

Network Operations Center [NOC]Trung tâm điều hành mạng [NOC]. Đây là nghĩa tiếng Việt của thuật ngữ Network Operations Center [NOC] - một thuật ngữ thuộc nhóm Technology Terms - Công nghệ thông tin.

Độ phổ biến[Factor rating]: 5/10

Một trung tâm hoạt động mạng [NOC] là một vị trí trung tâm mà từ đó nhà quản trị mạng quản lý, kiểm soát và giám sát một hoặc mạng hơn. Chức năng tổng thể là để duy trì hoạt động mạng tối ưu trên một loạt các nền tảng, phương tiện và các kênh truyền thông.

Xem thêm: Thuật ngữ công nghệ A-Z

Giải thích ý nghĩa

Một trung tâm điều hành mạng lưới giám sát mạng viễn thông cho báo động hoặc điều kiện nhất định mà có thể đòi hỏi sự chú ý đặc biệt để tác động tránh đến hiệu suất mạng. Họ theo dõi mất điện, báo động dòng thông tin liên lạc và các vấn đề hiệu suất có thể ảnh hưởng mạng. NOC có khả năng phân tích vấn đề, thực hiện xử lý sự cố, trao đổi với cán bộ kỹ thuật tại chỗ và theo dõi các vấn đề cho đến khi họ được giải quyết. Trung tâm mạng lưới hoạt động đóng vai trò là đầu mối chính để xử lý sự cố phần mềm, phân phối phần mềm và cập nhật định tuyến và quản lý tên miền phối hợp với mạng lưới chi nhánh và giám sát hoạt động. Trung tâm mạng lưới hoạt động bao gồm dãy bàn đối diện với bức tường video, hiển thị chi tiết báo động đáng kể, sự cố liên tục và hiệu suất mạng nói chung. Các bức tường phía sau của trung tâm hoạt động mạng là bằng kính và phòng gắn được sử dụng bởi các thành viên của đội có trách nhiệm để đối phó với sự cố nghiêm trọng. bàn cá nhân được giao cho công nghệ cụ thể. Kỹ thuật viên có nhiều màn hình trên bàn làm việc của họ với màn hình phụ sử dụng các hệ thống giám sát bảo hiểm từ bàn làm việc. Mạng trung tâm hoạt động xử lý các vấn đề một cách thứ bậc để nếu một vấn đề không được giải quyết trong một khung thời gian cụ thể, mức độ tiếp theo được thông báo để tăng tốc độ giải quyết vấn đề. Hầu hết các trung tâm hoạt động mạng có nhiều tầng, trong đó xác định các kỹ năng của một trung tâm điều hành mạng technician.The vấn đề mà đi qua một NOC đang leo thang một cách có thứ bậc. Khi một vấn đề leo thang không được giải quyết trong thời gian quy định, nó được leo thang một lần nữa để cấp độ tiếp theo để đảm bảo giải quyết nhanh chóng. công ty lưu trữ hầu hết các web và các nhà cung cấp dịch vụ Internet sử dụng NOC để kiểm soát và quản lý thông tin liên lạc nội bộ và quản lý các tài khoản email.

What is the Network Operations Center [NOC]? - Definition

A network operations center [NOC] is a central location from which network administrators manage, control and monitor one or more networks. The overall function is to maintain optimal network operations across a variety of platforms, mediums and communications channels.

Understanding the Network Operations Center [NOC]

A network operation center monitors the telecommunication network for alarms or certain conditions that may require special attention in order to avoid impact on network performance. They monitor power failures, communication line alarms and performance issues that may affect networks. NOCs are capable of analyzing problems, performing troubleshooting, communicating with site technicians and tracking problems until they are resolved. Network operation centers serve as the main focal point for software troubleshooting, software distribution, and updating router and domain name management in coordination with affiliated networks and performance monitoring. Network operation centers include rows of desk facing video walls, which display significant alarm details, ongoing incidents and general network performance. The back walls of network operation centers are glazed and an attached room is used by members of the team responsible for dealing with serious incidents. Individual desks are assigned to specific technology. Technicians have numerous monitors on their desks with extra monitors used to monitor systems covered from the desk. Network operation centers handles issues in a hierarchical manner so that if an issue is not resolved in a specific time frame, the next level is informed to speed up the problem solving. Most of the network operation centers have multiple tiers, which define the skill of a network operation center technician.The issues that go through an NOC are escalated in a hierarchic manner. When an escalated issue is not resolved within the stipulated time, it is escalated once again to the next level to ensure speedy resolution. Almost all Web hosting companies and Internet service providers use NOCs to control and manage internal communications and manage email accounts.

Thuật ngữ liên quan

  • Network Administrator
  • Network Administration
  • Telecommunications
  • Networking
  • Internet Service Provider [ISP]
  • Router
  • Data Center
  • Data Center Management
  • Network Operating System [NOS]
  • Hacking Tool

Source: Network Operations Center [NOC] là gì? Technology Dictionary - Filegi - Techtopedia - Techterm

Bài đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội, số 09-2006, tr. 66-77

TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH MẠNG LƯỚI XÃ HỘI

TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI

Lê Minh Tiến

*

Trong vài thập kỷ gần đây trên thế giới, phương pháp "phân tích mạng lưới xã hội"

[Social Network Analysis - SNA] đã được bàn đến ứng dụng ngày càng nhiều

hơn trong các nghiên cứu hội học nói riêng khoa học hội nói chung. Tại

Việt Nam, phương pháp phân tích mạng lưới xã hội còn khá mới mẻ và do đó việc

ứng dụng phương pháp phân tích này còn khá hạn chế, cho dù đã có một vài tác giả

đã đề cập đến cũng như ứng dụng trong nghiên cứu của mình

1

. Chính vì lẽ đó, bài

viết này sẽ cố gắng trình bày một cách tổng quan trong khả năng có thể của tác giả

về phương pháp phân tích mạng lưới hội; hay nói cụ thể hơn chúng tôi sẽ cố

làm sáng tỏ câu hỏi thế nào phương pháp phân tích mạng lưới hội đâu

những khác biệt của nó so với lối phân tích tương quan giữa các "biến số" thường

được sử dụng trong các nghiên cứu hội học thực nghiệm, để từ đó thể giúp

ích phần nào cho việc tìm hiểu và ứng dụng lối phân tích thú vị này.

1. Thế nào là phân tích mạng lưới xã hội

Trước khi xác định thế nào phương pháp phân tích mạng lưới hội

[PTMLXH], lẽ cần phải xác định xem mạng lưới hội [réseau social/social

network] là gì. Một cách chung nhất, có thể định nghĩa mạng lưới xã hội là một tập

hợp các mối quan hệ giữa các thực thể xã hội gọi chung là các actor. Các thực thể

hội này không nhất thiết chỉ các nhân còn các nhóm hội, các tổ

chức, các thiết chế, các công ty xí nghiệp và cả các quốc gia. Các mối quan hệ giữa

các actor cũng thể mang nhiều nội dung khác nhau từ sự tương trợ, trao đổi

thông tin cho đến việc trao đổi hàng hóa, trao đổi các dịch vụ…

Từ định nghĩa trên về mạng lưới hội, chúng ta thể xác định phương pháp

PTMLXH như một tập hợp các phương pháp chọn mẫu, thu thập xử dữ

kiện [data], các khái niệm, các lý thuyết nhằm mô tả và phân tích các mối quan hệ

giữa các actor trong mạng lưới, các qui luật hình thành và biến chuyển của những

mối quan hệ đó, nhất làm sáng tỏ những ảnh hưởng của các mối quan hệ

hội [hay cấu trúc của mạng lưới] đối với hành vi của các actor. Như vậy với định

nghĩa này, chúng ta thấy phương pháp PTMLXH hoàn toàn khác với lối phân tích

"biến số" [variable analysis] thường được dùng trong các nghiên cứu hội học

thực nghiệm. Khác biệt lớn nhất đó là khác biệt về định đề xuất phát trong nghiên

cứu: nếu trọng tâm của lối phân tích biến số chú ý đến các đặc trưng [attribut]

dân số học kinh tế - hội của các actor như tuổi tác, giới tính, tôn giáo, dân

tộc, nghề nghiệp, học vấn, thu nhập… xem hành vi của các actor như bị qui

định bởi những đặc trưng đó. Ngược lại, phương pháp PTMLXH lại quan niệm

khác khi cho rằng chính các quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa các actor mới là yếu

tố quyết định đến hành vi chứ không phải là các đặc trưng của các actor; đồng thời

sự khác biệt giữa các actor cũng không do các đặc trưng quyết định, nhưng chính

cái cấu trúc của các quan hệ xã hội sẽ quyết định. Chẳng hạn dưới góc nhìn mạng

* Thạc sĩ. Giảng viên trường Đại học Mở Tp.HCM

lưới, việc tiếp cận các nguồn lực hội của actor như uy tín, tình thân, thông tin,

quyền lực, vốn xã hội… phụ thuộc chủ yếu vào các quan hệ xã hội chứ không phải

các đặc trưng của các actor [P. Mercklé, 2004, 93]. Tóm lại, nếu lối phân tích

biến số chú trọng đến các mối quan hệ giữa các đặc trưng thì lối phân tích mạng

lưới xã hội lại quan tâm chủ yếu đến các mối quan hệ và hình thức của chúng giữa

các actor.

Chính quan tâm đến các mối quan hệ hội nên loại dữ liệu của phưong pháp

PTMLXH cũng thuộc dạng "dữ liệu quan hệ" [relational data], mặc phương

pháp thu thập không khác nhiều so với các phương pháp thu thập dữ liệu trong

phân tích biến số. Dưới đây là phân loại của J. Scott về các loại phương pháp phân

tích tương ứng với các loại dữ kiện khác nhau trong nghiên cứu khoa học xã hội:

Loại hình nghiên cứu Nguồn dữ kiện Loại dữ kiện Kiểu phân tích

Điều tra xã hội Bản câu hỏi, phỏng đặc trưng Phân tích biến số

vấn

Dân tộc học chí Quan sát Ý niệm Phân tích loại hình

Nghiên cứu tài liệu Văn bản Quan hệ PT mạng lưới

Các loại dữ kiện và phương pháp phân tích

[J. Scott, 1991, 3]

dữ liệu của phương pháp PTMLXH loại dữ liệu quan hệ nên cách đơn vị

được lựa chọn trong mẫu nghiên cứu thường ít được lựa chọn một cách độc lập và

mang tính đại diện như trong lối phân tích biến số. Cách thức chọn mẫu thường

dùng chọn mẫu "liên hoàn" [tạm dịch từ chữ snowballing/boule de neige]. Với

cách chọn mẫu này, chẳng hạn chúng ta muốn nghiên cứu về các mối quan hệ bạn

bè, chúng ta sẽ chọn một nhân A nào đó vào trong mẫu nghiên cứu yêu cầu

anh ta nêu tên bảy người bạn thân của anh ta. Sau đó chúng ta cần tìm ra bảy người

bạn đó và lại yêu cầu từng người trong số họ nêu tên bảy người bạn thân của mình,

và cứ như thế cho đến khi số người được nêu không còn nhiều nữa [chẳng hạn chỉ

nêu ra được hai người bạn thân mà thôi] tất cả những người này đều được đưa

vào trong mẫu nghiên cứu. Chính vậy thường các nhà nghiên cứu sử dụng

phương pháp PTMLXH ít khi nào mô tả mẫu nghiên cứu của mình vì mẫu ít mang

tính "đại diện" hơn so với lối phân tích biến số [R.A. Hanneman, M. Riddle, 2005,

5]. Cách thức chọn mẫu mang tính đại diện như lối phân tích biến số cũng thể

được dùng trong PTMLXH nhưng phải tùy theo chủ đề nghiên cứu, vì với lối chọn

mẫu này, nhà nghiên cứu sẽ không tính toán được các "chỉ số trung tâm"

[centrality indices] rất quan trọng trong phân tích mạng lưới.

2. Lịch sử của lối tiếp cận mạng lưới

Mặc dù được xem như chỉ chính thức ra đời vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước

với sự xuất hiện của Mạng lưới phân tích mạng lưới xã hội quốc tế [International

Network for Social Networks Analysis -INSNA] do Barry Wellman thành lập tại

Toronto [Canada] vào năm 1977 [M. Forsé, S. Langlois, 1997, 28], nhưng cần

khẳng định rằng những ý tưởng về phân tích mạng lưới xã hội đã từ đầu thế kỷ

XX gắn liền với tên tuổi của nhà hội học lừng danh người Đức Georg Simmel

[1858-1918]. Sở dĩ G. Simmel được gần như tất cả các nhà "nghiên cứu mạng

lưới" xem như "nhà sáng lập" của lối tiếp cận này là bởi chính ông người

công đầu trong việc đưa khái niệm "tính liên hệ xã hội" [tạm dịch từ chữ

Geselligkeit/sociability/sociabilité] thành một trong những chủ đề chính trong phân

tích hội hội học [M. Forsé, 1991, 247]. Theo ông thì khái niệm tính liên h

hội được hiểu như một tập hợp các mối quan hệ giữa một nhân/ một nhóm

với những cá nhân khác/nhóm khác [A. Degenne, M. Forsé, 1994, 38]. Sau đó các

nhà hội học thuộc trường phái Chicago đã thao tác hóa khái niệm này của G.

Simmel thành các chủ đề nghiên cứu như các mối quan hệ láng giềng, quan hệ gia

đình, quan hệ bạn trong đời sống đô thị [C. Bidart, 1988, 621]

2

. Bản thân G.

Simmel vào năm 1908 cũng đã cho ra đời tác phẩm The Web of Group-Affiliations

[Die Kreuzung Sozialer Kreise], trong đó ông bàn đến các mối liên hệ hội

cách thức mà các mối quan hệ xã hội này tác động đến hành vi của các cá nhân.

Nếu như G. Simmel được xem như là người đặt nền móng cho lối phân tích mạng

lưới hội thì nhà nhân học người Anh J. A. Barnes lại được xem như người

sáng tạo ra khái niệm "mạng lưới hội" [social network]. Vào đầu những năm

1950, ông đã đến đảo Bremnes, một đảo nhỏ gồm 4.600 dân của Na Uy, để nghiên

cứu đời sống của cư dân nơi đây trong thời gian hai năm. Sau đó, vào năm 1954,

ông cho công bố trên tạp chí Human Relations bài viết "Class and Committees in a

Norvegian Island Parish" để mô tả tổ chức hội tại Bremnes thông quan việc

phân tích các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng này. Theo J. A.

Barnes thì tại Bremnes có ba loại tổ chức khác nhau: loại thứ nhất là tổ chức chính

trị bao gồm các đơn vị hành chính và các tổ chức tự nguyện và loại tổ chức này có

một hệ thống thứ bậc trên dưới tương đối ổn định; loại tổ chức thứ hai tổ chức

kinh tế được tổ chức chủ yếu quanh nghề đánh bắt thủy hải sản; cuối cùng tổ

chức xã hội bao gồm toàn bộ các mối quan hệ phi chính thức giữa các thành viên

của đảo. Chính khi mô tả kiểu tổ chức thứ ba này J. A. Barnes đã sáng tạo ra

thuật ngữ "mạng lưới xã hội". Theo ông, các cư dân tại Bremnes gắn chặt với nhau

trong một mạng lưới [enmeshed in a close web] quan hệ bạn bè, thân tộc ông

cũng nhận thấy các mối quan hệ xã hội giữa các cư dân trên cũng mang tính

"chuyển tiếp" [transitive] theo nghĩa là một cá nhân A nào đó có quan hệ với hai cá

nhân B và C, do đó có nhiều khả năng B và C cũng sẽ có quan hệ với nhau.

Thế nhưng theo S. Wasserman và K. Faust [1994] thì phương pháp PTMLXH chỉ

thực sự ra đời cùng với sự ra đời của phương pháp "trắc lượng hội"

[sociométrie/sociometry] của nhà tâm lý học người Mỹ gốc Romania J. L. Moreno

[1889-1974]. Vào năm 1934, J. L. Moreno cho ra đời tác phẩm Who Shall

Survive?, một trong những tác phẩm chính yếu của ông và trong tác phẩm này, ông

đã đưa ra các nguyên tắc và công cụ của phương pháp trắc lượng xã hội. Theo ông,

phương pháp y gồm hai công cụ bản "sociometric test" "lược đồ xã

hội" [le sociogramme/sociogram]. Với công cụ "sociometric test", nhà nghiên cứu

sẽ khám phá được các cấu trúc hội trong nhóm, trong tổ chức thông qua việc

làm sáng tỏ các lực hút [attractions] và các lực đẩy [répulsions] giữa các thành viên

trong một nhóm, một tổ chức [chẳng hạn hỏi từng thành viên xem họ thích

không thích ai trong mạng lưới] thông qua bảng ma trận [matrix]. Sau đó nhà

nghiên cứu sẽ dùng đến công cụ "lược đồ xã hội" để thể hiện trên mặt phẳng những

lực hút lực đẩy giữa các thành viên trong nhóm/tổ chức đó. Trong lược đồ

hội, các "điểm" [point] thể hiện các actor các "đường dây" [line] thể hiện các

mối liên kết giữa các actor trong nhóm/tổ chức. Với việc thể hiện trên mặt phẳng,

chúng ta sẽ nhìn thấy "hình ảnh" cụ thể của cấu trúc xã hội. Tuy không khẳng định

như S. Wasserman và K. Faust, nhưng nhiều nhà nghiên cứu cũng đã thống nhất

rằng phương pháp trắc lượng xã hội của J. L. Moreno là công cụ phân tích đầu tiên

của phương pháp PTMLXH [P. Mercklé, sđd, 18-19].

Như vậy chỉ nhìn một cách lược về lịch sử, chúng ta thể thấy được rằng

phương pháp PTMLXH một "sản phẩm đa ngành" chứ không độc quyền của

bất cứ ngành nào, bởi ngoài những đóng góp của các nhà xã hội học, các nhà nhân

học, các nhà tâm lý học, phương pháp PTMLXH hiện đại cũng dựa rất nhiều vào

toán học [lý thuyết về Đồ thị nhất môn Đại số tuyến tính]. Do đó, phương

pháp này hiện được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học khác nhau chứ

không riêng trong lĩnh vực khoa học xã hội.

3. Một số khái niệm liên quan đến mạng lưới

Để tiến hành phương pháp PTMLXH, lẽ cũng cần bắt đầu bằng việc nắm bắt

một số thuật ngữ và khái niệm thường dùng trong lối phân tích này.

- Actor/Node/Point/Agent [tác nhân, nút thắt, điểm]: Các thuật ngữ này được

dùng để các đơn vị trong mạng lưới. Các đơn vị này thể người, nhóm, tổ

chức, công ty, quốc gia…

- Tie/Link/Edge/Line/Arc [dây, đường liên kết]: Chỉ mối liên kết giữa các actor

trong mạng lưới.

- Step/Pas [bước]: Thuật ngữ chỉ khoảng cách giữa hai actor nào đó trong

mạng lưới. Ví dụ nếu A và B có liên hệ trực tiếp với nhau thì khoảng cách giữa hai

actor này sẽ là 1 bước.

- Path/Chemin [đoạn đường]: Nói đến tổng số bước mà một actor nào đó phải "đi

qua" để đến được một/tất cả các actor khác trong mạng lưới.

- Clique [cụm actor]: Thuật ngữ này được dùng để chỉ các mạng lưới mà ở đó tất

cả các actor đều quan hệ trực tiếp với nhau [nôm na ai cũng biết quan hệ

qua lại với nhau cả]. Trong một clique, các quan hệ giữa các actor sẽ là các mối

"quan hệ mạnh" [The Strong ties] theo ngôn ngữ của M. Granovetter.

- Geodesic distance/Distance géodésique [khoảng cách ngắn nhất]: Thuật ngữ chỉ

đường ngắn nhất trên bề mặt giữa hai khoảng cách điểm, tức là khoảng cách ngắn

nhất giữa hai actor nào đó trong mạng lưới.

- Uniplexity/uniplex [quan hệ đơn nội dung]: Chỉ mối quan hệ chỉ một "nội

dung" giữa hai hoặc nhiều actor. Chẳng hạn A B quan hệ với nhau chỉ trên

cách là đồng nghiệp của nhau mà thôi. Theo Granovetter thì một trong những đặc

điểm của các mối quan hệ yếu [The Weak ties] là các quan hệ đơn nội dung.

- Multiplexity/Multiplex [quan hệ đa nội dung]: Khi mối quan hệ giữa hai actor

từ hai nội dung trở lên. dụ A B quan hệ với nhau bạn học, đồng

hương, đồng nghiệp [tức 3 nội dung].

- Reciprocity/Réciprocité [quan hệ tương hỗ]: Thuật ngữ chỉ mối quan hệ hai chiều

[bidirectional] giữa hai actor trong mạng lưới. Ví dụ quan hệ giữa mẹ và con, bạn

bè…

- Symmetry/Symétrie [quan hệ cân xứng]: Khi hai actor có quan hệ tương hỗ

cùng nội dung. Chẳng hạn A và B cùng xem nhau là bạn bè.

- Asymmetry/Asymétrie [quan hệ phi cân xứng]: Khi hai actor có quan hệ tương

hỗ nhưng không cùng nội dung. Chẳng hạn A B quan hệ qua lại với nhau

nhưng A là thầy và B là trò, quan hệ giữa A và B không có cùng nội dung quan hệ.

- Finite limits [quan hệ hữu hạn]: Thuật ngữ được dùng để chỉ việc actor không

thể nào thêm được các mối quan hệ hội mới nếu không từ bỏ bớt một số

quan hệ xã hội cũ của mình

- Pendant [quan hệ phụ]: Khái niệm chỉ một actor nào đó chỉ gắn với mạng

lưới thông qua duy nhất một mối liên hệ. Chẳng hạn trong mạng lưới gồm bốn

actor ABCD dưới đây, D được gọi pendant chỉ gắn với mạng lưới bằng một

mối quan hệ duy nhất [chỉ gắn kết với C]. Những actor gắn kết với mạng lưới bằng

quan hệ phụ được gọi là "người bên lề" [Peripheral Player] của mạng.

Hình 1. Mạng lưới có 1 pendant [D]

- Ego/Personal network [mạng lưới nhân]: Mạng lưới nhân hay còn gọi

"mạng lưới qui ngã" [ego-centered] bao gồm một actor chính gọi là ego và những

actor khác quan hệ với ego với nhau. Khi nghiên cứu mạng lưới này, nhà

nghiên cứu sẽ tập trung đo lường các mối quan hệ giữa ego với các actor khác

liên quan với ego và các mối quan hệ giữa các actor [có quan hệ với ego] với nhau.

Dạng câu hỏi như "trong ba tháng qua ông/bà thường đi ăn tối với ai?" chính

dạng nghiên cứu mạng lưới cá nhân.

- Tertius gaudens [kẻ thứ ba hưởng lợi]: Thuật ngữ được Simmel đưa ra khi phân

tích về nhóm ba người [triades] sau đó R. Burt dùng lại khi bàn về thuyết

"Các lỗ trống cấu trúc" [Structural holes] trong mạng lưới. Theo Burt, một actor

nào đó trong mạng lưới được gọi tertius gaudens khi đó quan hệ với các

actor khác trong mạng lưới [gọi alters] nhưng các alter ấy lại không có quan hệ

với nhau. dụ trong mạng lưới gồm ba actor ABC dưới đây, A chính tertius

gaudens. Cũng theo Burt, vị trí kẻ thứ ba hưởng lợi một nguồn "vốn hội"

[social capital] của actor.

Hình 2. Mạng lưới có 1 Tertius gaudens [A]

4. Một vài hệ số quan trọng trong phân tích mạng lưới xã hội

4.1. Hệ số cố kết của mạng lưới [Density/Cohesion]

Thỉnh thoảng đâu đó chúng ta đọc thấy những nhận định như "mạng lưới của

người nghèo hạn hẹp nên người nghèo ít khả năng thoát nghèo…". Vậy một

câu hỏi được đặt ra dựa vào đâu để chúng ta so sánh hai hay nhiều mạng lưới

với nhau? Mạng lưới nào là mạnh, mạng lưới nào yếu, mạng lưới nào hiệu quả hơn

mạng lưới nào? Trong phân tích mạng lưới có rất nhiều hệ số để so sánh các mạng

lưới với nhau một trong những hệ số quan trọng nhất đó "hệ số cố kết" của

mạng lưới. Khi hệ số cố kết của mạng lưới càng lớn, mức độ gắn kết, sự chặt ch

của các mối quan hệ giữa các actor trong mạng lưới cũng càng lớn, do đó, sự

tương trợ, hỗ trợ… giữa các actor cũng càng nhiều, càng hiệu quả hơn, sự điều tiết

của mạng lưới đối hành vi của actor cũng cũng mạnh mẽ hơn ngược lại. Vậy

làm sao để đo được hệ số cố kết này?

Một cách tổng quát, tính cố kết của mạng lưới tỷ lệ giữa tổng các mối liên hệ

thực tế trong mạng lưới tổng các mối quan hệ thuyết của [tức là tổng các

mối quan hệ có thể có của mạng]. Công thức tính như sau:

2/]1[

nn

k

D

Trong đó: k = Tổng các mối liên hệ thực tế của mạng lưới

n [n-1]/2 = Tổng các mối liên hệ lý thuyết của mạng lưới

Giá trcủa hệ số này chạy từ 0.00 - 1.00. Càng gần tới 1.00 thì tính cố kết của

mạng lưới càng mạnh do đó sự tương trợ, sự thông tin… giữa các thành viên

trong mạng lưới được diễn ra càng tốt ngược lại. Chẳng hạn như trong mạng

lưới gồm bốn actor ABCD như hình 1 bên trên, hệ số cố kết của mạng lưới bằng

0.67.

Theo nghiên cứu của Fischer [1948] cho thấy, các mạng lưới "đơn thức" [chỉ

một tập hợp actor] thường hệ số cố kết trung bình 0.84; các mạng lưới "hai

thức" [gồm hai nhóm actor], hệ số cố kết trung bình là 0.65; mạng lưới "ba thức",

hệ số cố kết trung bình 0.49 mạng lưới "bốn thức" 0.38 [A. Degenne, M.

Forsé, sđd, 65]. Và theo Scott, hệ số cố kết của mạng lưới phụ thuộc vào số lượng

actor của nó, tức khi càng nhiều actor thì hệ scố kết của càng nhỏ

ngược lại [J. Scott, sđd, 97]. Đối với clique, hệ số cố kết thường tuyệt đối, tức

1.00.

4.2. Các hệ số đo lường tính trung tâm của actor

Bên cạnh việc đo lường hệ số cố kết của cả mạng lưới, trong phân tích mạng lưới,

các nhà nghiên cứu còn đo lường vị trí của từng actor trong mạng lưới, bởi

mạng lưới có tính cố kết cao nhưng không phải mọi actor đều có vị trí hay "quyền

lực" như nhau trong mạng lưới. để đo lường sự hơn kém giữa các actor trong

mạng, nhà nghiên cứu sẽ tiến hành đo lường các hệ số thể hiện tính trung m

[centrality/centralité] của các actor trong mạng lưới, actor nào tính trung tâm

càng lớn thì sẽ càng có vị trí càng cao, quyền lực càng lớn và sức tác động đến các

actor khác càng mạnh. Trong số các chỉ số đo lường tính trung tâm của actor, ba

số do Linton. C. Freeman phát triển vào năm 1979 thường xuyên được các nhà

nghiên cứu sử dụng nhất

3

. Chúng ta sẽ lần lượt bàn đến ba hệ số này.

4.2.1. Hệ số trung tâm trực tiếp [degree centrality/la centralité de degré]

Hệ số này sẽ giúp chúng ta đo lường được số lượng của các mối quan hệ trực tiếp

của một actor nào đó với các thành viên khác trong mạng lưới. Giá trị của hệ số

này chạy từ 0.00 đến 1.00 khi giá trị càng gần tới 1.00 thì tính trung tâm trực

tiếp của actor càng lớn, tức càng nằm vị trí trung tâm của mạng lưới. Công

thức tính như sau:

k

Cd

Trong đó, k = Tổng số các mối quan hệ trực tiếp của actor

i

n = Tổng số actor trong mạng lưới

Chúng ta cùng xem cách đo lường hệ số y cho mạng lưới gồm mười actor như

trong hình 3 dưới đây:

Hình 3. Mạng lưới gồm mười actor

Với mạng lưới như trên, actor số 5 người hệ số trung tâm trực tiếp cao nhất

trong mạng lưới là 0.67 [có 6 quan hệ trực tiếp], và đứng ở vị trí kế tiếp là actor số

4 với hệ số trung tâm trực tiếp là 0.45. Khi một actor nào đó hệ số trung tâm

trực tiếp lớn nhất trong mạng lưới [như actor số 5 bên trên] thì actor đó sẽ được gọi

là "hub" [cái rốn] của mạng.

Đây là một hệ số khá quan trọng bởi nó thể hiện ưu thế của actor trong mạng lưới.

Tại sao actor có nhiều ưu thế? Bởi vì khi có nhiều các mối quan hệ [tức tính trung

tâm trực tiếp cao] thì actor càng có nhiều "lựa chọn" để thỏa mãn các nhu cầu của

mình, càng ít bị phụ thuộc, càng có nhiều cơ hội khai thác được "nguồn lực" trong

mạng lưới và càng có nhiều cơ may để đóng vai trò là "kẻ thứ ba hưởng lợi" do có

nhiều cơ may là "kẻ phân xử" khi các actor khác mâu thuẫn với nhau.

4.2.2. Hệ số trung tâm lân cận [closeness centrality/la centralité de proximité]

Điểm yếu của hệ số trung tâm trực tiếp là nó chỉ tính các mối quan hệ trực tiếp của

actor thôi nên chưa chắc actor hệ số trung tâm trực tiếp cao người "gần

gũi" với mọi thành viên khác trong mạng. Tính gần gũi hay lân cận cũng một

trong những tiêu chí quan trọng thể hiện vị thế của actor trong mạng, bởi một actor

càng gần gũi với các thành viên trong mạng lưới bao nhiêu thì actor đó càng dễ có

nhiều thông tin, càng có nhiều uy thế và do đó càng dễ gây ảnh hưởng lên toàn bộ

mạng lưới. Để đo lường hệ số này, chúng ta sẽ tính tổng số "bước" [step] của

"đoạn đường" ngắn nhất [geodesic path] actor phải "đi" để đến được với tất cả

các thành viên khác trong mạng lưới. Hệ số này cũng có giá trị đi từ 0.00 đến 1.00,

càng gần đến 1.00 thì actor càng gần với mọi thành viên khác trong mạng lưới, tức

đoạn đường phải đi để đến với mọi actor khác càng ngắn ngược lại. Công thức

tính hệ số này như sau:

],[

1

yxd

n

Cc

Trong đó: n = Tổng số actor trong mạng lưới

∑d [x,y] = Tổng số "bước" [step] của đoạn đường ngắn nhất actori

phải đi để đến với mọi actor trong mạng;

Với mạng lưới như hình 3 bên trên, để đi đến mọi actor khác trong mạng lưới, hai

actor số 4 và số 5 là hai actor có số bước phải đi là ít nhất với chỉ 14 bước

4

, do đó

hai actor này cũng có cùng hệ số trung tâm lân cận là 0.64; trong khi hai actor số 1

số 2 hai actor tổng số bước nhiều nhất 26 bước nên hệ số trung tâm

trung lân cận cũng thấp nhất là 0.35.

4.2.3. Hệ số trung tâm trung gian [betweenness centrality/la centralité

d'intermédiarité]

Theo quan điểm của Freeman, một actor nào đó trong mạng lưới có thể ít gắn kết

với các thành viên khác trong mạng lưới [tức hệ số trung tâm trực tiếp thấp], cũng

không "gần gũi" lắm với mọi thành viên trong mạng lưới [tức hệ số trung tâm lân

cận thấp], nhưng lại "cầu nối" [bridge], "nhà trung gian" cần thiết trong mọi

cuộc trao đổi trong mạng lưới. Nếu một actor đóng được vai trò trung gian càng

lớn trong mạng lưới, actor đó sẽ càng ở vị trí thuận lợi trong việc "kiểm soát" mọi

giao dịch, mọi thông tin trong mạng lưới; actor đó cũng tác động đến mạng lưới

một cách dễ dàng bằng cách thanh lọc hoặc "lái" thông tin lưu chuyển trong mạng

lưới theo hướng lợi cho mình nếu muốn; đồng thời actor đó cũng đứng ở vị trí

tốt nhất để thúc đẩy sự phối hợp giữa các thành viên khác trong mạng lưới. Hệ số

này cũng đi từ 0.00 đến 1.00. Khi một actor nào đó có hệ số trung tâm trung gian

càng gần đến 1.00 thì số lượng quan hệ giữa các actor khác phải "thông qua" actor

này càng nhiều và do đó ảnh hưởng của actor cũng càng lớn.

Cách tính hệ số trung tâm trung gian như sau:

2/]2][1[

];,[

nn

xzjn

CB

Trong đó n[j,z;x] = Tổng số lần làm "trung gian" của actor

i

n = Tổng số actor trong mạng

Trong mạng lưới ở hình 3, actor số 4 có hệ số trung tâm trung gian cao nhất là 0.50

bởi tổng số lần mà actor này đóng vai trò trung gian cho các mối quan hệ giữa các

actor trong mạng lưới là 18 lần [18/36]; actor số 3 hệ số trung m trung gian

cao thứ hai là 0.42 [15/36]

5

. Như vậy, actor số 4 là actor ảnh hưởng mạnh nhất

trong mạng bởi actor này kiểm soát đến 50% các mối quan hệ giữa các actor khác

trong mạng; actor số 3 đứng thứ hai với tầm kiểm soát là 42%.

5. Một lý thuyết trong phân tích mạng lưới xã hội

Như đã trình bày bên trên, phương pháp PTMLXH cách tiếp cận khác với lối

phân tích tương quan giữa các biến số do đó thuyết sử dụng trong lối phân

tích này cũng có nét đặc thù riêng. Trong số nhiều lý thuyết của PTMLXH, có hai

lý thuyết mà các nhà nghiên cứu không thể không nói đến lý thuyết "Sức mạnh

của các mối quan hệ yếu" [The Strength of Weak ties] do nhà xã hội học người Mỹ

Mark Granovetter triển khai lần đầu vào năm 1973 [điều chỉnh lại vào năm 1983]

6

,

thuyết "Các lỗ trống cấu trúc" [Structural Holes] được Ronald S. Burt định

hình vào năm 1992.

5.1. Sức mạnh của các quan hệ yếu

Theo M. Granovetter, khi tiến hành phân tích mạng lưới, nhà nghiên cứu cần phải

phân biệt các mối quan hệ [mạnh/yếu] trong mạng lưới theo các tiêu chí như sau:

- Độ dài của mối quan hệ: ở đây nhà nghiên cứu sẽ chú ý đến hai yếu tố "thâm

niên" của mối quan hệ và thời gian sinh hoạt chung của các actor trong mạng;

- Xúc cảm, tình cảm của các mối quan hệ;

- Sự tin cậy của các quan hệ;

- Các hoạt động tương hỗ của các quan hệ;

- Tính "đa diện" của các mối quan hệ, tức sự đa dạng về nội dung của các quan

hệ.

Từ các tiêu chí đó, ông đã phân biệt các mối quan hệ yếu [weak ties] với các mối

quan hệ mạnh [strong ties] như sau:

- Quan hệ yếu các mối quan hệ không chiếm nhiều thời gian của actor, ít nội

dung, cường độ xúc cảm yếu và sự tin cậy lẫn nhau không cao [chẳng hạn quan hệ

với bà con xa, quan hệ giữa những người "biết" nhau chứ không "thân" với

nhau];

- Quan hệ mạnh các mối quan hệ chiếm nhiều thời gian của các actor, đa nội

dung, sự tin cậy và cường độ xúc cảm rất cao [chẳng hạn quan hệ giữa các thành

viên trong gia đình, các nhóm bạn thân kiểu như các nhóm mang các biệt danh

"4H" hay "Ngũ long công chúa"…]

Một điều cần lưu ý là trong PTMLXH, nhà nghiên cứu tuyệt đối không được phép

nghĩ rằng các mối quan hệ yếu không quan trọng bằng các mối quan hệ mạnh

những lý do sau:

- Các mối quan hệ mạnh có một nhược điểm lớn là thường tự khép kín trong mạng

lưới của mình, do các actor thường dành nhiều thời gian cho các mối quan hệ

này nên thông tin lưu chuyển trong mạng thường có tính lặp lại ít mới mẻ.

Chẳng hạn như một nhóm bạn thân ngày nào cũng gặp nhau thì "nội dung" trao đổi

sẽ không nhiều và không thể mới mẻ được;

- Các mối quan hệ yếu lại thường "hướng ngoại" hơn, thời gian quan hệ ít nên

thông tin sẽ phong phú và mới mẻ hơn. Chẳng hạn hai người bạn lâu ngày mới gặp

nhau sẽ rất có nhiều thông tin để trao đổi với nhau.

Xét về sự phong phú mới mẻ của thông tin, các mối quan hệ yếu mới yếu tố

chính làm tăng "vốn xã hội" của actor chứ không phải là các mối quan hệ mạnh bởi

nó sẽ giúp mở rộng mạng lưới hội của cá nhân. Khi xét về sự tin cậy lẫn nhau

như một yếu tố thuộc vốn hội thì các mối quan hệ mạnh lại hiệu quhơn,

nhưng chúng cũng dễ dẫn đến "sự chia cắt xã hội" [social fragmentation] hơn.

M. Granovetter đã chứng minh "sức mạnh" của các mối quan hệ yếu trong nghiên

cứu của mình về các cách thức tìm việc làm của một mẫu gồm 266 người đã thay

đổi công việc tại vùng Newton, thuộc thành phố Boston vào năm 1973. Trong

nghiên cứu này, Granovetter đưa ra ba cách tìm kiếm việc làm là 1] thông qua các

mối quan hệ xã hội của cá nhân, 2] các phương tiện chính thức [ví dụ xem báo] và

3] cách trực tiếp [chẳng hạn nhân tự đến nơi xin việc nơi đó không đăng

tuyển người]. Kết quả cho thấy 56% số người được hỏi cho biết họ tìm được

việc làm nhờ qua các mối quan hệ xã hội của mình; trong đó có 31% nhờ các mối

quan hệ gia đình [tức các mối quan hệ mạnh] và 69% là qua các mối quan hệ nghề

nghiệp [tức các mối quan hệ yếu]. Từ đó ông kết luận rằng trong vấn đề tìm kiếm

việc làm, các mối quan hệ yếu sẽ hiệu quả hơn các mối quan hệ mạnh [A.

Degenne, M. Forsé, sđd, 126-127]

5.1. Các lỗ trống cấu trúc

Lỗ trống cấu trúc trong mạng lưới xảy ra khi hai actor nào đó trong mạng lưới chỉ

thể truyền thông với nhau/quan hệ với nhau thông qua một actor thứ ba, hoặc

hai actor đó không thể liên kết với nhau để chống lại một actor thứ ba nào đó.

Trong mạng lưới hình 4 bên dưới, chúng ta thấy tồn tại ba lỗ trống cấu trúc

giữa A-B, A-D B-D các cặp actor này khi muốn liên hệ với nhau đều phải

thông qua C.

Hình 4. Mạng lưới với ba lỗ trống cấu trúc

Khi đó actor C sẽ lợi dụng các lỗ thủng cấu trúc này để "trục lợi" cho mình. Burt

đã minh họa điều này bằng dụ về một người rao bán xe hơi hai người

muốn mua, nhưng hai người khách này lại không biết nhau nên khi gặp người này

thì người bán sẽ nói người kia trả giá cao hơn cứ như thế cho đến khi được

giá cao như mong muốn thì người bán sẽ bán. Như vậy trong trường hợp này,

người bán xe đóng vai trò tertius gaudens. Với thuyết này, vốn hội của

actor sẽ phụ thuộc vào mức độ tự chủ của actor, mức độ tự chủ sẽ tăng khi sự

phụ thuộc của actor vào các actor khác giảm, tức khi actor người làm chủ

được nhiều lỗ trống cấu trúc trong mạng lưới./.

1

Xin xem Đặng Nguyên Anh. 1998. "Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư", Tạp

chí Xã hội học, số 02, tr. 16-23. Lê Ngọc Hùng. 2003. "Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng

lưới xã hội: trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên", Tạp chí Xã hội học, số 02, tr. 67-75.

2

thể xem tổng quan các nghiên cứu của Trường phái Chicago trong Chapoulie, J-M. 2001.

La tradition sociologique de Chicago: 1892-1961. Paris: Éditions du Seuil.

3

Linton C. Freeman là một trong những tác giả của phần mềm UCINET chuyên dùng cho

PTMLXH. Ba hệ số trung tâm của actor được ông n đến trong bài viết "Centrality in Social

Network: Conceptual Clarifications" trên tạp chí Social Networks, số 1, 1979.

4

Số bước [step] để actor số 4 đến với actor số 1 là 2, đến với actor số 2 cũng là 2, đến với actor

số 3 1… và cứ như thế ta sẽ có được tổng số bước actro số 4 phải đi qua để đến với mọi

actor khác trong mạng.

5

Để tính được số lần trung gian này, chúng ta thấy các actor 1,2,3 muốn "quan hệ" với các actor

5,…,10 đều phải thông quan actor số 4; các actor số 1,2 muốn quan hệ với các actor 4,…10 đều

phải thông quan actor số 3.

6

Xin xem Granovetter, M. 1973. "The Strength of Weak Ties". American Journal of Sociology,

78 [6]: 1360-80 và Granovetter, M. 1983. "The Strength of Weak Ties: A Network Theory

Revisited" in Collins, R [dir], Sociological Theory, San Francisco: Jossey-Bass, 201-233.

-----------------//-------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Barnes, J. A. 1954. "Class and Committees in a Norvegian Island Parish". Human

Relations, VII, 1: 39-58.

2. Bidart, C. 1988. "Sociabilités: quelques variables". Revue française de sociologie,

XXIX: 621-48.

3. Burt, R. S. 1992. Structural Holes. The Social Structure of Competition. Cambridge

[Mass]: Harvard University Press.

4. Degenne, A., Forsé, M. 1994. Les réseaux sociaux: Une analyse structurale en

sociologie. Paris: Armand Colin.

5. Deroche-Gurcel, L. 1993. "La sociabilité: variations sur un thème de Simmel".

L'Année Sociologique, 43: 147-59.

6. Dessus, Ph. 2001. "Réseaux d'affinité en classe: approche sociométrique",

//web.upmf-grenoble.fr/sciedu/pdessus/sapea/sociometrie.html.

7. Everett, M., Borgatti, S. P. 2005. "Ego network betweenness". Social Networks, 27:

31-38.

8. Ferrand, A. 1997. "La structure des systèmes de relation". L'Année Sociologique, 47:

27-35.

9. Forsé, M. 1991. "Les réseaux de sociabilité: un état des lieux". L'Année Sociologique,

41: 247-63.

10. Forsé, M et Langlois, S. 1997. "Présentation Réseaux, Structures et Rationalité".

L'Année sociologique, 47: 27-34.

11. Hanneman, R. A., Riddle, M. 2005. Introduction to social network analysis.

Riverside, CA: University of California.

12. Lemieux, V. 2001. "Le capital social dans les situations de coopération et de conflit",

//www.isuma.net/v02n01/lemieux/lemieux.pdf.

13. Lemieux, V., Ouimet, M. 2004. L'analyse structurale des réseaux sociaux. Québec:

Les Presses de l'Université de Laval.

14. Lin, N. 1999. "Social networks and status attainment". Annual Review of Sociology,

25: 467-87.

15. Mercklé, P. 2004. Sociologie des réseaux sociaux. Paris: La Découverte.

16. Racine, L. 1999. "Les formes d'action sociale réciproque: dyades et triades",

Sociologie et Sociétés, XXXI: 77-92.

17. Scott, J. 1991. Social network analysis: a Handbook. London: SAGE publications.

18. Simmel, G. 1908. Die Kreuzung Sozialer Kreise. Bản dịch tiếng Anh của R. Bendix.

1955. The Web of Group - Affiliations. New York: Free Press of Glencoe.

19. Wellman, B., Berkowitz, S. D [eds]. 1988. Social Structures: A Network Approch.

Cambridge: Cambridge University Press.

20. Đặng Nguyên Anh. 1998. "Vai trò của mạng lưới hội trong quá trình di cư". Tạp

chí Xã hội học, 02: 16-23.

21. Vũ Thị Phương Anh., Phan Ngọc Chiến., Hoàng Trọng [dịch]. 2006. Một số vấn đề lý

thuyết và phương pháp nghiên cứu Nhân học. TP.HCM: Nxb ĐHQG TP.HCM.

22. Lê Ngọc Hùng. 2003. "Lý thuyết phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội: trường

hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên". Tạp chí Xã hội học, 02: 67-75.

Video liên quan

Chủ Đề