Yếu tố kì ảo trong Liêu trai chí dị

SVTH: Nguyễn Thị Thu Giang  DH4C2

GVHD: Ths. Phùng Hoài Ngọc

MỤC LỤC

 MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………1
  2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….2
  3. Lịch sử vấn đề…………………………………………………………2
  4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….3
  5. Đóng góp của đề tài …………………………………………………..4
  6. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………4
  7. Dàn ý của khoá luận…………………………………………………..5

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN

     1. Nhân vật trong tác phẩm văn học………………………………………7

     2. Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của thi pháp học hiện đại……………………………………………………………………8

CHƯƠNG 2 : VÀI NÉT VỀ BỒ TÙNG LINH

VÀ “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”

1. Tác giả Bồ Tùng Linh…………………………………………………….10

2. Tác phẩm “Liêu trai chí dị”

2.1 Một số đặc điểm về thể loại của “Liêu trai chí dị”……………………12

           2.1.1 Khái niệm “Chí quái truyện”, “Truyền kì”……………………..12

                2.1.1.1  Chí quái truyện……………………………………………12

                2.1.1.2   Truyền kì…………………………………………………12

           2.1.2  “Liêu trai chí dị” – bộ truyện ngắn văn ngôn kế thừa chí quái truyện thời Ngụy Tấn và truyền kì đời Đường cùng với những sáng tạo mới……………………………………………………………………………13

     2.2 Vài nét về nội dung và nghệ thuật của “Liêu trai chí dị”……………..14

           2.2.1. Nội dung………………………………………………………..14

           2.2.2. Nghệ thuật………………………………………………………17

     2.3. Sơ  lược  về  những  hình  tượng  nhân  vật  chủ  yếu  trong  “Liêu trai chí dị”…………………………………………………………………………19

       CHƯƠNG 3: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”

      1. Hình tượng nhân vật nho sinh…………………………………………21

           1.1 Những nhân vật nho sinh mải mê với hai chữ công danh…………21

                1.1.1 Những chàng nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử………….21

                1.1.2 Những chàng nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng công danh…………………………………………………………………………..25

           1.2.  Những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”………………27

      2.  Hình tượng nhân vật phụ nữ…………………………………………..34

           2.1. Nguồn gốc xuất thân………………………………………………34

           2.2. Những người phụ nữ xinh đẹp, tài năng và sống có tình nghĩa, có bản lĩnh ………………………………………………………………………37

           2.3. Những số phận phụ nữ bất hạnh………………………………….42

           2.4  Khát khao hạnh phúc, dám đấu tranh cho tình yêu………………44

KẾT LUẬN………………………………………………50

PHỤ LỤC………………………………………………………………..52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………74

 MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

  Nhắc đến “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh là nhắc tới một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung Quốc nói chung, một trong tám bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất Trung Quốc nói riêng. Ðây là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Trung Hoa với những câu chuyện hư hư thực thực biểu trưng cho một thế giới phương Ðông thời trung đại, con người không có sự ngăn cách tuyệt đối giữa cõi sống và cõi chết. Bằng sự say mê lượm lặt, ghi chép tích lũy từ những cốt truyện dân gian, sự thăng hoa trong cảm xúc, ngòi bút sáng tạo tài hoa của ông đã viết nên “Liêu trai chí dị”. Chính nhờ tác phẩm này đã đưa Bồ Tùng Linh lên hàng một nhà văn kiệt xuất của thời Thuận Trị – Khang Hy và cũng là một trong những cây bút đoản thiên tiểu thuyết hàng đầu của văn học Trung Hoa cổ điển.

Đã hơn ba thế kỉ trôi qua từ khi Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh xuất hiện. Qua bao thăng trầm của cuộc sống, thời gian, bộ đoản thiên tiểu thuyết của ông vẫn còn mãi giá trị và sức sống trường tồn của nó, mãi là niềm say mê, ham thích kỳ thú đối với độc giả mọi thời đại.

Bộ Liêu Trai được ông viết từ năm 31 tuổi (Năm Khang Hy thứ 9) đến năm 68 tuổi (năm 1707) mới hoàn thành. Cuốn sách, do đó mang giá trị gần cả đời một con  người tài hoa, bất đắc chí. Tư tưởng, tình cảm đó quanh năm suốt tháng day dứt, thôi thúc ông căn cứ vào những điều tai nghe mắt thấy cùng những chiêm nghiệm về con người, cuộc sống đương thời, thúc giục ông tìm niềm vui trong sưu tầm và sáng tác văn chương.

Đọc “Liêu trai chí dị”, một bộ đoản thiên tiểu thuyết mang phong cách dân gian với sự hấp dẫn, biến hoá kì ảo, chúng ta nhận thấy rằng bên cạnh tính truyền kì đã làm nên sự hấp dẫn riêng biệt ấy cho Liêu trai thì một phương diện khác cũng góp phần không nhỏ làm nên nét đặc sắc của tác phẩm này đó chính là nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Thế giới nhân vật trong Liêu trai  vô cùng phong phú và đa dạng. Trong cái thế giới đông đúc đầy rẫy hồ li, chồn tinh, đạo sĩ, những con người phàm trần, , những anh chàng nho sinh nho sĩ, những nàng tiên nữ con nhà trời . . . ấy, chúng ta chợt nhận ra rằng, những anh chàng nho sinh của Liêu trai sao mà “lạ” quá! Những đứa con của “cửa Khổng sân Trình” trong Liêu trai, đa phần họ không xuất hiện trong tư thế của những con mọt sách, nơi phòng văn thanh tịch để ôn luyện đèn sách dùi mài kinh sử, mà ở đây,  công danh đối với họ đã giảm đi sức hấp dẫn, họ mải mê chạy theo những bóng hồng xinh đẹp, những cô nàng hồ li, chồn tinh, những hồn ma, những cô tiểu thư, những nàng tiên  nữ . . .Và bên cạnh những anh chàng nho sinh “đặc biệt” ấy, những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai cũng mang một sức sống mới, được khắc hoạ với một bút pháp sáng tạo, góp phần cùng với hình tượng nho sinh, làm nên những giá trị độc đáo và mới mẻ cho bộ “Liêu trai chí dị” .

 Từ những điều nêu trên, chúng tôi cảm nhận rằng tìm hiểu hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong Liêu trai  là một vấn đề rất thú vị.

Chúng tôi muốn đi sâu khám phá để có những hiểu biết đúng đắn về các giá trị độc đáo của Liêu trai một cách toàn diện, cũng như khẳng định được tài năng của nhà văn Bồ Tùng Linh. Hy vọng rằng đề tài này sẽ giúp cho bạn đọc có thể tiếp cận tác phẩm  một cách dễ dàng hơn và trọn vẹn hơn.

2. Mục đích nghiên cứu

 Nghiên cứu đề tài “Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh” chúng tôi hướng vào những mục tiêu sau:

– Nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật của Bồ Tùng Linh  trong việc xây dựng hình tượng nhân vật  nho sinh và phụ nữ.

– Khám phá được tài năng văn chương của Bồ Tùng Linh trong việc xây dựng hình tượng  nhân vật nho sinh và phụ nữ để thấy được nét sáng tạo trong văn chương của ông.

– Phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu văn học Trung Quốc trong nhà trường.

3. Lịch sử vấn đề

3.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Liên Xô phần lớn đứng dưới góc độ xã hội học và giai cấp luận để đánh giá về nội dung và nghệ thuật của Liêu Trai. Từ quan điểm xuất phát đó, họ chỉ ra tư tưởng tiến bộ cũng như hạn chế của nhà văn họ Bồ. Họ phân chia tác phẩm thành nhiều loại chủ đề khác nhau : loại chuyện làng nho, những truyện vạch trần và đả kích chế độ chính trị đen tối, tham quan ô lại, truyện xoay quanh đề tài tình yêu và hôn nhân  . . .Có nhóm nghiên cứu Liêu trai dưới góc độ diễn tiến của thể loại để chỉ ra sự sáng tạo độc đáo của Bồ Tùng Linh ( Tôn Cúc Viên, Lỗ Tấn, Chương Bồi Hoàn). Trong các bài viết, họ chỉ ra sự sáng tạo cốt truyện dân gian và truyện chí quái truyền kì của Bồ Tùng Linh (  Lỗ Tấn, Chương Bồi Hoàn, Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc tập 2, M. Uxtin). Có người lại tìm hiểu Liêu trai bằng cách phân chia thành những cặp phạm trù đối lập trong việc so sánh Liêu trai với các tác phẩm khác nhằm đề cập đến tiếng nói đa nghĩa và sức biểu hiện nghệ thuật phong phú của Liêu trai ( Phùng Trấn Loan). Có người lại nghiên cứu riêng về hình tượng nhân vật ở khía cạnh nguồn gốc văn hoá và quá trình phát triển của hình tượng hồ ly từ văn học dân gian đến sáng tác của Bồ Tùng Linh ( B.Alếchxâyev). 

3.2    Những nghiên cứu ở Việt Nam

Những nghiên cứu ở ViệtNamcó thể chia thành hai thời kì trước và sau 1989. Trước 1989, việc nghiên cứu “Liêu trai chí dị”  ở ViệtNam  mới chỉ dừng lại ở phương pháp tiếp cận xã hội học. Các bài viết trên báo, tạp chí cho đến các giáo trình, chuyên luận chủ yếu nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của tác phẩm, chứ chưa xuất phát từ những biểu hiện nghệ thuật độc đáo và mới mẻ của tác phẩm. Tiêu biểu cho khuynh hướng nghiên cứu này là Trần Xuân Đề, Lương Duy Thứ, Nguyễn Huy Khánh, các tác giả Giáo trình Văn học Trung Quốc tập 2. Cũng có một số ít người nghiên cứu Liêu trai chịu ảnh hưởng của phương pháp thẩm văn truyền thống mà tiêu biểu là Tản Đà và Chu Văn.

Sau 1989, với những bài viết của Nguyễn Huệ Chi, Lê Từ Hiển, Lê Nguyên Cẩn đã cho thấy một bước tiến trong việc nghiên cứu Liêu trai trong khoảng thời gian gần đây. Điểm nổi bật của các bài viết này là đã cố gắng tiếp cận tác phẩm từ chính những yếu tố cấu thành nghệ thuật. Cách làm của giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Lê Từ Hiển là xác định hệ qui chiếu của tác phẩm qua nhân vật trung tâm nhằm chỉ ra tư tưởng tình cảm, tài năng nghệ thuật bậc thầy của nhà văn Bồ Tùng Linh. 

Trên đây là một số công trình nghiên cứu về “Liêu trai chí dị” của các nhà nghiên cứu nước ngoài và ViệtNam. Chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào chuyên đi sâu nghiên cứu phương diện hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong Liêu trai dưới góc độ thi pháp nhân vật.

Với tinh thần học tập không ngừng, với thái độ tôn trọng và cầu thị,  chúng tôi sẽ kế thừa  và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu, những ý kiến bổ ích từ các bài nghiên cứu của những người đi trước để đi sâu tìm hiểu hai loại hình tượng nhân vật này  trong một số truyện ngắn được tuyển chọn theo chủ đề  một cách cụ thể, có hệ thống theo một quan điểm mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính là bộ đoản thiên tiểu thuyết “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi không có điều kiện tìm  toàn bộ tuyển tập truyện ngắn của Bồ Tùng Linh được thống kê khoảng trên bốn trăm truyện. Đề tài khảo sát của chúng tôi chủ yếu dựa trên văn bản “Tuyển tập Liêu Trai chí dị” của Nhà xuất bản Văn học, ấn hành năm 2003 gồm có 119 truyện.

5. Đóng góp của đề tài

Bộ “Liêu trai chí dị”  của Bồ Tùng Linh đã hấp dẫn biết bao thế hệ độc giả ở mọi thời đại. Những tài liệu nghiên cứu về Liêu trai khá nhiều nhưng chủ yếu là tiếp cận tác phẩm từ góc độ xã hội học hoặc xoay quanh những yếu tố “kỳ”, “dị” trong các thiên truyện ngắn, đặc trưng thẩm mỹ của nhân vật kỳ hình . . . mà chưa có công trình nào nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hai loại nhân vật nho sinh và phụ nữ trong Liêu trai. Do đó đến với đề tài này, trong những thiên truyện ngắn được tuyển chọn từ bộ đoản thiên tiểu thuyết của Bồ Tùng Linh, chúng tôi muốn bước đầu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hai loại nhân vật nói trên để thấy được tài năng độc đáo của nhà viết truyện ngắn bậc thầy họ Bồ.

Nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hai loại nhân vật nho sinh và phụ nữ trong Liêu trai, đề tài sẽ giúp cho người đọc nói chung và người làm khoá luận nói riêng có đựôc cái nhìn đúng đắn, sâu sắc và toàn diện hơn về nội dung tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của Bồ Tùng Linh.

Ở một phạm vi nhất định, đề tài hi vọng sẽ cung cấp thêm một tài liệu để tham khảo cho những ai yêu thích bộ truyện ngắn này,  phục vụ cho việc học tập và giảng dạy và nghiên cứu Liêu trai nói riêng, văn học Trung Quốc nói chung.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp hệ thống

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã tuyển chọn bảy mươi chín thiên  truyện ngắn viết về đề tài nho sinh và phụ nữ  trong tuyển tập “Liêu Trai chí dị” của Nhà xuất bản Văn học ấn hành 2003. Do đó, để việc nghiên cứu được thuận lợi, chúng tôi đã chọn phương pháp hệ thống. Phương pháp này giúp chúng tôi hiểu bao quát các tác phẩm một cách dễ dàng để thấy được sự gắn kết của chúng, đồng thời cũng thấy được mối liên hệ giữa các nhân vật.

6.2. Phương pháp liệt kê

Chúng tôi tiến hành liệt kê, ghi lại những dẫn chứng cần thiết trong các bản dịch và nhiều tài liệu khác có liên quan để dẫn chứng phù hợp với từng đề mục của khoá luận.

6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp

Chúng tôi tiến hành phân tích các dẫn chứng nhằm làm nổi bật các luận điểm cần triển khai. Sau đó thâu tóm, khái quát chúng lại.

7. Dàn ý của khoá luận

Đề tài : Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh.

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lí do chọn đề tài
  2. Mục đích nghiên cứu
  3. Lịch sử vấn đề
  4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  5. Đóng góp của khoá luận
  6. Phương pháp nghiên cứu
  7. Dàn ý của khoá luận

          PHẦN NỘI DUNG

        Chương 1:  Cơ sở lí luận

I  –  Nhân vật trong tác phẩm văn học

II – Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của thi pháp học hiện đại

       Chương 2Vài nét về “Liêu trai chí dị”

I. Tác giả Bồ Tùng Linh

II. Tác phẩm “Liêu trai chí dị”

1. Một số đặc điểm về thể loại của “Liêu trai chí dị”

1.1. Khái niệm “tiểu thuyết chí quái”, “tiểu thuyết truyền kì”

                             1.1.1. Tiểu thuyết chí quái

                             1.1.2  Tiểu thuyết truyền kì

1.2. Liêu trai chí dị – sự kế thừa tiểu thuyết chí quái Ngụy Tấn và truyện truyền kì đời Đường cùng với những sáng tạo mới

2. Vài nét về nội dung và nghệ thuật của “Liêu trai chí dị”

2.1. Nội dung

2.2. Nghệ thuật

3. Sơ lược về những hình tượng nhân vật chủ yếu trong “Liêu trai chí dị”

       Chương 3Hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị”

 I. Hình tượng nhân vật nho sinh

 1.  Những nhân vật nho sinh mải mê với hai chữ công danh

  2.  Những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”

 II. Hình tượng nhân vật phụ nữ

1. Nguồn gốc xuất thân

2. Những số phận phụ nữ bất hạnh

3. Những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật phụ nữ

3.1. Những người phụ nữ tài năng và sống có tình nghĩa, có bản lĩnh

 3.2.  Khát khao hạnh phúc, dám đấu tranh cho tình yêu

            PHẦN KẾT LUẬN

PHẦN NỘI DUNG

*****

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÍ LUẬN

  I –  NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC 

“Nhân vật văn học” là một thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người.

Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể.

Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học như : văn học về “con người thừa” ( ở văn học Nga thế kỉ XIX), văn học về “thế hệ mất mát” (ở văn học thế kỉ XX). .  .Những nhân vật văn học trở nên nổi tiếng, được biết đến rộng rãi chính là những hình tượng vĩnh cửu văn học thế giới như : Prômêtê, Fauxt, Đông Joăng. .  .

Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra một kết luận  : con người trong tác phẩm văn học chính là nhân vật văn học hoặc các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường nhưng mang những đặc điểm giống với con người và nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, là máu thịt của nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con người. Các nhà lí luận cũng nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, tính ước lệ của nhân vật văn học. Nhân vật văn học không hoàn toàn giống như con người thật ngoài đời vì chúng có những đặc trưng nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học thông qua lăng kính của nhà văn, nhưng không vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì không thể thiếu nhân vật văn học.

Như vậy, nhân vật văn học là hình thức cơ bản để qua đó nhà văn miêu tả đời sống một cách hình tượng. Bản chất của văn học là một quan hệ với đời sống, nó chỉ tái hiện đời sống qua những chủ  thể nhất định, đóng vai trò tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nhân vật văn học vì thế là đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với con người có thật trong cuộc đời.

Tác phẩm văn học nào cũng là một hệ thống chỉnh thể của những hệ thống nhỏ hơn. Các nhân vật trong các tác phẩm cũng thực sự tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, chúng liên quan với nhau, móc nối với nhau không chỉ bằng tiến trình các sự kiện miêu tả, mà suy cho cùng còn bằng logic của nội dung nghệ thuật của nhà văn.

Hệ thống nhân vật đem lại cho hệ thống nghệ thuật của tác phẩm sự thống nhất về tính chỉnh thể, đồng thời quan hệ giữa các nhân vật trong mỗi hệ thống ít hay nhiều đều phản ánh mối quan hệ xã hội hiện thực của con người. Vì vậy tìm hiểu hệ thống nhân vật trong Liêu Trai thực chất là tìm hiểu mối liên quan giữa các nhân vật không chỉ trong mỗi truyện mà còn trong mối liên hệ giữa các truyện trong cùng một chủ đề.

2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI – PHẠM TRÙ TRUNG TÂM CỦA THI PHÁP HỌC HIỆN  ĐẠI

Theo GS. Trần Đình Sử trong giáo trình “Dẫn luận thi pháp học”(Nxb Giáo dục 1998)  thì “Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con người trong nghệ thuật”. Quan niệm nghệ thuật là cách cắt nghĩa, lí giải về con người trên cơ sở hấp thu các yếu tố thế giới quan nhất định của thời đại, tạo ra một quan niệm của mình về thế giới và con người. Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật, hoặc giản đơn là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu như không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Mặt thứ hai này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó.

 Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con người trong văn học và các nguyên tắc đó có cơ sở sâu xa trong thực tế lịch sử, nó là một sản phẩm của lịch sử và cũng đồng thời là sản phẩm của văn hoá, tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sỹ, gắn liền với cái nhìn nghệ sỹ.

Trong các thể loại văn học khác nhau, do chức năng và hệ thống phương tiện biểu hiện khác nhau, quan niệm nghệ thuật cũng có sự khác nhau quan trọng.

Một nền nghệ thuật mới bao giờ cũng ra đời cùng với con người mới, quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Quả là sự vận động của thực tế làm nảy sinh những con người mới và miêu tả những con người ấy sẽ làm văn học đổi mới. Đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học đổi thay căn bản. Trong lịch sử văn học, việc sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ biến nhưng cách giải thích và cảm nhận của họ là mới, tạo thành tiếng nói nghệ thuật mới. Cũng vẫn là con người đã biết, nhưng hôm qua được nhìn ở một góc độ, hôm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo thành sáng tác văn học mới.

Quan niệm nghệ thuật về con người không phải là bất cứ cách cắt nghĩa, lí giải nào về con người mà là cách cắt nghĩa có tính phổ quát, tột cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người. Do đó người ta có thể tiến hành so sánh các tác phẩm văn học khác nhau trên giới hạn tối đa mà hiểu được mức độ chiếm lĩnh đời sống của các hệ thống nghệ thuật.

Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học. Nghệ sỹ là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người, do đó càng khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu của họ.

Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng biểu hiện tập trung trước hết ở nhân vật, bởi “nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học”. Nhân vật văn học biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo một điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn học chính là mô hình về con người của tác giả. Muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người phải xuất phát từ các biểu hiện của nhân vật, thông qua các yếu tố tạo nên nó.

CHƯƠNG II : VÀI NÉT VỀ “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”

 I  –    TÁC GIẢ BỒ TÙNG LINH

 Bồ Tùng Linh sinh năm 1640 ( năm thứ 13 Sùng Trinh đời Minh ), mất năm 1715 ( năm thứ 54 Khang Hy đời Thanh ), tự Lưu Tiên, cũng có tự là Kiếm Thần, biệt hiệu Liễu Tuyền Cư Sĩ, người Tri Xuyên ( nay là Tri Bác, thuộc tỉnh Sơn Đông). Ông xuất thân trong một gia đình thế gia suy sụp đã lâu, là một gia đình thương nhân, địa chủ nhỏ. Thân sinh là Bồ Bàn Canh do lận đận trên đường khoa cử, đi thi không đỗ nên bỏ nho học chuyển sang làm thương nhân, nhưng vẫn không phục hồi được gia thế như mong muốn, gia đình trước sau vẫn không thoát khỏi vận nghèo.

Từ ngày còn nhỏ, Bồ Tùng Linh đã chịu sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình. Ông theo cha đi học và nhiệt tình say sưa với công danh khoa cử. Đến năm 19 tuổi ( 1658 ) , Tùng Linh dự lớp thi đồng sinh thì ba lần được chọn là “Đệ nhất bổ bác sĩ đệ tử sinh viên” ( là những người học giỏi được vào học ở Thái học ) ở ba cấp : huyện, phủ, đạo, và được quan học sứ Thi Nhuận Chương khen ngợi. Từ đó ông nổi tiếng về văn chương, và tự đánh giá mình rất cao. Lúc đầu thuận buồm xuôi gió, gặp nhiều may mắn là thế, nhưng càng về sau thì Bồ Tùng Linh càng gặp nhiều cảnh éo le, đường khoa cử lắm phen lận đận, luôn gặp trắc trở. Con đường khoa hoạn của ông khá long đong, nhiều phen đến TếNamthi hương đều bị hỏng, có những cuộc thi vì ốm, phải bỏ dở nửa chừng. Đi thi mãi đến năm 60 tuổi mà vẫn không đỗ đạt được gì. Đến năm 71 tuổi ông được ban cho một danh nghĩa không có ý nghĩa gì là “Tuế Cống Sinh”. Nỗi lòng của ông trước sau vẫn lắm bi ai, đau xót. Ông thường tự ví mình như Biện Hoà, người ôm ngọc ba lần dâng cho ba vua ( Lệ, Vũ và Văn vương ), nhưng hai lần bị chặt cụt chân. Bồ Tùng Linh tiếc tài năng của mình không được nhà cầm quyền biết đến.Vợ khuyên nhủ ông mới chịu buông bỏ ảo tưởng theo con đường sĩ hoạn. Về sau ông chuyên đi dạy tư thục tại các gia đình quan viên, lấy đó làm nghề nuôi sống .Trên con đường lận đận mấy mươi năm trong việc khoa cử, có một thời gian ngắn ông từng đi làm chức mạc tân ( thư kí văn thư trong cơ quan quân sự ). Con đường khoa hoạn luôn luôn làm ông bất đắc chí, lòng đầy uất ức. Do đó ông đã viết nên những thiên truyện ngắn bất hủ về đề tài này.

Không những con đường khoa cử gặp nhiều đều bất đắc ý, mà cuộc sống của ông cũng khó khăn vô cùng. Suốt đời ở nông thôn làm thầy giáo dạy tư, ông nghèo đến nỗi “nhà không vách không phên, cây cối um tùm, gai góc”, mười năm trời bệnh tật nghèo đói “ra cửa không có lừa để cưỡi”, suốt năm không được ăn miếng thịt. Chính cuộc sống ngày càng sa sút nơi nông thôn hẻo lánh đó, làm cho ông hiểu được phần nào đời sống, tư tưởng và tình cảm cua quần chúng nhân dân. Ông đã viết một số bài thơ, tản văn nói thay tiếng nói của nhân dân. Ông viết một số sách thuộc loại thông tục phổ cập như Nhật dụng tục tự, Nông tang kinh  . . Một số bài trong “Liêu trai chí dị”  biểu hiện tình cảm chân thật đáng quý của ông đối với người nông dân chất phác hiền lành. Vì thế tác phẩm của ông không thuần túy chỉ kể lại nỗi băn khoăn thắc mắc và lòng phẫn nộ bi ai của kẻ thất thế, mà đã phản ánh mâu thuẫn xã hội và tư tưởng nguyện vọng của nhân dân.

 Bồ Tùng Linh vốn là người có khiếu văn thơ từ nhỏ và sáng tác từ khá sớm tuy không chuyên. Đại để bắt đầu tuổi trung niên, ông vừa dạy học vừa sáng tác quyển Liêu Trai Chí Dị, mãi cho tới tuổi già mới xong. Sách chưa được in nhưng trong các bạn bè đã chuyền nhau đọc và được lãnh tụ thi đàn thời bấy giờ là Vương Sĩ Chân tán thưởng. Trong lời tựa viết lấy, ông tâm sự : “ Mặc dù không có tài như Can Bảo ( viết bộ Sưu thần ký) nhưng rất thích sưu tầm chuyện thần ma, tâm tình giống như người xưa ở Hàng Châu ( Tô Thức bị biếm trích về Hàng Châu ) thích nghe chuyện quỷ. Nghe đến đâu là đặt bút ghi chép đến đấy, lâu ngày thành sách .” Ông là tấm gương về một nhà giáo nông thôn biết tìm niềm vui trong việc sưu tầm và sáng tác”. Ngoài bộ Liêu Trai Chí Dị, ông còn viết khá nhiều thi ca ( sau in thành Thi tập, 6 quyển);  từ, văn ( sau in thành Văn tập 12 quyển), và những bài hát dân gian, 14 thiên hí khúc và 3 vở tạp kịch . . . Người đời nay đã tập hợp những sáng tác đó vào bộ “Bồ Tùng Linh tập”. Về thơ, mọi người nhận xét thơ ông là loại thơ không chú tâm gọt đẽo mà viết tự đáy lòng nên chân thực và hồn hậu, là tiếng nói trữ tình của một con người từng nếm trải đủ mọi đắng cay chua chát của đời, đó là do ảnh hưởng từ cuộc sống khắc khổ của ông. Sau này ông có cơ hội nghiên cứu kinh sử, triết lý, văn chương và rất hứng thú với các môn : thiên văn, nông trang, y dược… Năm 1980 Bồ Tùng Linh được UNESCO kỉ niệm như một danh nhân văn hoá thế giới.

– Các sáng tác :

   +   Liêu trai chí dị ( tập hợp khoảng 448 truyện ngắn )

   +   Liêu trai văn tập (12 quyển)

   +   Liêu trai thi tập (6 quyển với hơn 1000 bài thơ, 170 bài từ, 14 vở ca khúc dân gian và 3 vở tạp kịch)

– Thể loại sáng tác:      

  +   Truyện ngắn

  +   Tiểu thuyết

  +   Thơ

II – TÁC PHẨM “LIÊU TRAI CHÍ DỊ” 

    1.MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ LOẠI CỦA “LIÊU TRAI CHÍ DỊ” 

1.1.KHÁI NIỆM “TIỂU THUYẾT CHÍ QUÁI”, “TIỂU THUYẾT TRUYỀN KÌ”

1.1.1  TIỂU THUYẾT CHÍ QUÁI  

Một thể loại văn xuôi tự sự trong văn học Trung Quốc, thường ghi chép những chuyện li kì quái đản, xuất hiện và phát triển vào thời Lục Triều từ đầu thế kỉ III đến cuối thế kỉ VI. Tiểu thuyết chí quái tiếp tục phát triển truyền thống của thần thoại, ngụ ngôn, dã sử, tạp sử các thời đại trước nhưng có căn nguyên sâu xa trong điều kiện lịch sử thời Lục triều ( 281 – 598), một giai đoạn cực kì hỗn loạn, đầy rẫy những đau thương chết chóc, lan tràn rộng rãi đủ mọi thứ mê tín, tôn giáo. 

 Nội dung rất phức tạp, có loại ghi những chuyện kì lạ về các mặt địa lí, động vật thực vật như Bác vật chí, Thần dị chí, có loại mang tính chất dã sử như Hán Vũ Đế nội truyện, Thập dị kí, có loại chuyên kể những chuyện thần quái như Liệt dị truyện, Oan hồn chí  . .  .Gạt bỏ bộ áo hoang đường, loại nào cũng có những chuyện có giá trị hiện thực song đáng chú ý hơn cả là những mẩu chuyện dân gian được cải biên ghi lại trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tiểu thuyết chí quái  đã chuẩn bị cho sự ra đời của tiểu thuyết truyền kì đời Đường và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với kịch, tiểu thuyết các thời đại sau.

      1.1.2.TIỂU THUYẾT TRUYỀN KÌ 

Một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng những môtip kì quái hoang đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú cho người đọc. Gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kì có dung lượng ngắn và kết cấu không theo kiểu truyện dài thu ngắn – phần nào đã có dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận hiện đại. Sự tham gia của yếu tố thần kì vào câu chuyện cũng không phải là do những lực lượng tự nhiên được nhân hóa như kiểu thần thoại, hoặc những nhân vật có phép lạ như kiểu trời, bụt, thần tiên  . . . trong truyện cổ tích thần kì mà phần lớn ở ngay hình thức “phi nhân tính” của nhân vật ( ma quỉ, hồ li, vật hóa người. . .) .Tuy nhiên, trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật, và chính những nhân vật mang hình thức “phi nhân” thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy; vì thế truyện truyền kì vẫn mang rất đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc.

        1.2. LIÊU TRAI CHÍ DỊ –  BỘ TRUYỆN NGẮN VĂN NGÔN KẾ THỪA TIỂU THUYẾT CHÍ QUÁI NGỤY TẤN VÀ TRUYỆN TRUYỀN KỲ ĐỜI ĐƯỜNG CÙNG VỚI NHỮNG SÁNG TẠO MỚI 

“Liêu trai chí dị”  là bộ tiểu thuyết đoản thiên ra đời trên cơ sở kế thừa thành tựu của nền văn học truyền thống và các sáng tác dân gian. Cội nguồn trực tiếp ảnh hưởng đến sáng tác “Liêu trai chí dị” là những câu chuyện dân gian và truyện chí quái Lục Triều, truyền kì đời Đường. Ảnh hưởng văn học dân gian đối với Liêu trai thể hiện ở việc nhào nặn, vận dụng các môtip thần thoại cổ tích nhuần nhuyễn tới mức nói đến “không khí Liêu trai”, “Thế giới Liêu trai” là người ta liên tưởng ngay đến thế giới của những câu chuyện cổ tích, thần thoại. Những motip tái sinh, đầu thai, sinh đẻ kì lạ, biến hình, người mang lốt. . . đầy rẫy trong các truyện ngắn của bộ Liêu trai.

Khi đánh giá về nghệ thuật Liêu trai, Lỗ Tấn trong “Trung Quốc tiểu thuyết sử lược”, chương 25 có viết : “Dùng phương pháp truyền kỳ để chép chuyện chí quái, biến ảo khác thường mà như xảy ra trước mắt”. Liêu trai đã kế thừa tinh hoa nghệ thuật của chuyện chí quái thời Ngụy Tấn và truyền kì đời Đường, đồng thời nâng cao thành tựu nghệ thuật của hai thể loại này lên một tầm cao mới. So với chí quái thì Liêu Trai miêu tả tường tận, tỉ mỉ hơn; so với truyền kì thì cô đọng và hàm súc hơn. Cách viết của Liâu trai có nhiều chỗ phát triển và sáng tạo. Ngoài cách miêu tả nhân vật ta còn thấy rõ điều đó ở các tình tiết.  Khi lựa chọn tài liệu và khi hạ bút, tác giả luôn chú ý những tình tiết éo le thú vị và ra sức thay đổi cách viết để hấp dẫn người đọc. So sánh các truyện truyền kì đời Đường với các truyện trong Liêu trai của Bồ Tùng Linh ta có thể thấy sự đồng dạng về mặt môtip cốt truyện, song về mặt bố cục, tổ chức sắp xếp sự kiện, nhân vật, tình tiết thì rõ ràng truyện của Bồ Tùng Linh gây được hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ hơn.

Do tiếp thu truyền thống của chí quái và truyền kì, Liêu trai khai thác toàn chuyện lạ ( dị ) đặc biệt là chuyện chung sống giữa người và hồ ly tinh. Sức tưởng tượng huyền diệu của tác giả tạo nên màu sắc kỳ ảo của Liêu trai. Cảnh tượng dương gian và âm phủ xen kẽ nhau hầu như không có gì ngăn cách. Con người và yêu tinh biến hoá hằng ngày, như là một sự thực bình thường. Mặc dù nói chuyện ma quỷ, tác phẩm không gây ấn tượng rùng rợn mà ngược lại có phần gần gũi, thân thiết. Điều đó bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống, nhận thức hiện thực sâu sắc và thấu đáo của tác giả. Mặt khác còn do khuynh hướng lãng mạn tích cực của tác phẩm. Cũng giống như thần thoại, yêu quái ở đây đã giúp con người chiến thắng thiên tai nhân họa. Lỗ Tấn viết : “Các sách chí quái cuối Minh đại để đều sơ lược, lại lắm điều hoang đường, quái đản. Chỉ có Liêu trai là tường tận mà bình dị thấm đượm tình người, khiến cho người ta đọc chuyện các loài hoa yêu quái, chuyện hồ ly tinh mà không hề nghĩ rằng đó là giống khác”. Nhưng xét cho cùng, sức hấp dẫn của Liêu trai chí dị không phải  ở đề tài quái lạ với những yếu tố kì ảo mà vẫn là ở tính chân thật bắt nguồn từ chân lý cuộc sống. Truyền kì, chí quái mở ra thế giới tâm linh, siêu thực, cho phép con người cá nhân có dịp biểu hiện nhiều mặt hơn.

Truyện ngắn văn ngôn đã trải qua các thời từ chí quái  của Lục triều đến truyền kí đời Đường rồi phát triển đến thời Tống – Nguyên đã uể oải dần để đi vào suy kiệt nhưng Bồ Tùng Linh với “Liêu trai chí dị” , một đỉnh núi lạ nhô lên, đạt thành tựu cao nhất của thể loại truyện ngắn văn ngôn. Cả bộ có gần 500 truyện ngắn, tả hết mọi bất bình của nhân gian, ca ngợi những mối tình đẹp đẽ, gửi gắm nỗi căm uất lẻ loi của một đời không gặp cơ hội thi thố tài năng. Ông lập ý mới mẻ, thông minh, li kì, sắc sảo, ngụ ý thấm thía sâu xa.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng Bồ Tùng Linh đã tiếp thu, kế thừa những nguyên mẫu thần thoại, cổ tích và truyền thống văn học chí quái, truyền kì Trung Quốc. Đó là một sự kế thừa xuất sắc. Bằng tài năng và sự sáng tạo độc đáo, ông đã chuyển hoá cốt truyện dân gian, sáng tạo lại những cốt truyện truyền kì, chí quái thành những tác phẩm văn học mẫu mực, đem lại cho nó hơi thở mạnh mẽ của thời đại.

   2.VÀI NÉT VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA “LIÊU TRAI CHÍ DỊ” 

2.1. NỘI DUNG

 Liêu trai tập hợp hơn 400 truyện ngắn viết về nhiều đề tài, đề cập đến nhiều nội dung khác nhau nhưng chung quy có thể chia làm ba loại chính như sau :

Loại thứ nhất : vạch trần chế độ chính trị đen tối, đả kích tham quan ô lại, cường hào ác bá, bênh vực những người lương thiện bị oan ức, bị chà đạp, bị bức hại. Tiêu biểu cho loại này có các truyện : Xúc chức, Tịch Phương Bình, Hướng Cảo  . . . .Ngoài ra còn có thể kể các truyện : Hồng Ngọc, Thạch Thanh Hư, Đậu thị, Vương Giả, Tục Hoàng Lương  . . . Truyện Xúc chức ( con dế ) mặc dù mang một kết thúc có hậu kiểu chuyện kể dân gian nhưng vẫn thể hiện đầy đủ số phận bi thảm của những người dân hiền lành, chất phác dưới nanh vuốt của vua quan phong kiến. Nguyên nhân dẫn đến cái chết oan uổng của đứa con trai nhân vật chính Thành Danh là thói đam mê chọi dế của nhà vua ( Tuyên Đức nhà Minh). Vua thích chọi dế, bắt dân nộp dế dâng lên. Khó khăn lắm Thành Danh mới bắt được dế, nhưng thằng con trai chín tuổi sơ ý để dế chạy mất, khi bắt lại được thì dế đã lòi ruột. Thằng bé sợ quá bỏ nhà trốn đi. Bố mẹ nó tìm khắp nơi và cuối cùng thấy xác nó nằm dưới giếng! Thú vui của kẻ thống trị tối cao được đổi bằng mạng một đứa trẻ! Rồi, để cứu gia đình, hồn thằng bé liền hoá thành một con dế thật hay, chọi thi thắng cuộc được đem tiến cung và được ban thưởng rất hậu. Có thể nhà văn mượn kết thúc có hậu này để bày tỏ lòng đồng tình với số phận bi thảm của những người dân lương thiện, khích lệ họ tin tưởng vào cuộc sống, an ủi họ bởi triết lí “ở hiền gặp lành”. Nhưng về khách quan chi tiết này còn có ý nghĩa tố cáo sự tàn bạo của kẻ thống trị : chúng không chỉ giày xéo người dân ở kiếp này mà còn lăng nhục họ ở cả kiếp sau, dồn đuổi họ đến chỗ không còn con đường nào khác ngoài việc biến thành đồ chơi mua vui cho chúng.

Nếu trong “Xúc chức”, nhà văn trực tiếp đả kích kẻ thống trị tối cao thì trong “Tịch Phương Bình”, ông lại phê phán bộ máy quan lại tham ô tàn bạo. Cha Tịch Phương Bình là Tịch Liêm, chỉ chống lại tên tài chủ họ Dương mà bị hãm hại. Tên này mua hết quan lại sai nha dưới âm phủ để đày đoạ Tịch Liêm xuống âm ti. Khi Phương Bình hai lần bất chấp nguy hiểm, xuống âm ti tìm cha thì chúng lại cấu kết với ma quỷ tìm cách hãm hại anh ta. Ở đây hoàn toàn không có công lý, không có chính nghĩa, đồng tiền chi phối tất cả. Lời buộc tội của Quán Khẩu nhị lang rất có ý nghĩa : “Ánh sáng của vàng bạc bao trùm mặt đất cho nên điện Diêm Vương tối tăm, hơi đồng tanh tưởi ngút trời làm cho trong thành không ngày nào là không có kẻ chết oan”. Bình phải chịu nhiều nỗi khổ nhục. Truyện không chỉ miêu tả cảnh tượng ở âm ti mà còn gợi cho người đọc thấy được những cảnh tượng ở dương gian.

Hình ảnh nhân vật Tịch Phương Bình hiên ngang bất khuất truớc quân thù tàn bạo, hoàn toàn vượt ra ngoài phạm trù “trung hiếu”. Nó tượng trưng cho ý chí đấu tranh của những người bị áp bức. Những nhân vật phản diện trong truyện “Tịch Phương Bình” từ Minh vương cho đến cả lũ cai ngục đều tác oai tác quái làm mọi điều gian ác. Bạo lực thay cho công lý, đồng tiền thay cho chính nghĩa.

Quan lại sai nha sở dĩ dám làm càn, làm bậy là vì trên thì có triều đình che chở, dưới thì có địa chủ cường hào giúp sức. Chúng cấu kết với nhau thành thiên la địa võng để bóc lột áp bức người dân, chẳng hạn như các truyện : Hồng Ngọc, Thạch Thanh Hư ( Đá quý ở động Thanh Hư ) , Đậu thị

Nếu câu chuyện “Tịch Phương Bình” nói về chốn diêm gian nhưng chẳng khác gì hệ thống quan liêu trong xã hội hiện thực, thì câu truyện “Hồng Ngọc” kể về cuộc sống thực tế ở trần gian, nói về nạn cường hào gian ác cấu kết với bọn quan lại tham nhũng, làm đủ điều bỉ ổi xấu xa.

Truyện “Hồng ngọc” tả tên Ngự sử họ Tống quen ăn tiền của đút lót, bị cách chức về làng, “ở nơi rừng vắng thả sức ra oai” cướp vợ Phùng Tương Như là nàng Hồng Ngọc xinh đẹp rồi hãm hại cả cha nàng. Hắn đút lót cho bọn quan lại địa phương, khiến Tương Như bó tay không biết kêu oan vào đâu được. Chỉ vì hắn mà Phùng Tương Như tan cửa nát nhà, cha của Phùng thổ máu tươi chết, vợ chàng bị làm nhục. Tác giả phải nhờ đến lực lượng siêu nhân trừng phạ bọn ác bá địa chủ, đồng thời cũng cảnh cáo bọn quan lại : “Chúng bay hãy coi chừng, đừng có ỷ thế hiếp người, nếu không thì sẽ chịu lấy thảm họa như gia đình họ Tống kia”. Điều đó cũng dễ hiểu, vì sống trong bể ải trầm luân đầy tang tóc, đau thương, quần chúng nhân dân ước ao xuất hiện lực lượng siêu hình đủ tài đủ sức, chống cường quyền, trừ bạo lực và bảo vệ cuộc sống yên lành cho nhân dân.

 Truyện “Thạch Thanh Hư” ( Đá quý ở động Thanh Hư ) tuy muốn đề cập đến tư tưởng “vật quí lại về người tri kỉ” nhưng trong phần đầu miêu tả sinh động cảnh tên ác bá sai bọn ác ôn trắng trợn cướp viên đá của Hình Vân Phi. Truyện “Đậu thị” ( Người con gái họ Đậu ) tả một tên địa chủ lường gạt con gái nông dân, có con rồi bỏ, bức nàng phải chết  . . .  Dưới ngòi bút điêu luyện của tác giả, bộ mặt nanh ác không từ thủ đoạn nào của bọn chúng được phơi bày. Tác giả cho người đọc thấy sự cấu kết giữa vua quan và địa chủ cường hào thực sự tạo thành một thiên la địa võng chăng bủa khắp nơi, dồn người dân lương thiện vào đường cùng ngõ cụt.

Nhưng con giun xéo lắm cũng quằn! Mặc dù không đề cập trực tiếp sự phản kháng đấu tranh của nhân dân nhưng Liêu trai đã xây dựng được những hình tượng phục thù có sức thuyết phục : Tịch Phương Bình, Hướng Cảo, Đậu thị . . . Bất chấp mọi hình phạt tàn bạo như cưa xương chẻ thịt và những lời dụ dỗ lừa phỉnh của Diêm phủ, để minh oan cho cha, Phương Bình hai lần xuống âm phủ, kiên trì đấu tranh không hề khuất phục, cũng không bị lừa bịp bởi miếng mồi “giàu có trăm vạn, sống lâu trăm tuổi”. Bình ngang nhiên nói : “Oan này chưa rửa, chết cũng không thôi”. Anh ta đấu tranh đến cùng cho cha được cứu sống, kẻ hãm hại cha bị xử tội mới thôi. Cuối cùng được thần thánh phù hộ, cha của Bình được cứu sống và quân thù bị xử tội . Còn Hướng Cảo lại chính là hình tượng thể hiện nguyện vọng trả thù của nhân dân bị áp bức. Chi tiết Hướng Cảo biến thành hổ để trả thù trở thành biểu tượng của một khát vọng. Cuối truyện, tác giả viết : “Nhưng trong thiên hạ, những điều làm cho người ta căm giận thì nhiều lắm, mà kẻ oan khuất thường chỉ là người chứ đâu được tạm thời làm cọp! Thật đáng buồn!”

Nói chung, từ  những góc độ khác nhau, Bồ Tùng Linh đã phơi bày bộ mặt tàn nhẫn ghê gớm của giai cấp thống trị. Thái độ yêu ghét của tác giả hết sức rõ ràng. Tuy Bồ Tùng Linh chưa nhận ra được bản chất của sự áp bức giai cấp trong xã hội phong kiến, nhưng ông đã nhìn thấy nguyên nhân của sự thống khổ của nhân dân. Ông căm thù đến xương tủy bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị phong kiến. Ông nhờ những lực lượng siêu hình để trừng phạt chúng cũng như thông qua những chi tiết giàu màu sắc thần bí, ca ngợi tinh thần đấu tranh và những kết quả tốt đẹp mà quần chúng đã giành được. Đó là tấm lòng của tác giả đối với những người bị áp bức, bị chà đạp, nó chứng tỏ người thuật truyện không đứng ngoài cuộc, bởi thế sự phục thù ở đây cho dù còn mang tính chất ảo tưởng nhưng vẫn đem đến một cảm giác khoái trá thật sự !

Loại truyện thứ hai đề cập đến một đề tài gần như “Chuyện làng nho” của Ngô Kính Tử với những tệ hại của chế độ khoa cử, đả kích việc dùng văn bát cổ để chọn nhân tài, như các truyện : Vương Tử An, Tư Văn Lang, Giả Phụng Chi, Tam sinh . .  .

Loại truyện thứ ba xoay quanh đề tài tình yêu và hôn nhân. Cũng giống như Vương Thực Phủ trong vở tạp kịch “Tây Sương ký”, Bồ Tùng Linh là loại tác giả hiếm hoi, được đào tạo theo giáo lý Khổng Mạnh mà lại nhiệt tình ca ngợi tình yêu trai gái, coi nó là hạnh phúc chính đáng của thanh niên, cổ vũ họ đấu tranh vượt qua mọi chướng ngại để giành lấy tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ.

Coi tình yêu say đắm là chính đáng, tác giả nhiệt tình ca ngợi những người đang yêu, dựng dậy những hình tượng rạng rỡ, mạnh mẽ và trong sáng của nam nữ thanh niên trong đời sống yêu đương.

Ngoài ba loại truyện chủ yếu nói trên, Liêu trai còn đề cập đến hàng loạt vấn đề như : cảnh giác đối với kẻ thù ( Chuyện sói ), có rèn luyện mới có hưởng thụ ( Đạo sĩ Lao Sơn ), ca ngợi tình bạn ( Kiều Na ), ca ngợi thế giới đào nguyên ngoài đời ( Vương Giả )  . . .

Tóm lại, Liêu trai không đơn thuần là chuyện quái lạ để giải trí lúc nhàn rỗi mà là một tập truyện đem đến nhiều bài học bổ ích trong việc nhận thức xã hội, hiểu biết cuộc đời, đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn.

          2.2. NGHỆ THUẬT

 Bộ Liêu trai chí dị là kiệt tác của Bồ Tùng Linh, đó cũng là một đỉnh cao của truyện ngắn cổ điển Trung Quốc, trong truyện sử dụng thủ pháp nghệ thuật truyện truyền kỳ đã đạt đến mức hoàn chỉnh, tất cả các môtíp truyền kỳ truyền thống đều được nhà văn vận dụng tài tình làm cho các truyện trở nên kỳ ảo.

Hầu hết các truyện trong “Liêu trai chí dị” đều được xây dựng theo kết cấu truyền thống. Nó không nhằm mục tiêu miêu tả đời sống theo kiểu xén ngang mà thường là kể chuyện có đầu có đuôi, các số phận được miêu tả một cách trọn vẹn, các sự việc có gốc gác, quá trình, kết thúc. Nhưng khác với  các bộ tiểu thuyết trường thiên thường lấy đối tượng phản ánh là những biến cố lịch sử, những vận động biến đổi của các triều đại, dòng họ, tức là phản ánh hiện thực trên bình diện rộng cả về không gian và thời gian, Liêu trai miêu tả những lát cắt của cuộc sống phức tạp, những mảng mẩu của cuộc sống ở phạm vi hẹp hơn.

Đứng ở góc độ kết cấu chỉnh thể của một tác phẩm thì các truyện ngắn trong Liêu trai đã là một chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn. Nhưng từng truyện riêng lẻ lại không bao quát được toàn bộ mà nó chỉ đề cập đến những phần rất nhỏ của cuộc sống. Nhưng dưới góc độ kết cấu siêu văn bản thì  “Liêu trai chí dị  là một chỉnh thể nghệ thuật nguyên vẹn mà các truyện  là các chương, các phần của chỉnh thể đó” ( Lê Nguyên Cẩn ). Ở mặt này thì có thể nói sức phản ánh hiện thực của Liêu trai không hề thua kém bất kỳ một bộ tiểu thuyết trường thiên nào.

Trong khi miêu tả, cố gắng làm cho sự việc thêm éo le, ly kỳ, khúc chiết. Về mặt này, nó phát huy được đặc điểm truyền thống của truyện ngắn Trung Quốc. Truyện “Vụ án tình si” ( Yên Chi ) là một ví dụ, truyện chỉ trên dưới hai nghìn chữ mà miêu tả tỉ mỉ quá trình phức tạp của một vụ án mạng từ khi còn là một âm mưu cho đến lúc xử án. Hay như truyện “Đạo sĩ núi Lao Sơn” chưa đầy một nghìn chữ mà khắc hoạ rõ nét tính cách một anh chàng lười, chưa luyện tập mà đã ước thành tài để hưởng thụ. Nhìn chung tác giả dụng công dàn dựng để mỗi truyện một khác. Thi sĩ Tản Đà khi dịch “Liêu trai chí dị” có nhận xét : “Truyện Kiều bao nhiêu câu lục bát mà không câu nào giống câu nào; Liêu trai bao nhiêu truyện lớn nhỏ mà không truyện nào phảng phất truyện nào”.

Cốt truyện Liêu trai phần lớn đều rất ngắn gọn với lối triển khai nhanh, kết thúc gọn. Đặc điểm dễ nhận thấy ở truyện ngắn Bồ Tùng Linh là cốt truyện đơn tuyến và sự giảm thiểu tối đa sự kiện và nhân vật. Lối khai triển của truyện Bồ Tùng Linh là nhanh chóng đưa độc giả xâm nhập ngay vào bối cảnh của sự kiện sau vài lời khơi dòng mạch truyện rất ngắn gọn, giới thiệu sơ lược về nhân vật : tên là gì? quê ở đâu, làm nghề gì? và ngoài những điều đó ra thì độc giả không biết gì hơn về số phận, tính cách của nhân vật. Lối khai triển như vậy tạo nên một ấn tượng rõ nét, khác với những lời dẫn truyện tỉ mỉ dài dòng của truyện truyền kì đời Đường. Ở Liêu trai, sau những lời dẫn truyện sơ lược, tác giả chuyển ngay điểm nhìn trần thuật sang nhân vật. Do đó mà những lời đối thoại chiếm tỉ lệ rất cao. Sự thay đổi điểm nhìn trần thuật, các đoạn đối thoại được móc nối rất sống động làm cho cốt truyện được mở ra rất nhanh.

Nếu như lối khai triển nhanh của cốt truyện có tác dụng đưa người đọc thâm nhập trực tiếp nhanh chóng vào bối cảnh câu chuyện, thì lối kết thúc truyện lại bất ngờ và logic. Cách kết thúc bất ngờ và logic của truyện ngắn Bồ Tùng Linh tạo được dư âm trong lòng người đọc và chứa đựng những ý nghĩa triết lí sâu sắc về cuộc đời.

Văn Liêu trai thuộc loại cổ văn hết sức điêu luyện chứng tỏ tác giả có sự tu dưỡng rất cao về văn chương và sáng tác với biết bao công phu, tâm huyết. Ngôn ngữ kể chuyện trong tiểu thuyết là loại văn ngôn đẹp lại nhã, gãy gọn, rõ ràng. Riêng về những câu đối thoại của nhân vật, cũng dùng văn ngôn là chính nhưng dễ hiểu hơn. Thỉnh thoảng, tác giả còn khéo léo đưa thành phần bạch thoại vào, vừa không làm hỏng phong cách ngôn ngữ trên tổng thể, lại khắc phục được ở mức độ nhất định mà tiểu thuyết văn ngôn thường gặp phải là khó miêu tả tinh thần và lời nói của nhân vật. Đấy là một thành tựu rất hiếm có. Như trong truyện “Mặc áo lá cây” ( Phiên Phiên ), những lời đối đáp mang tính hài hước giữa Hoa Thành Nương Tử và tiên nữ Phiên Phiên hết sức linh động. Đối với những độc giả tương đối có trình độ văn hoá thời bấy giờ, đọc lên không có gì khó hiểu. Do kết hợp từ nhiều mặt nên “Liêu trai chí dị”  đã xúc tiến nghệ thuật văn ngôn tiến lên một bước. Từ đó trở về sau, mặc dù có nhiều tác phẩm tương tự ra đời nhưng đều không có tác phẩm nào bì kịp.

Dùng thủ pháp “Vẽ rồng chấm mắt” hoặc thông qua hành động, ngôn ngữ của nhân vật để biểu hiện tính cách nhân vật, không cần giới thiệu dài dòng, hoặc dùng lối châm biếm nêu bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm . . .là những thành công của “Liêu trai chí dị”  và cũng là đặc điểm dân tộc truyền thống của truyện ngắn Trung Quốc.

“Liêu trai chí dị” ra đời đến nay đã trên ba thế kỉ. Nó đem đến cho người đọc một phong cách mới mẻ, hấp dẫn. Người đọc có được niềm vui nhờ sự hoá thân kì diệu trong chốc lát để thoát khỏi những cảnh đời ngang ngược, để thực hiện những ước mơ.

 3.  SƠ LƯỢC VỀ NHỮNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHỦ YẾU TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ” 

Thế giới nhân vật trong  “Liêu trai chí dị” vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là những tên tham quan ô lại, cường hào ác bá trong những truyện ngắn vạch trần chế độ chính trị đen tối,  lên án các thế lực chà đạp, ức hiếp những người dân lương thiện. Đó là những chàng nho sinh, nho sĩ và chế độ khoa cử trong những mẩu chuyện “làng nho”. Đó là hàng loạt hình tượng thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, yêu đương say đắm và rất mực chung tình trong những truyện ngắn xoay quanh đề tài tình yêu và hôn nhân. Ngoài ra trong những truyện ngắn khác còn  xuất hiện các nhân vật đạo sĩ, thần tiên  . . . Thế giới nhân vật phong phú ấy được miêu tả vô cùng sinh động, tạo nên một thế giới nghệ thuật Liêu trai đầy kì ảo nhưng cũng chẳng khác gì mấy so với thế giới hiện thực đời thường.

Trong phần nghiên cứu này chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hình tượng  nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ trong những truyện ngắn được tuyển chọn từ tuyển tập “Liêu trai chí dị” gồm có 119 truyện của Nhà xuất bản Văn học 2003.

    Chương III : HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG “LIÊU TRAI CHÍ DỊ”

 I.      HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NHO SINH

     1.NHỮNG NHÂN VẬT NHO SINH MẢI MÊ VỚI HAI CHỮ CÔNG DANH

        1.1. NHỮNG CHÀNG NHO SINH LẬN ĐẬN TRONG NGHIỆP THI CỬ

 Đó là những chàng nho sinh , nho sĩ vì hai chữ “công danh” mà trở nên mê muội, mất hết trí sáng suốt. Một phần vì họ bị nhồi nhét khát vọng công danh phú quí, mặt khác vì chế độ thi cử thối nát bất công : quan chấm thi rặt một lũ dốt nát và vô trách nhiệm, thi cử bằng thơ văn cổ sáo rỗng chỉ cần thí sinh học như con vẹt chẳng cần sáng tạo. Do đó, bọn giám khảo “đánh hỏng người tài, chọn kẻ tầm thường”. Chế độ khoa cử thời ấy gây biết bao thảm họa, chính tác giả đã từng nếm mùi cay đắng.

Những chàng nho sinh suốt đời lận đận trong nghiệp thi cử trong Liêu trai như chàng thư sinh họ Diệp trong truyện “Chàng thư sinh họ Diệp” hay chàng Vương Tử An trong “Giấc mộng đắc chí”, chàng Vương trong “Oan nghiệt trường văn”. . .

Chàng thư sinh họ Diệp miền Hoài Dương có tài văn chương trội nhất đương thời nhưng số phận lận đận long đong trong trường công danh. Có ông Đinh Thừa Hạc đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kì tài, ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước, đèn sách cấp cho đầy đủ. Đến kì sơ thí ( kì thi sơ bộ trước khoa thi hương để chọn những thí sinh khá)  ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sứ, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ. Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi hương, cho lấy văn của chàng để xem, ngợi khen không ngớt. Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng vàng đã treo mà chàng lại hỏng tuột. Vì quá đau buồn, trở về chàng choáng váng tê mê, thân hình gầy rộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như tượng gỗ. Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh rồi chết. Khi đã hoá thành một hồn ma chàng Diệp mới có thể đạt được cái giấc mộng đỗ đạt của mình : đỗ cử nhân.

Còn chàng Vương Tử An – một danh sĩ trầy trật mãi trong sự lều chõng – bị cái nghiệp thi thư và ước mong thi cử đỗ đạt ám ảnh mãi, tấc lòng ngổn ngang muôn nỗi cho nên mới có chuyện đáng buồn cười mà cũng vô cùng đáng thương xảy ra : bị quỉ hồ cười trộm đã lâu, mới nhân khi Vương bị say mà đùa trêu tạo nên giấc mộng công danh đắc chí đỗ đạt. Trong giấc mơ “y như thật ấy”, Vương đậu tiến sĩ, qua tam trường, được bổ vào viện Hàn Lâm. .  . Thế là quên phắt thân y đang nghèo xác nghèo xơ, vội nảy ra ý nghĩ là phải ra oai với hàng xóm. Y thét gọi ban trưởng. Nhưng đáp lại lời gọi của y là tiếng trả lời lạnh nhạt của người vợ : “Trong nhà chỉ có bà già giúp việc, làm gì có ban trưởng”.Tỉnh ra mới biết tất cả chỉ là mộng ảo mà thôi! Phải là người có thể nghiệm sâu sắc về sự được mất trên con đường khoa cử mới có thể giễu cợt thấm thía như thế. Văn học truyền thống Trung Quốc có hẳn một truyền thống dùng mộng để phản ánh. Lấy mộng để nói thực, cái thực được chiết xạ qua mộng càng làm tăng thêm sức phản ánh hiện thực sâu sắc. Mộng là đế nói thực và mỗi khi mộng, con người không bị khống chế bởi ý thức nên sống thật với ý nghĩ của mình. Là kẻ sĩ ôm giấc mộng công danh, Vương Tử An bị quỉ hồ cười trêu, mộng mà y như thật! Tỉnh mộng, quay trở về đối diện với thực tại càng thêm chua xót phũ phàng.

Về cuối truyện, tác giả dùng mấy nét châm biếm khắc họa sâu sắc và sinh động hình tượng “lôi thôi sĩ tử” trong và sau cuộc thi. Các tú tài vào trường thi thì có bảy cái “giống”. Khi mới bước vào trường thi, chân đi đất, tay cầm ống quyển, giống thằng ăn mày. Khi xướng danh thì quan chửi, lệ mắng giống thằng tù. Đến lúc về buồng thi thì tìm lỗ thủng mà ngó cổ ra nhìn, nằm thì thò chân ra khỏi cửa buồng, giống đàn ong cuối thu. Khi ra khỏi trường thi thì tinh thần hốt hoảng, trời đất đổi màu, giống chim ốm được thả ra khỏi lồng. Khi mong tin báo thì cây cối đều giật mình, mơ mộng liên miên : lúc thì mơ đắc chí, phút chốc sẽ có gác tía lầu hồng; lúc lại mơ thất chí, nháy mắt mà xương khô tủy rữa. Những lúc ấy đi đứng khó khăn giống con vượn bị trói. Vụt có người phi ngựa đến báo, trong giấy không có tên mình thì tinh thần tiều tụy, trông như người chết rồi, giống như con ruồi hút phải chất độc, ai trêu cũng chẳng biết gì. Tác giả dùng lời bình luận của Dị Sử Thị để khái quát về việc những người tú tài trước và sau khi vào trường thi, khi đợi yết bảng, lúc chờ xướng danh, bỗng tưởng tượng mình thi đỗ nên phát điên, hoặc nghĩ tới bị thi rớt nên chán nản muốn chết, tâm trạng hết sức hoang mang, làm cho người đọc không khỏi bùi ngùi. “Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười!”, lời bàn của tác giả làm cho chúng ta không chỉ thấy đáng cười cho số phận của những chàng sĩ tử mà còn thấy họ thật là đáng thương biết bao nhiêu!

Trong truyện “Oan nghiệt trường văn”, đó là chàng Vương Bình Tử tài năng mà bị đánh hỏng bởi các quan chấm thi đều …. “mù” cả, lại còn có cả một hồn ma chàng Tống bất đắc chí vì cái mộng công danh không thành. Câu chuyện kể về ba chàng nho sinh : Vương Bình Tử – một người học rộng tài cao, Dư Hàng sinh – người học trò ở đất Dư Hàng và chàng họ Tống, cả ba người cùng ở trọ trong một ngôi chùa nọ. Vương và Dư Hàng là hai anh học trò đi thi còn chàng Tống thì được giới thiệu là “không có chí bay nhảy” như họ. Dư Hàng tính vốn kiêu ngạo, văn tài không giỏi giang gì lắm, bất tài nhưng lại hay khoác lác. Vương kết thân với Tống sớm tối bàn chuyện kinh sử, nhờ Tống chỉ bảo trong việc học hành, đưa văn thơ của mình cho Tống duyệt đọc. Có lần Vương và Dư theo lời Tống, đưa văn chương của mình cho một bậc kì nhân là  Tư  Văn Lang,  một ông già có khả năng thẩm văn – vị sư mù làm nghề bán thuốc có tài dùng  mũi ngửi mà phân biệt văn hay hay văn dở –  xem, Vương Bình Tử đốt văn của mình trước, hoà thượng liền bảo : “ Văn anh vừa học ở các đại gia, tuy chưa giống hẳn nhưng cũng đã tương tự, đi thi chắc sẽ đỗ”. Rồi đến Dư Hàng sinh đốt văn của mình thì hoà thượng bỗng ngăn lại : “Thôi! Thôi! Ngửi không được, bắt ngửi thì sẽ tắt thở! Đốt tiếp thì sẽ nôn oẹ ra mất!. Văn của Dư bị đánh giá thấp còn văn của Vương thì được đánh giá cao. Thế mà kì thi năm ấy Dư đỗ hương cống còn Vương thì trượt. Hai người đến chất vấn nhà sư mù nguyên do là tại sao thì nhà sư bảo : “Ta tuy mù mắt nhưng mũi không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả hai”. Một lát sau, người học trò Dư Hàng nghênh ngang đi đến, đắc ý cười nhạo nhà sư mù. Nhà sư chọc y : “Ta bình luận chất lượng văn chương chứ không xem mệnh ngươi, không tin ngươi cứ việc mang văn chương các khảo quan đến đây, ta không ngửi cũng biết một vị trong số đó là thầy ngươi! Người học trò Dư Hàng và Vương Bình Tử đi lấy văn chương về. Đốt đến văn của vị thứ sáu, nhà sư mù đột nhiên quay úp mặt vào tường nôn thốc tháo, đánh rắm liên tục, nghe như sấm rền. Mọi người cười rộ lên. Nhà sư bảo chàng học trò Dư Hàng : “Đó là thầy ngươi mà! Mới đầu không dè chừng xớn xác ngửi đại một miếng, lỗ mũi hứng không nổi nên luồn tuốt vào bụng, bàng quang chứa không được tống thẳng lên, thế là không sức nào kìm được”.Thì ra Dư Hàng là học trò của một ông quan chấm thi kì thi năm ấy nên đã được chấm đỗ.

Mượn nhà sư mù để mắng đám khảo quan “có mắt như mù”, công kích lũ quan chấm thi kể cũng hả dạ cho “chàng”cống sinh đỗ muộn ở tuổi 71 Bồ Tùng Linh, đồng thời còn khẳng định rằng đã là văn hay thì đốt ra tro cũng vẫn còn hay, và văn dở thì dù đốt ra tro cũng còn làm người ta tởm lợm. Một nhận định hơi “thâm” của Bồ Tùng Linh gợi cho ta nhiều suy nghĩ : đó là, muốn thi đỗ thì cứ việc. . . trộn văn của tác gia tên tuổi vào văn mình,  tha hồ “qua mặt” những kẻ “mù cả mắt lẫn mũi”.Tác giả đã giễu cợt một cách sâu cay sự dốt nát của những kẻ thay mặt triều đình để lựa chọn nhân tài cho quốc gia dân tộc! Thử hỏi, loại quan chấm thi có mắt như mù đó làm thế nào để có thể lựa chọn những người tài đức kiêm toàn? Cho nên, hàng loạt những người có chân tài, thực học không thể không lận đận và chịu mọi sự bi thảm của cuộc đời. Chàng Vương về tiếp tục ôn luyện cho kì thi năm sau nhưng vì phạm quy vì bị đánh hỏng. Tống hay tin bạn lại bị hỏng thì khóc lớn và thú thực mình là hồn quỷ phiêu bạt, từ nhỏ tuổi ôm ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc. Gặp Vương, chàng Tống muốn giúp cho bạn đạt được cái ước nguyện mà bản thân mình chưa đạt được. Nhưng nay bạn mình cũng không thoát cái tai ách của nghiệp văn tự.

Những nhân vật nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử kể trên là những nhân vật  trong các thiên truyện ngắn chỉ thuần túy viết về đề tài nho sinh được tuyển chọn trong số 110 truyện của tuyển tập Liêu trai mà luận văn nghiên cứu, còn trong những truyện ngắn về các đề tài khác, chẳng hạn như đề tài người phụ nữ chẳng hạn, ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh của các nhân vật nho sinh loại này. Đó là những chàng nho sinh trầy trật mãi trong chuyện thi cử. Chẳng hạn như chàng Châu Dục Sinh học giỏi, đẹp trai lấy vợ đạo cô trong truyện “Phan Trần đùa mà hơn thực” ( Trần Vân Thê ), thi đi thi lại mà vẫn không đỗ, chàng Mỗ trong truyện “Vợ thi hộ chồng” đi thi khoa nào cũng rớt, chàng Nhạc Vân Hạc trong truyện “Lên chơi trên trời” ( Lôi Tào ), tuy học hành tấn tới nhưng thi cử thì khoa nào cũng rớt. . .

Nhưng nhìn chung, có ý nghĩa nhất trong loại những nhân vật nho sinh lận đận trong nghiệp thi cử  chính là hình tượng những anh chàng nho sinh trong những thiên truyện ngắn thuần túy viết về đề tài nho sinh. Qua các truyện viết về những anh chàng nho sinh lận đận trong đường công danh này, chúng ta có thể rõ ràng nhận ra sự “giam cầm và đục khoét tâm hồn của chế độ khoa cử đối với giới trí thức” [8;125]; “các thí sinh bị hành hạ dữ dội về tinh thần, tâm hồn bị bẻ cong” [6;606] Chế độ khoa cử đã thâm nhập vào tận tâm linh của những phần tử trí thức, khiến tinh thần của họ cứ luôn vẩn vơ ám ảnh mãi cái giấc mộng công danh. Bởi vì trong một thời kì lịch sử lâu dài của xã hội phong kiến Trung Quốc, chế độ khoa cử đã từng là con đường lựa chọn nhân tài duy nhất cho quốc gia dân tộc. Tình trạng mê muội khổ sở như vậy của sĩ tử một phần do bản thân họ bị đầu độc bởi tư tưởng công danh phú quí, nhưng một phần khác lại do chế độ khoa cử thối nát gây ra. Quan chấm thi rặt một lũ thối nát và vô trách nhiệm. Thi cử lại dùng văn bát cổ, một thứ văn chương sáo rỗng, chỉ đòi hỏi thí sinh học thuộc lòng như con vẹt, không cần suy nghĩ, sáng tạo. Bồ Tùng Linh đã chỉ ra những cái thối nát hủ lậu của chế độ khoa cử, đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Về mặt này, Bồ Tùng Linh là một tác giả có đóng góp rất đáng kể.

1.2.  NHỮNG CHÀNG NHO SINH ĐỖ ĐẠT, THỰC HIỆN ĐƯỢC GIẤC MỘNG CÔNG DANH

 Ngoài những nhân vật nho sinh với giấc mộng công danh bất đắc chí, trong “Liêu trai chí dị” còn có những nhân vật nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng công danh. Có thể kể đến chàng học trò đi thi trong truyện “Ba ông tiên”, chàng vào thi ở Kim Lăng, lạc vào động “Ba vị tiên”, trong động có ba con : cua, rắn và ễnh ương rất thiêng. Chàng may mắn được sự giúp đỡ của ba vị tiên, vào trường thi, được ba bài đều trúng với ba bài tiên làm cho mà được đỗ đầu trong kì thi. Hoặc như anh chàng Tinh Nhi “con trời”trong truyện “Lên chơi trên trời” ( Lôi Tào) thi đỗ tiến sĩ, chàng Mộng Tiên con của người phàm trần và tiên nữ trong truyện “Con gái nhà trời”         ( Bạch Vu Ngọc ) đậu thi hương rồi hàn lâm cũng có những yếu tố của phép lạ ( xuất thân kì lạ ). Còn anh chàng nho sinh trong truyện “Thay tim đổi mặt” nhờ có phép thần kì thay tim, có được trái tim sáng suốt hơn cộng với sự giúp sức trong việc học hành của một người bạn – một vị thần – mà đã thi đỗ đầu bảng. Câu chuyện kể về chàng Châu Nhĩ Đán tính hào phóng nhưng kém  thông minh. Tuy học siêng năng nhưng chưa được nổi tiếng, làm bạn với phán quan họ Lục – một vị thần ở đền thờ Thập Vương. Có người bạn cõi âm giúp sức trong việc học hành, lại giúp cho chàng có một trái tim khác sáng suốt hơn, từ đó văn chương tấn tới, trí nhớ vượt bậc. Nhờ vậy mà chàng thi đỗ đầu bảng Hiếu liêm ( cử nhân).

Ở vào loại  nho sinh đỗ đạt này cũng có thể kể thêm trường hợp của  của chàng nho sinh trong truyện “Vợ thi hộ chồng”, chàng nho sinh  họ Mỗ tính đần độn, mãi mười bảy tuổi đầu mới viết chữ thành hàng lối thi đỗ là do người vợ giỏi giang và tài năng thi hộ, và không những đỗ mà còn đỗ rất cao : cử nhân, tiến sĩ. Cũng có cả những kẻ bất tài khoác lác nhưng lại được chấm đỗ như anh chàng Dư Hàng trong truyện “Oan nghiệt trường văn” vì chàng ta là học trò của một ông quan chấm thi kì thi năm ấy.

Qua những hình tượng nhân vật nho sinh đỗ đạt, thực hiện được giấc mộng công danh vừa kể trên, chúng ta dễ dàng nhận ra có một nguyên nhân vô cùng quan trọng góp phần biến giấc mơ đỗ đạt của các sĩ tử trở thành hiện thực đó là có sự trợ giúp của các yếu tố thần kì với những phép lạ “thay tim đổi mặt”, sự chỉ bảo, trợ giúp của các vị thần tiên trong việc học hành, hoặc nhân vật nho sinh đỗ đạt là một nhân vật có nguồn gốc xuất thân đặc biệt như cậu Tinh Nhi – “con trời”. Họ đỗ đạt trong thi cử phần lớn là do có sự hỗ trợ của các yếu tố phép màu, các vị thần tiên và đặc biệt hơn là có sự trợ giúp của . . . phụ nữ chứ không phải là do thực lực của họ. Phải chăng trong cuộc sống thực của mình Bồ Tùng Linh là một sĩ tử long đong lận đận trên đường công danh, con đường khoa hoạn luôn làm cho ông bất đắc chí mà ông đã gởi gắm vào trong những thiên truyện ngắn viết về đề tài nho sinh của mình những giấc mộng công danh đỗ đạt và những giấc mơ ấy thấm đẫm  tính chất lãng mạn, những nhân vật nho sinh đỗ đạt luôn có sự trợ giúp của những yếu tố phép màu, thần kì. Mặc dù tác giả có gởi gắm những ước mơ công danh đỗ đạt đầy tính lãng mạn của mình qua một số thiên truyện ngắn viết về đề tài nho sinh nhưng không phải vì tính chất lãng mạn mà những truyện ngắn này kém đi tính chất hiện thực. Qua những giấc mộng công danh đã được trở thành hiện thực ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra nhiều vấn đề có tính hiện thực sâu sắc, tạo nên giá trị tố cáo mạnh mẽ cho những thiên truyện ngắn về đề tài nho sinh : chế độ khoa cử bất công thối nát, bọn quan lại chấm thi “đánh hỏng người tài, chọn kẻ tầm thường”, các thí sinh  đỗ đạt thì nếu không phải là bọn bất tài mà khoác lác như anh chàng Dư Hàng thì cũng là những kẻ đạt được danh vọng nhờ công của kẻ khác, nhờ sự trợ giúp của các thế lực thần thánh với những phép màu kì lạ.

 Như vậy, qua việc tìm hiểu loại nhân vật nho sinh “mải mê với hai chữ công danh”, chúng ta có thể thấy rằng, họ chính là những đứa con ngoan của chế độ phong kiến, với tư tưởng Nho giáo chính thống. Có những giấc mộng công danh trở thành hiện thực và cũng có cả những khát vọng công danh không thành. Họ gắn cuộc đời mình nơi cửa Khổng sân Trình, mong đạt được giấc mộng công danh, mong ước tên mình được ghi trên bảng vàng, để có chút bổng lộc về sau mà vang danh với thiên hạ. Nhưng hỡi ôi, cái nghiệp văn tự biết bao nhiêu là cay đắng, nhọc nhằn và cả những điều phi lý bất công : kẻ bất tài thì đỗ đạt mà bậc tài danh thì ôm mãi mối hận bất đắc chí.

Trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Bồ Tùng Linh là người đã đề cập đến vấn đề khoa cử một cách rộng rãi. Ông vạch trần bộ mặt tinh thần của phần tử trí thức, sự lừa lọc gian dối nơi chốn trường thi nhằm phê phán một cách toàn diện sự ruỗng nát suy đồi của chế độ khoa cử. Quả thật bản thân Bồ Tùng Linh đã từng nhịn đắng nuốt cay, chịu mọi nỗi ê chề  bởi chế độ khoa cử. Ông hiểu sâu sắc cái ấm ức, hậm hực, thậm chí đến mức bất bình căm phẫn của người cử tử. Do đó, ông trút tất cả những điều mắt thấy tai nghe vào những thiên truyện  ngắn trong Liêu trai.

Những nhân vật nho sinh “mải mê với hai chữ công danh” này, họ tìm mọi cách để mở rộng đường công danh nhưng mục tiêu của họ không phải là nhằm hiểu biết kho tàng kiến thức phong phú của nhân loại mà để đạt phú quí vinh hoa, công danh, bổng lộc.

Có thể xem việc phê phán những hiện tượng đen tối của chế độ khoa cử trong “Liêu trai chí dị”  là bước đầu của việc đả kích một cách toàn diện chế độ khoa cử trong “Nho lâm ngoại sử”. Điều đó cũng là lẽ tất nhiên khi tác giả của nó chưa nhận thức một cách toàn diện sự dối trá đến mức phản động của chế độ khoa cử, thậm chí qua một số thiên còn để lộ mộng tưởng của tác giả đối với chế độ khoa cử, xem việc đỗ đạt làm quan là lí tưởng phấn đấu của thanh niên.

Những hình tượng nho sinh mải mê với nghiệp khoa cử, ôm ấp giấc mộng công danh không phải là đến Bồ Tùng Linh, với bộ “Liêu trai chí dị”  mới xuất hiện mà ngay từ khi chế độ phong kiến hình thành với tư tưởng Nho giáo chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần của con người trong xã hội thì đồng thời trong văn học cũng xuất hiện những mẫu người nho sinh như thế. Đó là khi xã hội phong kiến đang trong thời kì thịnh hành, vẫn còn giữ được những giá trị tích cực của nó đối với xã hội. Lý tưởng của những kẻ sĩ trong thời đại bấy giờ là “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Mục đích cao cả hàng đầu của cuộc đời họ là công danh đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng, thăng quan tiến chức, đem cái tài của mình ra phụng sự quốc gia, lưu lại tiếng thơm muôn thuở.

Đến Bồ Tùng Linh, với những thiên đoản thiên tiểu thuyết trong “Liêu trai chí dị”, vẫn là những hình tượng nho sinh ấy, nhưng với một cuộc đời đầy bất đắc chí trong con đường khoa cử, Bồ Tùng Linh hiểu rõ hơn ai hết những tệ lậu của chế độ khoa cử và những nỗi thất vọng, đau đớn ê chề khi  giấc mộng công danh tan vỡ và do đó ông đã  viết nên những thuyên truyện ngắn bất hủ về đề tài này. Khi nói đến đề tài nho sinh và nghiệp khoa cử, ngoài “Nho lâm ngoại sử” của Ngô Kính Tử, người ta không thể không nhắc đến những thiên truyện ngắn của Bồ Tùng Linh.

Thế nhưng, những thiên truyện ngắn viết về loại nho sinh mải mê với khát vọng công danh, phú quí này chiếm số lượng không nhiều mà đa phần trong hàng loạt các thiên truyện ngắn, ta đều có thể nhận thấy sự xuất hiện của loại nhân vật nho sinh thứ hai : những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”. Loại nhân vật này đã thể hiện rõ nét nhất sự sáng tạo độc đáo và mới mẻ của Bồ Tùng Linh trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.

 2.      NHỮNG NHÂN VẬT NHO SINH “SUY ĐỒI – MẤT NIỀM TIN”

 Loại nhân vật này chiếm số lượng rất lớn trong bộ “Liêu trai chí dị”. Có thể tìm thấy hầu như trong bất kì truyện nào hình ảnh của loại nhân vật nho sinh “đặc biệt” này – “những đứa con hư của chế độ phong kiến”. Họ không say mê nghiệp đèn sách tìm kiếm công danh bằng con đường khoa cử như những nho sinh đã xếp vào loại kể trên, mà họ mải mê say sưa với những cuộc tình duyên say đắm với những cô nương xinh đẹp.

Họ xuất hiện trong những thiên truyện ngắn của Liêu trai với hình ảnh của những chàng công tử si tình. Như chàng Vương Quế Am trong truyện cùng tên. Trong cuộc dạo chơi ngoạn cảnh trên một chuyến du thuyền, tình cờ chàng gặp một cô nương xinh đẹp. Thế là từ đó chàng cứ ngẩn ngơ mong nhớ. Lúc bấy giờ không có gì quan trọng hơn đối với chàng bằng việc tìm gặp cho được cô nương xinh đẹp ấy. Chàng ta tìm đủ mọi cách để gặp lại mĩ nhân, mải mê yêu đương mà không màng gì đến việc khoa cử, đèn sách.

Truyện “Bành Hải Thu” kể về chàng nho sinh Lai Châu là Bành Hiếu Cổ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa, trung thu không về, cùng chàng họ Khâu và chàng Bành Hải Thu chuyện trò đối ẩm. Chàng Hải Thu mời một nàng danh kỹ xinh đẹp như tiên, tuổi khoảng đôi tám từ Tây Hồ xa ngàn dặm tên là Quyên Nương đến hát khúc hát “Chàng bạc tình” giúp vui.  Lúc chia tay nàng, chàng Bành bịn rịn bồi hồi, từ đấy không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau, trong một chuyến đi thăm người anh rể, vào bữa tiệc có nhiều con hát đàn ca, tình cờ chàng gặp lại Quyên Nương. Lúc này Bành mới biết nàng là con hát số một Quảng Lăng. Hai người vui mừng khôn xiết. Bành bỏ ra ngàn vàng chuộc thân cho nàng rồi đưa nhau về quê.

Còn chàng Tôn Tử Sở – một danh sĩ sinh ra có ngón tay chẽ, người Việt Tâytrong truyện “Cô Bảo” ( Cô Bảo ) – thì có thể xếp vào hàng những kẻ si tình bậc nhất trên thế gian. Chàng Tôn tính vẩn vơ lẩn thẩn, nhà lại nghèo,  tương tư nàng A Bảo con nhà dòng dõi quí phái, có nhan sắc tuyệt trần, cậy mối đến hỏi nàng làm vợ. Nàng biết được việc ấy mới nói bỡn rằng : “Nếu chàng ta bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay”, chàng nói : “Cái đó khó gì” rồi liền đó lấy búa chặt đứt ngón tay chẽ, đau thấu ruột, máu phụt chảy ra lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới ngồi dậy được.  Ngày tiết Thanh Minh, tình cờ gặp được nàng A Bảo, về đến nhà hồn của chàng Tôn lìa khỏi xác, bay đến nhà cô Bảo. Sau đó thì chàng ta bị một trận ốm tương tư, mê man không ăn uống gì, rồi hồn của chàng lại hoá thành một con vẹt để bay đến nơi nàng A Bảo. Cuối cùng, tấm chân tình thành thực, si mê của chàng Tôn cũng làm động lòng nàng A Bảo xinh đẹp, nàng đồng ý về làm vợ chàng Tôn Tử Sở si tình.

 Còn trong truyện “Hồng Ngọc”, đó là chàng nho sinh Tương Như, một đêm ngồi dưới bóng trăng, thấy người con gái láng giềng bên phía Đông từ trên tường nhòm sang, nhan sắc vô cùng xinh đẹp thì trong lòng đã cảm mến. Hai người ăn nằm với nhau, chàng rất yêu và xin cùng nàng kết duyên lâu dài. Chàng Hoàng Sinh trong truyện “Hương Ngọc” không chỉ si tình mà còn rất mực chung tình! Hoành Sinh yêu Hương Ngọc và Giáng Tuyết là do hoa mẫu đơn trắng và hoa nại đông biến thành. Khi biết Hương Ngọc là tinh hoa mẫu đơn trắng, bị họ Lam ở Tức Mặc đem đi nơi khác, Hoàng Sinh thương xót vô cùng. Chàng làm đến 50 bài thơ để khóc hoa. Cảm lòng thành của Hoàng Sinh, thần hoa cho Hương Ngọc tái sinh và trở về với chàng. Cuối cùng, để được hôm sớm gần nhau, khi chết Hoàng Sinh biến thành một mầm đỏ mọc lên cạnh cây mẫu đơn.

Truyện “Anh Ninh” kể về chàng Vương Từ Phục thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Gặp tiết thượng nguyên, cùng người con nhà cậu đi chơi thì tình cờ gặp nàng Anh Ninh tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được, chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả ý tứ. Chàng nhặt lấy cành hoa mà nàng bỏ xuống đất, về đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn rồi lủi thủi cuốc bộ một mình, lặn lội đường sá xa xôi vào núi sâu mong tìm được người con gái ấy rồi cuối cùng cũng lấy được nàng về làm vợ.

Chàng thư sinh họ Hạ tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung, ngưỡng mộ nàng Thụy Vân – một danh kỹ của đất Hàng – trong truyện “Thụy Vân”, cố gắng hết sức để sắm chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa. Được nàng tặng cho một bài thơ, chàng mừng rỡ như cuồng. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía, ngâm nga, tơ lòng vương vít. Được một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại. Rồi sau đó chàng ta may mắn cưới được nàng Thụy Vân về làm vợ.

Còn có thể kể ra đây những chàng nho sinh si tình trong hàng loạt các thiên truyện ngắn khác : chàng Vương Đỉnh trong truyện “Ngũ Thu Nguyệt”, chàng Cảnh Khứ Bệnh trong truyện “Thanh Phượng”, chàng An tính chuộng nghĩa, thích phóng sinh chim thú trong truyện “Hoa Cô Tử”, chàng Dương trong truyện “Liên Toả”, thư sinh họ Hoàng trong truyện “Hương Ngọc”, chàng Phong Vân Đình trong truyện “Cô gái họ Mai” ( Mai nữ ), chàng Khổng Tuyết Lạp trong truyện “Mĩ nhân cứu mạng” ( Kiều Na ), chàng Cao trong truyện “Vợ dữ hơn cọp” ( Giang Thành ), chàng Kiều sinh trong truyện “Cắt thịt vì tình” ( Liên Thành ), chàng Quảng Bình Phùng trong truyện “Cô Tân thứ mười bốn” ( Tân thập tứ nương ), chàng Hoắc sinh đa tình trong truyện “Cậu bé đa tình”( Thanh Nga ) . . .

Hay đó là chàng Thường Đại Dung trong truyện “Yêu hoa đâu dễ biết hoa”.Chàng ta rất mê hoa Mẫu Đơn, làm cả một trăm bài thơ tứ tuyệt với đề tài “Mong nhớ mẫu đơn” ( thay vì dành thời gian ôn luyện đèn sách ). Đi dạo trong vườn hoa, gặp một cô gái nhan sắc xinh đẹp là “người đẹp tinh hoa mẫu đơn”, chàng liền say đắm sắc đẹp của nàng.

Cũng có thể xếp vào loại nhân vật nho sinh này anh chàng An Đại Nghiệp trong truyện “Lấy vợ công chúa”. Là một chàng trai thông minh học giỏi, khi thi đậu chàng An khoe với vợ nhưng nàng không mừng mà trái lại tỏ vẻ buồn rầu, cho đó là thứ danh vọng hảo, là vương phải tục lụy. Chàng nghĩ lời vợ nói phải nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Chuyện thi cử đối với chàng An không còn quan trọng nữa, chàng cảm thấy bằng lòng với cuộc sống hiện tại, bên cô vợ công chúa xinh đẹp và cảm thấy những lời nói của nàng là vô cùng có lí. . .

Tình yêu say mê của các chàng nho sinh này cũng đã thể hiện một quan niệm mới trong tình yêu và hôn nhân, đó là mong muốn tự do trong yêu đương, tự lựa chọn người yêu cho mình. Những chàng công tử si tình của Liêu trai, khi đã yêu là họ yêu say đắm và quyết đấu tranh vượt qua mọi chướng ngại để lấy cho được các nàng về làm vợ. Trong xã hội phong kiến việc hôn nhân đại sự của các chàng công tử thường do cha mẹ định đoạt, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, sao cho môn đăng hộ đối. Nhưng tình yêu của những chàng nho sinh trong Liêu trai là tình yêu tự do, không bị cản trở bởi lễ giáo phong kiến.

Và khi đã “yên bề gia thất”, họ mới nghĩ đến chuyện thi cử, lập chút công danh. Như chàng Tôn Tử Sở si tình trong truyện “Cô Bảo” ( A Bảo ), sau khi đã cưới được nàng A Bảo xinh đẹp về làm vợ, chàng ta mới nghĩ đến việc thi cử .

Chúng ta cũng có thấy tác giả  đề cập đến việc khoa cử của họ, nhưng thường là ở cuối câu chuyện, sau khi các chàng đã có vợ đẹp, con ngoan. Chẳng hạn như trong truyện “Vạn lý tầm thu” ( Cung Mộng Bật ), ở phần cuối của truyện, nhân vật Hoà sau khi lấy được cô gái họ Huỳnh về làm vợ thì  “quyết chí lập lấy công danh để không phụ lòng tốt của chú Cung” và sau đó là một thông báo ngắn gọn về kết quả việc thi cử của chàng “ . . . sau đó chàng đậu thi hương”. Có thể nói, việc khoa cử đối với chàng ngay từ đầu truyện không phải là mục đích cao nhất của cuộc đời Hoà, chỉ sau khi Hoà  có được người vợ đẹp và tìm thấy trong căn nhà nghèo xơ xác của mình có cả một kho của cải mà Cung Mộng Bật để lại cho khi ra đi thì Hoà mới chợt nảy ra ý định làm một việc gì đó để không phụ lòng tốt của ân nhân và lúc bấy giờ Hoà mới nghĩ đến việc “lập công danh”.

 Còn có thể kể đến khá nhiều truyện có mô-tip tương tự : sau khi đã cưới được các cô nàng xinh đẹp về làm vợ, ở cuối truyện, nhân vật nam chính được đỗ đạt, làm quan, sau đó được hưởng bổng lộc và trở nên giàu sang phú quí mặc dù từ đầu câu truyện, chúng ta không hề bắt gặp hình ảnh những anh chàng thư sinh này “sôi kinh nấu sử” hay “dùi mài mến nghiệp thi thư” như những nhân vật nho sinh “mải mê với hai chữ công danh” kể trên.             

  Có thể nói việc đỗ đạt khoa cử trong trường hợp này chỉ góp phần tạo nên một kết thúc có hậu cho câu chuyện chứ không đóng vai trò chính yếu trong cuộc đời của các nhân vật nho sinh này. Chẳng hạn như kết thúc của truyện  “Cô Bảo” (A Bảo), hai vợ chồng cô Bảo và chàng Tôn “vẩn vơ lẩn thẩn” được sum họp vì Diêm Vương cảm động trước  người vợ tiết nghĩa, dám vì chồng mà toan chết đi nên đã cho chàng Tôn dưới âm ty được hoàn dương trở lại làm người. Bên cạnh cái kết thúc có hậu đó, chàng Tôn còn được “đỗ đạt và ra làm quan”. Tương tự là các truyện như : truyện  “Hồng Ngọc”, kết thúc truyện chàng Tương Như thi cử đỗ đạt, phú quí, cuộc sống ấm no; truyện “Thanh Mai”, kết thúc chàng thư sinh họ Trương “đỗ kì thi Hương, thi Hội, làm quan tư lý”; chàng Phong Vân Đình trong truyện “Cô gái họ Mai” ( Mai nữ ) kết thúc truyện cũng theo môtip trên : “sau chàng cũng thi cử rất đỗ đạt”; chàng Cao sinh tên là Phồn trong truyện “Vợ dữ hơn cọp” ( Giang Thành ) và chàng Ngư Dung trong truyện “Hoá quạ lấy vợ thần” ( Trúc Thanh ) đều thi đậu cử nhân; chàng Mạnh An Nhân trong truyện “Háo sắc lụy mình”        ( Phong Tam Nương )  sau thi đậu cả hương lẫn hội, được bổ chức vào Hàn Lâm.

Theo triết lí Nho giáo chính thống, là kẻ nam nhi thì phải “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Mẫu người nho sinh theo Khổng giáo thì trước hết phải “tu thân”, lập nên được công trạng vẻ vang ở đời rồi kế đến mới là “tề gia”. Nho giáo rất đề cao sự rèn luyện cá nhân – “tu thân”. Và trong cái xã hội lúc bấy giờ, muốn “tu thân” thì phải theo đeo đuổi nghiệp đèn sách, học thuộc những câu chữ trong sách thánh hiền, những bài thơ văn cổ của cổ nhân, con đường để lập nên công trạng chính là con đường công danh khoa cử. Cho nên nho sinh là những con người có nhiệm vụ dùi mài kinh sử, học thuộc lòng “Tứ thư”, “Ngũ kinh”, “Kinh thi”…những bài thơ văn cổ của cổ nhân, đêm ngày đọc sách thánh hiền, “song huỳnh án tuyết”, “kham khổ nằm chưng trường ốc”, “dùi mài mến nghiệp thi thư” để có thể đỗ đạt trong khoa cử, thực hiện được giấc mộng công danh, tạo nên công trạng để đời, vang danh trong thiên hạ. Thế nhưng bên cạnh những thiên truyện ngắn viết về những  “đứa con ngoan của chế độ phong kiến” – những nho sinh mải mê với nghiệp đèn sách, khoa cử – mẫu người nho sinh theo Khổng giáo –  thì trong  “Liêu trai chí dị”  còn có khá nhiều truyện  viết về những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”. Những nhân vật nho sinh này  được miêu tả hoàn toàn xa lạ với loại nho sinh chính thống, họ mải mê say đắm trong những câu chuyện tình yêu, đã yêu là yêu đến si mê, đến ốm tương tư và đối với họ lúc bấy giờ không gì quan trọng hơn là cưới các nàng về làm vợ, như lời của chàng Cảnh Khứ Bệnh trong truyện “Thanh Phượng”: “Cưới được cô em thì ngôi vua cũng không đổi”. Sau khi đã “tề gia”, những anh chàng nho sinh này mới nghĩ đến chuyện “tu thân”, lập chút công trạng bằng con đường khoa cử.

Những chàng nho sinh “suy đồi – mất niềm tin” trong Liêu trai không coi trọng việc khoa cử công danh, đây chính là một nét mới lạ, sáng tạo của hình tượng nhân vật nho sinh. Giấc mộng công danh đối với họ không phải là điều đáng quan tâm nhất, giờ đây, đối với họ chỉ có giấc mộng ái tình ! Trong xã hội phong kiến, vấn đề khoa cử công danh vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối với “chí làm trai”, đời Thanh, nó trở thành một thứ bệnh dịch, ấy vậy mà nho sinh Liêu trai thì trái ngược hẳn! Phần lớn nho sinh trong Liêu trai   mất niềm tin vào việc học hành, thi cử. Công danh đối với họ không còn sức hấp dẫn nữa, như lời nói của cha chàng Mã Tuấn trong truyện “Phiên chợ giữa biển” ( La Sát hải thị ) : “Mấy quyển sách không thể nấu mà ăn khi đói, khi rét không thể may mà mặc”. Ông khuyên con nên nghỉ học làm thương mại. Sau đó chàng cưới công chú con của Long Vương, chẳng màng gì đến việc học hành thi cử. Hay cha của chàng thư sinh họ Mộ, khuyên con : theo đuổi nghề văn chỉ viễn vông, bắt chàng bỏ học theo nghề buôn. . . . Vì công danh đã không còn lí tưởng của cuộc đời các chàng nho sinh, cho nên chỉ có một sức mạnh có thể thúc đẩy các chàng học hành, ôn luyện thi cử, đó là tình yêu.  Truyện “Tấm gương hiện hình” kể về chàng Lưu Xích Thủy, người Bình Lạc, thuở trẻ vừa thông minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm, anh ta mải mê chơi bời bỏ học. Sau đó cưới được nàng Phượng Tiên xinh đẹp, vốn là hồ ly. Có dịp tình cờ đến nhà nàng, trong buổi tiệc, nàng cảm thấy buồn tủi vì cha mình có vẻ không xem trọng chàng Lưu, vì chàng ta thân phận nghèo hèn, không phải là bậc quan lại giàu có như  người anh rể của nàng. Nàng tặng cho Lưu một tấm gương và dặn chàng, chỉ khi nào chàng chăm chỉ đèn sách bài vở thì mới thấy được mặt nàng trong gương. Cứ thế, mỗi khi nhớ nàng, chàng ta phải chăm chỉ ôn luyện thì hình ảnh nàng trong gương mới hiện ra, cho nên hai năm sau, chàng đi thi thì đỗ luôn, được bổ làm quan, mùa xuân năm sau thi hội, đỗ luôn tiến sĩ.

  Có thể thấy rằng nho sinh Liêu trai thì phần lớn lo “tề gia”, rồi mới “tu thân”. Như vậy với việc xây dựng hình tượng nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin” vô cùng xa lạ và đối lập hoàn toàn với mẫu người nho sinh theo Khổng giáo “Tu thân – tề gia –  trị quốc – bình thiên hạ”, Liêu trai đã phản ánh  nhu cầu giải phóng cá nhân, tự do tình ái, nhu cầu vượt lễ giáo cả nam và nữ. Mặt khác họ coi học  thi là một gánh nặng, lí tưởng mất sức kêu gọi,  công danh giảm sức hấp dẫn. Bên cạnh đó, do chế độ hà khắc, con người buộc phải tìm cho mình những cách giải thoát để lấy lại sự cân bằng cho cuộc đời. Đây là những anh chàng nho sinh không còn ý thức “hữu trách” với thiên hạ, không còn chí với đạo, chỉ còn biết thoả mãn với thú vui hình hài, trăng gió. Nói cách khác, lí tưởng nhà nho đối với họ đã hoàn toàn mất ý nghĩa, không đáng để hi sinh cả cuộc đời. Những hình tượng nhân vật nho sinh này đã đi ngược lại với tư tưởng Nho giáo khuôn phép vốn đã có từ lâu đời và tồn tại “thâm căn cố đế” trong tinh thần của con người phương Đông bao thời đại.

Như vậy, qua những thiên truyện ngắn viết về những nhân vật nho sinh “suy đồi – mất niềm tin”, Bồ Tùng Linh đã  thể hiện quan niệm mới trong tình yêu và hôn nhân, đó là tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ. Bên cạnh đó, sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Bồ Tùng Linh là ở chỗ đã xây dựng nên  những hình tượng nhân vật nho sinh hoàn toàn khác biệt với mẫu nho sinh theo đạo Khổng . Các chàng nho sinh của Bồ Tùng Linh thất vọng về sự học hành, không mấy tin vào đạo Khổng. Niềm tin vào sự học hành khoa cử của họ giảm sút trầm trọng nên họ quay sang  tìm niềm vui trong tình yêu.

II – HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ

 1.      NGUỒN GỐC XUẤT THÂN

 Các nhân vật phụ nữ trong Liêu trai chí dị chiếm một số lượng “áp đảo” hơn hẳn so với các nhân vật là nam giới. Trong thế giới nhân vật phụ nữ đông đảo và đa dạng ấy, nếu xét về nguồn gốc xuất thân thì có thể chia thành hai hệ thống lớn: hệ thống nhân vật hư ảo ( phi thực ) có nguồn gốc xuất thân kì lạ ( ma quỉ hồ li, chồn tinh, tinh hoa, tinh mộc; hoặc từ chim, ong cá hoá thân thành người, những nhân vật  có xuất thân từ trên tiên giới, là tiên nữ trên trời hoặc công chúa con nhà trời. . .) và hệ thống nhân vật trần thực.

Chiếm một số luợng không nhỏ trong Liêu trai là các nhân vật phụ nữ thuộc hệ thống nhân vật hư ảo ( phi thực ) : ma quỉ, hồ li, hoa tinh, mộc tinh ; cây cỏ, ong, chim cá hoá thân thành người.

Những người phụ nữ có số phận bất hạnh, bị chết yểu hoặc chết oan hoá thành những hồn ma như nàng Ngũ Thu Nguyệt trong truyện cùng tên, nàng Liên Toả xinh đẹp nhưng mới mười bảy tuổi bỗng bị bạo bệnh chết đã hơn hai mươi năm trong truyện cùng tên; Chương A Đoan, cô gái xinh đẹp chết yểu xác chôn trong khu nhà nọ trên hai mươi năm trong truyện “Cởi truồng rượt ma” ( Chương A Đoan ); nàng Công Tôn cửu nương, vốn là ma, con gái của một nhà dòng dõi bị sa sút trong truyện “Một đêm lấy ma”           ( Công Tôn cửu nương ); nàng Lý trong truyện “Chồn quỷ tranh chồng”      ( Liên Hương ). . . Các nhân vật phụ nữ là hồ như : nàng Hồng Ngọc – cô gái láng giềng của chàng Tương Như – trong truyện cùng tên; nàng Anh Ninh có tính hay cười vốn do hồ sinh ra lại được bà mẹ ma nuôi nấng, sống ở nơi núi rừng hẻo lánh; nàng Tiểu Thúy trong truyện cùng tên cũng là con của hồ; nàng Hoa Cô Tử trong truyện cùng tên ;  hai chị em hồ trong “Cô tư họ Hồ” ( Hồ Tứ Thư ), nàng hồ hay đùa trong truyện “Hồ hài”, nàng Hằng Nương nói năng nhẹ nhàng dễ ưa trong truyện cùng tên; nàng Thanh Mai là con gái của người và hồ trong truyện cùng tên; nàng hồ li trong truyện “Nàng ba hoa sen” ( Hà hoa tam nương tử ). Các nhân vật phụ nữ là chồn : nàng Thanh Phượng trong truyện cùng tên vốn là một con chồn, cùng cô chú và người anh họ sống trong một căn nhà hoang củ một gia đình thế gia sa sút; người thiếu phụ là chồn hoá thân trong truyện “Con người quốc sắc”, nàng Nha Đầu trong truyện “Một nhà đĩ chồn” ( Nha Đầu ), nàng chồn tinh Kiều Na trong truyện “Mĩ nhân cứu mạng”( Kiều Na); người thiếu phụ là chồn hoá thân trong truyện “Con người quốc sắc” ( Mao Hồ ); cô Tân thứ Mười bốn trong truyện cùng tên         ( Tân thập tứ nương ); nàng Phong Tam Nương trong truyện “Háo sắc luỵ mình” ( Phong Tam Nương ); nàng Tề A Hà trong truyện “Báo ứng trước mắt” ( A Hà )

Loại “tinh hoa” như nàng Hoàng Anh trong truyện “Tinh cúc – nghề hoa” ( Hoàng Anh ) vốn là tinh cúc ( tinh của hoa cúc); cô gái nhan sắc xinh đẹp là tinh hoa mẫu đơn trong truyện “Yêu hoa đâu dễ biết hoa” (Cát Cân). Loại “tinh mộc” như  nàng Hương Ngọc là cây bạch mẫu đơn, Giáng Ngọc là cây nại đông trong truyện “Hương Ngọc”.

Nàng A Anh trong truyện “Tình nghĩa với chim” là chim anh vũ, Liên Hoa công chúa chính là công chúa của một “vương quốc ong” trong truyện “Kết duyên với ong” ( Liên Hoa công chúa ); cô gái có giọng hát khẽ như tiếng nhặng, váy dài mềm mại xinh xắn trong truyện “Cô gái áo xanh” chính là một con ong xanh; nàng Bạch Thu Luyện trong truyện cùng tên chính là một con cá ngựa trắng trong hồ; bà chúa Tây Hồ là một con thuồng luồng trong truyện cùng tên .

 Nàng Nhan Như Ngọc từ trong sách bước ra trong truyện “Mê sách”    ( Thư sĩ ); cô gái nhan sắc tuyệt trần, có tấm lòng nhân hậu trong truyện “Gái thần” ( Thần nữ ) ; nàng tiên nữ áo tím trong truyện “Con gái nhà trời” ( Bạch Vu Ngọc ); nàng Vân Thúy Tiên trong truyện “Duyên lỡ người tiên”    ( Vân Thúy Tiên ); nàng công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu mình nhẹ như trẻ thơ trong truyện “Lấy vợ công chúa” ( Vân La công chúa).

Ấn tượng đầu tiên của độc giả khi tiếp xúc với thế giới nghệ thuật kỳ ảo của Liêu trai là cả một thế giới nhân vật kỳ lạ, đặc biệt là hồ ly, yêu ma có nguồn gốc xuất thân kỳ dị nhưng lại mang bản chất người rất đậm. Hình tượng nhân vật kỳ ảo trong Liêu trai vô cùng phong phú, đa dạng có nguồn gốc xuất thân từ các loài khác nhau nhưng trong thế giới nhân vật kỳ ảo ấy thì hồ ly, chồn tinh và yêu ma xuất hiện nhiều nhất và thực sự trở thành tiếng nói nghệ thuật sâu sắc. Dù là hồ ly, hồn ma, chồn tinh hay tinh hoa, tinh mộc, ong, chim ,cá  . . .thì những hình tượng nhân vật có xuất thân kì ảo này luôn xuất hiện dưới “lốt” của các thiếu nữ xinh đẹp, có nhan sắc đẹp tuyệt trần. Hầu hết các nàng ma, nàng hồ, chồn tinh, tinh hoa, tinh mộc…. trong Liêu trai đều có một sức hấp dẫn bí ẩn toát ra từ dung nhan lộng lẫy, ma mị của mình. Nhan sắc xinh đẹp có phần kì ảo ấy đã làm đắm say những chàng công tử si tình, những anh học trò – nho sinh – nho sĩ chỉ trong lần đầu gặp gỡ.

Ma quỉ, hồ ly, chồn tinh  . . vốn có nguồn gốc từ quan niệm tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo vốn từ lâu đã tồn tại trong đời sống tinh thần của người dân. Quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo đó đã đi vào các sáng tác văn học một cách tự giác và không tự giác. Bồ Tùng Linh đã kế thừa và nâng vao chúng lên thành những hình tượng nghệ thuật có sức hấp dẫn, cuốn hút mới. Ma, hồ vì thế trở thành những ẩn dụ nghệ thuật, được xem là biểu tượng của cái đẹp, trở thành một phương tiện nghệ thuật. Không chỉ mang vẻ ngoài xinh đẹp của những thiếu nữ – vẻ ngoài của con người – mà các nhân vật có nguồn gốc xuất thân hư ảo, phi thực trong Liêu trai còn mang tính người rất đậm, rất “con người”, y như con người thật bởi vẻ đẹp tâm hồn bên trong, cách suy nghĩ, hành động, nói năng, có những số phận khác nhau với những khát khao yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp . .  . Đây là những điểm làm cho nhân vật hồ, ma của Bồ Tùng Linh gần gũi với con người.

 Trong hệ thống những nhân vật phụ nữ trần thực, đầu tiên có thể kể đến, đó là những tiểu thư xinh đẹp sắc nước hương trời, con nhà khuê các quyền quí. Chẳng hạn như : nàng Thụy Vân trong truyện cùng tên, một danh kỹ đất Hàng, nhan sắc và tài nghệ có một, lừng tiếng đã lâu, các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào cửa; nàng A Bảo, một cô gái tuyệt sắc  trong truyện “Cô Bảo”, đến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm; cô gái họ Huỳnh trong truyện “Vạn Lý Tầm Thu” ( Cung Mộng Bật ); cô gái con quan Thái Sử trong truyện “Con gái nhà trời”( Bạch Vu Ngọc ); cô Mười một họ Phạm con quan tế tửu trong truyện “Háo sắc lụy mình” ( Phong Tam Nương ); nàng Liên Thành – con gái yêu của ông cử nhân Hiếu Liêm trong truyện “Cắt thịt vì tình” ( Liên Thành ); cô con gái người Triết Giang cha làm quan Tư Mã trong truyện “Cái đầu kẻ thù” ( Hiệp nữ ). Hoặc có khi họ cũng chỉ là những cô con gái con nhà bình dân như người con gái tên Cừu Đại Nương đầy bản lĩnh trong truyện cùng tên; cô gái họ Mai trong truyện “Mai nữ”; nàng “sư tử Hà Đông” Giang Thành trong truyện “Vợ dữ hơn cọp”; nàng Thương Tam Quan tuổi vừa trăng tròn lẻ trong truyện “Gái báo thù cha”; nàng Kiều thị trong truyện “Xấu người đẹp nết” ( Kiều nữ ); nàng Mạnh Vân Nương xinh đẹp tuyệt trần trong truyện “Vương Quế Am”; nàng Canh Nương xinh đẹp hiền đức vợ của chàng Kim Đại Dụng trong truyện “Đào mả cô canh”( Canh Nương ); nàng Yên Chi –  con gái của một người làm nghề chữa bệnh cho trâu trong truyện “Vụ án tình si” ( Yên Chi )

Như vậy, dù những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai có nguồn gốc xuất thân kì lạ, hư ảo, phi thực hay có nguồn gốc xuất thân là những con người trần thực thì chúng ta cũng không cảm thấy có một sự khác biệt nào quá lớn lao giữa hai loại nhân vật này. Dù họ có là những cô nàng hồ ly, chồn tinh, tinh hoa, tinh mộc, ong, chim, cá hoá thân thành người hay những hồn ma chết yểu, chết oan  . . .. hoặc những cô tiểu thư con nhà thế gia, quan lại giàu có hay chỉ là con nhà bình dân có xuất thân hèn kém  . .  . thì không ai có thể phủ nhận một điều rằng, họ là những con người gần gũi hơn bao giờ hết, họ đều được miêu tả có một dung mạo và vẻ ngoài xinh đẹp và đi cùng với vẻ ngoài xinh đẹp ấy là vẻ đẹp bên trong của thế giới tâm hồn. Vẻ đẹp bên ngoài của họ ẩn chứa những vẻ đẹp bên trong.  Họ có những số phận khác nhau, không ít người có những số phận bất hạnh rất đáng thương. Và đặc biệt, nhà văn họ Bồ đã đem đến cho họ – những hình tượng nhân vật phụ nữ của Liêu trai – một sức sống mới, với việc khắc hoạ những nhân vật phụ nữ khao khát hạnh phúc, rạo rực những khát khao yêu đương và dám hi sinh, dám đấu tranh cho tình yêu.

2.      NHỮNG SỐ PHẬN PHỤ NỮ BẤT HẠNH  

Nàng Ngũ Thu Nguyệt trong truyện cùng tên  vô cùng xinh đẹp nhưng mệnh số không thọ, năm mười lăm tuổi, chết yểu, liền đào huyệt ở phía Đông gian gác của chàng Vương Đỉnh hiện thời mà chôn bằng, mộ không đắp nấm, cũng không có mộ chí, duy chỉ đặt bên quan tài một phiến đá, đề rằng : “Gái Thu Nguyệt, chết không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh”. Hay nàng Liên Toả xinh đẹp trong truyện cùng tên  mới mười bảy tuổi bỗng bị bạo bệnh chết đã hơn hai mươi năm, đêm đến hồn ma của nàng cứ ngâm nga mãi hai câu thơ sầu oán : “Gió lạnh xoay chiều giữa bóng đêm. Đóm bay trong cỏ, đậu lên rèm”. Nàng Chương A Đoan, cô gái xinh đẹp sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, hung dữ bất nhân đánh đập thẳng tay khiến nàng buồn rầu mà chết yểu, xác chôn trong khu nhà nọ trên hai mươi năm trong truyện “Cởi truồng rượt ma” ( Chương A Đoan ) hay nàng Vân Thuý Tiên trong truyện “Duyên lỡ người tiên”, vốn không phải là người phàm trần, vì nghe lời mẹ mà về làm vợ chàng Lương Hữu Tài, một kẻ ham mê cờ bạc rượu chè, chơi bời tráo trở, lại muốn bán vợ cho người ta để có tiền nhậu nhẹt cờ bạc; cô gái trẻ “chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người”, nguyên là con gái của một ông quan trấn nhậm ở đấy, bị chồn làm chết, xác chôn trong vườn được lũ chồn làm phép cho sống lại, cũng có khả năng biến hoá như chồn trong truyện “Vợ bé là chồn”. Thanh Mai –  cô gái xinh đẹp là con của người và hồ –  cô gái mồ côi, sống với chú, chú phóng đãng vô hạnh, đem bán nàng đi làm con hầu để kiếm lợi trong truyện cùng tên.

Nàng Ái Khanh trong truyện “Cô gái họ Mai” ( Mai nữ ) vốn là vợ kế của một tên quan Điển Sử, vì chồng nàng là một tên quan gian ác ăn của đút lót  hại người, cha mẹ dưới âm ty kêu xin cho hắn ta và phải đưa con dâu quí là nàng Ái Khanh vào lầu xanh để trả món nợ tham nhũng của hắn.

Hồn ma của cô gái họ Mai trong truyện “Mai nữ” mãi không siêu thoát được vì năm xưa nhà của nàng đang đêm bị một tên trộm lẻn vào, cô bắt được giải lên quan. Tên quan tham lam, độc ác bất nhân nhận tiền của tên trộm, vu cho nàng tội tư thông với tên trộm và toan bắt nàng lên tra khám. Nàng nghe tin thắt cổ chết. Về sau, hồn ma của nàng hiện về nhờ chàng Phong Vân Đình chặt cây xà ngang nơi nàng treo cổ khi xưa đem đốt đi.

Xinh đẹp, tài năng và giỏi giang, đáng ra họ phải là những người được hưởng hạnh phúc, thế nhưng họ phải chịu số phận bất hạnh. Họ gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống cũng có một nguyên do là xuất phát từ nguồn gốc xuất thân của họ : truyện “Tiểu Thúy”, khi biết rõ về nguồn gốc xuất thân của Tiểu Thuý và cũng do cái tính hay cười hay đùa lại có vẻ kì dị của nàng mà cha mẹ chồng sinh ra hiểu lầm rồi mắng nhiếc nàng thậm tệ khiến nàng Tiểu Thuý đáng thương buồn tủi mà bỏ đi. Sự khác biệt về loài giữ một bên là người và một bên là hồ, chồn tinh , hồn ma  . . . chính là một trong những nguyên nhân khiến cho họ không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn mà phải chia lìa mỗi người mỗi ngả. Kết thúc các câu truyện, hình ảnh những người phụ nữ ôm con ra đi hoặc để lại cho người chồng một đứa con còn ẵm bồng trên tay mà ra đi mãi không trở lại khiến cho người đọc không khỏi bùi ngùi cảm thương. Câu truyện “Phòng Văn Thục” kể về cô gái tên là Phòng Văn Thục nhan sắc tuyệt đẹp nhưng không phải là người, cảm mến chàng Đặng làm nghề chép thuê ở nhờ trong một ngôi chùa nọ. Cầm sắt hoà hợp dài lâu, nàng sinh cho chàng Đặng một đứa con trai, nhưng một đêm nàng bế con ra đi, mãi biệt tăm không thấy nàng quay trở lại. Nàng A Tiêm, vợ của chàng ba trong truyện ngắn cùng tên phải chịu những lời xì xầm bàn tán của những người trong gia đình chồng vì nàng không phải là người, họ đều cho nàng là yêu quái khiến nàng vô cùng đau buồn, lấy cớ về chăm sóc mẹ già bị bệnh rồi đi hơn một năm, vắng bặt tin tức. Truyện “Tình nghĩa với chim” ( A Anh ) kể về nàng A Anh – một con chim anh vũ – về làm vợ cậu Giác, rồi bị người anh chồng nghi ngờ mình là yêu tinh, nàng nói rõ mọi sự rồi bay đi mất. Hay như câu chuyện tình buồn thương của một nàng ma xinh đẹp tên là Công Tôn Cửu Nương trong truyện “Một đêm lấy ma” và chàng học trò người huyện Lai Dương. Âm dương cách trở, dù có duyên với nhau cũng không thể gắn bó lâu dài, chàng phải trở về cõi trần thế rồi từ đó không có dịp gặp lại nàng Cửu Nương nữa.

 Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai luôn khát khao hạnh phúc, khát khao yêu thương, yêu và được yêu, họ mong muốn cùng người yêu hưởng hạnh phúc trọn vẹn, gắn bó dài lâu nhưng vấp phải sự cản ngăn của những bậc cha chú trong gia đình – những kẻ đại diện cho lễ giáo phong kiến – nên đôi lứa phải chia lìa. Những mối tình tự do, những mong muốn tự chủ trong hôn nhân luôn bị vấp phải những rào cản. Thật là đau xót biết bao cho những mối tình tuyệt đẹp. Như câu chuyện về mối tình của chàng Tương Như và cô gái láng giềng tên là Hồng Ngọc trong truyện “Hồng Ngọc”, hai người lén lút qua lại với nhau, được nửa năm thì cha chàng Tương Như biết được, la mắng cho như vậy là làm nhơ nhuốc gia phong, là việc làm đáng xấu hổ. Nàng Hồng Ngọc chảy nước mắt mà nói rằng : “Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được?”. Hai người vì thế mà đành phải xa nhau. Cũng giống như mối tình của chàng Tương Như và Hồng Ngọc là mối tình của chàng Cảnh Khứ Bệnh và nàng Thanh Phượng trong truyện “Thanh Phượng”. Nàng Thanh Phượng vốn là một con chồn, cùng cô chú và người anh họ sống trong một căn nhà hoang của một gia đình thế gia sa sút. Chàng Cảnh Khứ Bệnh là cháu của gia đình thế gia ấy, vì tò mò, hiếu kì mà đến khu nhà nọ. Tình cờ chàng ta gặp và tương tư nàng Thanh Phượng xinh đẹp rồi lân la dọn đến ở khu nhà đó. Chàng muốn cùng nàng Thanh Phượng sớm tối bên nhau nhưng bị ông chú của nàng cản ngăn, cho như vậy là làm nhơ nhuốc danh giá của gia đình nên hai người đành phải chia lìa nhau. Tác giả đã công khai lên án lễ giáo phong kiến cản trở tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ : dưới ngòi bút có khuynh hướng yêu ghét rõ rệt, người đọc cảm nhận được sự bất bình của tác giả trước lời mắng chửi Thanh Phượng của ông chú Nho học, trước sự cản ngăn của ông chú đối với nàng Hoa Cô Tử  trong truyện cùng tên.

Bên cạnh sự cản ngăn của những người đại diện cho lễ giáo phong kiến, việc sinh con nối dõi cho chồng cũng là một trong những nguyên do khiến cho những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân. Duyên đôi lứa đang mặn nồng, tình cảm vợ chồng vô cùng thắm thiết nhưng nàng Tiểu Thúy trong truyện cùng tên vô cùng buồn phiền vì mình không thể sinh con cho chàng Nguyên Phong nên đã lo toan cưới vợ khác cho chồng, còn nàng thì đã quyết định ra đi mãi mãi.

 Những thiên truyện ngắn viết về những nhân vật phụ nữ xinh đẹp, tài hoa, có phẩm chất tốt đẹp nhưng lại có số phận bất hạnh, không được hưởng hạnh phúc có giá trị tố cáo, phê phán những bất công trong xã hội, cái xã hội  không cho con người được sống hạnh phúc mà những người phụ nữ bao giờ cũng là những nạn nhân đáng thương nhất trong xã hội.

3. NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA NHÂN VẬT PHỤ NỮ

      3.1. NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ XINH ĐẸP, TÀI NĂNG, GIỎI GIANG VÀ SỐNG CÓ TÌNH NGHĨA, CÓ BẢN LĨNH

Dù là ma hay là người, là hồ ly hay tiên nữ . . .thì tất cả các nhân vật phụ nữ trong Liêu trai đều được miêu tả có dung mạo xinh đẹp. Do đặc điểm về thể loại, các câu truyện trong Liêu Trai có dung lượng gói gọn chỉ trong một thiên truyện ngắn nên việc miêu tả sắc đẹp của những nhân vật phụ nữ cũng có phần hạn chế, có phần sơ lược chứ không được tỉ mỉ như thiên tiểu thuyết có dung lượng nhiều hơn như tiểu thuyết trường thiên chẳng hạn. Những câu văn miêu tả sắc đẹp của các thiếu nữ trong Liêu trai rất ngắn gọn với vài nét vẽ ước lệ đơn sơ : nàng Thụy Vân vô cùng xinh đẹp, A bảo – cô gái tuyệt sắc, vẻ xinh tươi yểu điệu có một không hai, nàng Anh Ninh nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được, nàng Ngũ Thu Nguyệt tuổi vừa mười bốn mười lăm, thùy mị tình tứ, có vẻ đẹp như tiên, nàng Tiểu Thúy khi nhoẻn miệng cười thì thật là tươi xinh, thật là phẩm tiên, nàng Thanh Phượng dáng liễu yêu kiều, làn thu ba lóng lánh, trên đời dễ không ai đẹp bằng, nàng Hoa Cô Tử nhỏ tuổi mà xinh đẹp như tiên, thiếu phụ Phòng Văn Thục nhan sắc tuyệt đẹp, cô Tư họ Hồ mặt đẹp như tiên, nàng Thanh Mai có vẻ người thanh tú giống hệt như mẹ, nàng Bạch Thu Luyện tuổi mười lăm mười sáu, đẹp nghiêng thành, nàng ong áo xanh váy dài mềm mại, xinh xắn không ai sánh được, A Tiêm tuổi chừng mười sáu mười bảy, vô cùng xinh đẹp, nàng Kiều Na mới mười ba mười bốn tuổi, vẻ hoa lộng lẫy, vóc liễu thướt tha, nàng Nha Đầu mới mười bốn tuổi, có vẻ đẹp thần tiên, nàng Phiên Phiên có dung mạo như tiên . . .  

Nhưng không chỉ xinh đẹp mà  họ còn là những người phụ nữ vừa có sắc vừa có tài. Đó là nàng Lâm Tứ Nương trong truyện cùng tên, không chỉ xinh đẹp mà nàng lại còn rất giỏi âm nhạc, thường hay hát những khúc hát thê lương làm người nghe bùi ngùi cảm thương. Truyện “Bạch Thu Luyện” kể về một cô gái vốn là con cá ngựa trắng sống trong hồ rất am hiểu chữ nghĩa.   Nàng Liên Toả trong truyện ngắn cùng tên rất thích đọc sách, vô cùng thông minh linh lợi, am hiểu về thơ từ, cùng đàm đạo thơ văn với chàng học trò Dương Vu Uý. Nàng thường ngồi dưới đèn chép sách cho Dương, nét chữ mềm mại và ngay ngắn, lại tự chọn một trăm bài từ trong cung ( những bài thơ chuyên  vịnh các việt lặt vặt trong cung cấm, nhất là về số phận người cung nữ) chép riêng ra để đọc. Nàng bảo Dương sắm bàn cờ, mua đàn tì bà, mỗi đêm thường dạy Dương đánh cờ, nếu không chơi cờ thì dạo khúc “Tiêu song linh vũ” buồn đến não lòng hoặc chuyển qua chơi khúc “Hiểu uyển oanh thanh” làm tâm hồn con người ta bất giác trở nên thanh thản.

Nhưng có lẽ cái tài của các nàng thiếu nữ xinh đẹp trong Liêu trai xếp vào hàng kiệt xuất bậc nhất thì phải kể đến người con gái mồ côi họ Nha, dòng dõi của một nhà học giỏi, vợ của anh chàng Mỗ đần độn trong truyện “Vợ thi hộ chồng” (Nhan thị ). Khi người cha còn sống thường dạy nàng học, chỉ đọc qua một lượt là nhớ thuộc lòng, ngoài mười bốn tuổi đã học làm thơ. Người cha nói : “Nhà ta có nữ học sĩ tiếc không được đội mũ thôi”. Nàng giỏi giang, xinh đẹp nhưng lấy phải anh chồng đần độn, mười bảy tuổi đầu mới viết chữ thành hàng lối. Thấy văn của chồng làm, nàng phì cười và từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học. Tối đến, nàng châm đèn ngồi, tự cất tiếng ê a đọc trước để làm gương cho chồng. Dạy chồng được hơn một năm, văn chương thi cử của chàng đã hơi thông nhưng đi thi khoa nào cũng rớt. Nàng nói rằng : “Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng. Nếu để cho tôi bỏ khăn yếm, thay đổi làm con trai thì tôi coi sự thi đỗ dễ như trò chơi vậy.” Nói là làm, nàng cải trang thành nam nhi đi thi hộ chồng rồi đậu số một trong kì thi hạch tại tỉnh, rồi thi hương đậu cử nhân thứ tư, qua năm sau đậu luôn tiến sĩ. Triều đình bổ đi tri huyện, cai trị giỏi giang nên lần hồi được lên chức Chưởng ấn Ngự sử, giàu có ngang bậc vương hầu. Trong một xã hội phong kiến vốn trọng nam khinh nữ như thời đại của Liêu trai thì hình ảnh những thiếu nữ thông minh, xinh đẹp, tài năng lướt cả bậc nam nhi  như cô gái họ Nha đã khẳng định những khả năng của người phụ nữ. Họ không chỉ là những cô gái xinh đẹp giỏi thêu thùa may vá, đàn ca, nội trợ, họ không phải là bậc nữ nhi thường tình mà trong nghiệp khoa cử, họ chẳng kém cạnh các đấng nam nhi là mấy !

Họ còn là những mỹ nhân thể hiện sự hài hoà giữa vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn. Vẻ đẹp hình thức của họ luôn được chiếu sáng bởi vẻ đẹp tuyệt vời của tâm hồn. Họ không chỉ có sắc, có tài mà còn sống có tình có nghĩa. Nàng Tề A Hà trong truyện “Báo ứng trước mắt” vốn là chồn hoá thân, có dung mạo xinh đẹp, muốn nương tựa vào chàng Cảnh sinh vì biết chàng được ghi tên vào bảng vàng. Nhưng vì chàng Cảnh sinh phụ rẫy người vợ của mình một cách tàn nhẫn để đến với A Hà nên bị thần thánh xử phạt rút tên ra khỏi bảng vàng. Biết Cảnh sinh là con người phụ tình, nàng A Hà đã lấy chàng Trịnh là người thi đậu khoa thi năm ấy. Cảnh thì gia đạo sa sút, phải ăn nhờ ở đậu bạn hữu, có lần ngẫu nhiên đến nhà Trịnh, nàng A Hà động lòng thương khuyên chồng giúp cho y manh quần tấm áo lại đem hơn hai mươi đồng của riêng nàng để dành ra giúp cho chàng để đền đáp nghĩa cũ, lại khuyên chàng tìm lấy một người tử tế làm vợ rồi sau này mở mày mở mặt cho con cháu mai sau.

 Sống có tình, có nghĩa, họ rất coi trọng chữ “tín”, chẳng hạn như cô con gái họ Huỳnh trong truyện “Vạn Lý Tầm Thu” ( Cung Mộng Bật ) và cô con gái con quan Thái Sử trong truyện “Con gái nhà trời” ( Bạch Vu Ngọc ). 

Cô con gái họ Huỳnh vì gia đình đã  có lời hứa gả  cho chàng  Hoà nhà họ Liễu, nay  gia cảnh nhà Hoà trở nên sa sút mà cha mình tuyệt Hoà không muốn gả nữa, nàng  cho thế là quấy, khuyên cha mẹ mình không được khinh bỏ người ta. Hai ông bà không nghe, sau đó nhà họ Huỳnh bị cướp, gia cảnh sa sút, hết cả của cải. Hai ông bà vì ham tiền mà ép gả nàng cho nhà người ta. Nàng bỏ nhà, giả dạng ăn xin trốn đi, tìm đến nhà Hoà, về làm vợ chàng Hoà nghèo khó nhưng sống rất đầm ấm và hạnh phúc. Còn cô con gái quan Thái Sử thì chỉ vì một lời hứa làm vợ chàng Ngô Lang mà nguyện thuỷ chung, một mực không chịu làm vợ người khác. 

Kiều thị, người phụ nữ “xấu người đẹp nết” trong truyện “Kiều nữ” có tấm lòng nhân hậu, sống rất có tình, có nghĩa. Kiều thị vừa đen vừa xấu, khuyết mũi, thọt chân, về làm vợ kế của chàng họ Mục goá vợ, nhà nghèo. Sau khi sinh con trai ít lâu thì Mục chết, Kiều thị ở vậy chịu cực khổ nuôi con, quyết giữ chữ Đức, không muốn mang tiếng là thờ hai chồng nên từ chối lời hỏi cưới của chàng Mạnh goá vợ trong làng. Sau Mạnh bệnh chết, Kiều thị nhận nuôi đứa con nhỏ dại của Mạnh, coi nó như con ruột, lại giúp lấy lại tài sản cho Mạnh khỏi rơi vào tay bọn vô lại trong thôn. Khi Kiều thị chết đi, đứa con muốn hợp táng bà với ông Mạnh nhưng không được, sau phải hợp táng chung với phần mộ của ông Mục.

Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai còn có tấm lòng nhân hậu, thương người, giàu lòng hi sinh. Như nàng Hồng Ngọc trong truyện cùng tên, nhặt bé Phúc Nhi mang về nuôi nấng và xem nó như là con ruột của mình.( bổ sung) Hay như cô tiểu thư nhan sắc đẹp tuyệt trần  trong truyện “Gái thần” ( Thần nữ ), là con gái của ông cụ họ Phó nhà cửa giàu có, là bậc thế gia, vì cảm thương cho anh chàng thư sinh họ Mễ vướng phải tai ương mà gia sản bị tiêu tán hết, áo mũ nho sinh không lấy lại được cho nên khó khăn cho việc thi cử mà tặng cho chàng một đoá hoa bằng ngọc trai, sau lại còn giúp tiền cho chàng đi thi.

Những nhân vật phụ nữ giàu lòng hi sinh như nàng Hoa Cô Tử trong truyện cùng tên vì cứu chàng An mà tổn thất hết bảy phần sự nghiệp , trăm năm không được lên tiên. Hay như Trần thị – vợ của chàng thư sinh họ Vương trong truyện “Bộ da vẽ” ( Họa bì), chồng nàng bị một con quỷ nanh ác, mặt xanh lét, răng chơm chởm như răng cưa, khoác tấm da người có vẽ đầy đủ mắt mũi tay chân hãm hại, moi ruột mà chết. Nàng mời đạo sĩ về tiếp tục trừ diệt yêu nghiệt, rồi theo lời đạo sĩ, chịu bao nhiêu là khổ nhục, phải nuốt đờm dãi hôi thối của người điên ở chợ để cứu chồng sống lại nhờ vậy mà có được trái tim cứu chồng sống lại.

Ngoài những phẩm chất tốt đẹp trên, nhân vật phụ nữ trong Liêu trai còn có tấm lòng rất thủy chung. Như người thiếp họ Hà trong truyện “ĐạiNam”. Khi chồng bỏ đi, nàng ở nhà bị Thân thị – người vợ kế – ức hiếp, bắt phải tái giá. Hà ý chí không chút lung lay. Lại bị ép bán cho một lái buôn, đến đêm Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn lại đem bán cho một người khác, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng.

 Cái tình ở đây cũng bao gồm cả tình bạn. Đó là tình bạn giữ Phong Tam Nương và cô Mười Một họ Phạm trong truyện “Háo sắc lụy mình”           ( Phong Tam Nương ). Hai người là đôi bạn tri kỉ rất tâm đầu ý hợp, tình cảm quyến luyến không muốn rời. Nàng Phong Tam Nương có tài nhìn người mà đoán trước hậu vận về sau, biết được chàng tú tài Mạnh An Nhân về sau sẽ đỗ đạt nên muốn xe duyên cho cô Mười Một. Rồi Phong Tam Nương dùng đủ mọi cách để ra sức vun vén cho mối lương duyên này : gia đình cô Mười Một ép gả cô cho một ông quan nọ mà  không đồng ý gả cho chàng Mạnh vì gia cảnh của chàng quá nghèo. Hôm trước ngày cưới cô Mười Một đã tự vẫn, Phong Tam Nương dùng phép thuật giúp cho cô Mười Một được hồi sinh nhờ vậy cuộc nhân duyên mới thành. Tình bạn giữa Phong Tam Nương và cô Mười Một là tình bạn giữa chồn tinh và người, một tình bạn khác loài thân thiết không thua gì tình bạn giữa người và người!

Trong “Liêu trai chí dị”, bên cạnh những nhân vật phụ nữ nhân hậu, ta còn thấy xuất hiện nhiều hình tượng nhân vật phụ nữ sống rất bản lĩnh. Truyện “Cái đầu kẻ thù” ( Hiệp nữ ) nói về cô gái người Triết Giang, cha làm quan tư mã, bị kẻ thù hãm hại, tịch thu ráo cửa nhà sản nghiệp. Nàng dẫn mẹ già đi trốn, mai danh ẩn tích ba năm trời. Khi mẹ già qua đời, nàng đã ra tay chặt đầu kẻ thù báo thù cho cha.

Có nội dung tương tự như câu chuyện “Hiệp nữ” kể trên là câu chuyện của cô gái Tam Quan báo thù cho cha trong truyện “Gái báo thù cha”               ( Thương Tam Quan). Tam Quan nhất định không chịu tiến hành đám cưới chạy tang vì cho như vậy là không hiếu thuận với người cha vừa qua đời. Tang cha vừa xong, ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Thì ra nàng đã cải trang thành nam nhi xin vào một gánh hát để có dịp tiếp cận tên quan huyện hào đã giết hại cha mình khi xưa trong dịp lễ mừng thọ của hắn. Tam Quan báo thù được cho cha xong thì cũng thắt cổ tự vẫn.

Canh Nương, một cô gái xinh đẹp và hiền đức, vợ của chàng Kim Đại Dụng trong truyện “Đào mả cô canh”( Canh Nương ), cả gia quyến đều bị tên họ Vương hãm hại, nàng may mắn còn sống sót và một tay giết Vương trả thù cho chồng rồi nhảy xuống giếng tự tử. Sau nàng được hồi sinh, được đoàn tụ cùng người chồng cũng may mắn sống sót.

Nàng Đại Nương trong truyện “Cừu Đại Nương” giỏi giang và đầy bản lĩnh khi một tay nàng lo toan tất cả để hoá giải hoạn nạn cho gia đình, giúp hai em trai tìm lại được hạnh phúc, lại lo chu tất kinh tế cho gia đình, hiếu thảo với người mẹ kế. Nhờ sự khôn ngoan và tài trí của Đại Nương mà mọi âm mưu gian ác của  tên vô lại trong làng đều bị thất bại.

   Những nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị” dù họ có là những người phụ nữ sống nơi trần thế hay chốn diêm gian, đều một lòng một dạ chống áp bức, bảo vệ quyền lợi chân chính, hướng vọng cuộc sống tự do tự tại. Những người phụ nữ đó là hiện thân của hồ tinh biến thành người hoặc người biến thành hồ tinh thì tinh thần đấu tranh của họ trước sau vẫn là một. Họ dũng cảm tấn công vào thế giới hiện thực, đấu tranh kiên quyết với thế lực tàn ác.Ví như người con gái họ Vệ trong chuyện “Hồng ngọc”,  vợ của chàng Tương Như. Nhân ngày tết thanh minh, nàng bế con đi thăm mộ và bị tên thân hào họ Tống trong ấp giương oai hà hiếp bắt ép nàng về định làm nhục, nàng nhất định không chịu khuất mà chết .

        3.2 KHÁT KHAO HẠNH PHÚC, DÁM ĐẤU TRANH CHO TÌNH YÊU

Trong Liêu Trai có rất nhiều truyện nhiệt tình ca ngợi những mối tình đẹp đẽ giữa người và hồ ly, chồn tinh, hoa tinh, mộc tinh. . .., đó là những mối tình kiên trinh trong sáng và trong những câu chuyện này, tác giả đã khắc họa nhiều hình tượng phụ nữ có dung mạo xinh đẹp, tâm hồn trong trắng và đặc biệt là họ xem nhẹ lễ giáo phong kiến, thẳng thắn bày tỏ tình yêu, nỗ lực đấu tranh cho tình yêu, theo đuổi tự do luyến ái, tự chủ trong hôn nhân, mong muốn khẳng định vị trí của người phụ nữ.

 Trong đời sống tình yêu hầu hết họ đều có thái độ chủ động, hoặc thơ ngây chất phác, hoặc giả dối nhiều mưu trí, hoặc yếu đuối dịu dàng, nhưng đại để đều rất giàu sinh khí, dám theo đuổi sự thoả mãn về tình cảm hoặc hạnh phúc trong đời sống, ít bị lễ giáo trong nhân gian trói buộc.

Nàng Nha Đầu trong truyện “Một nhà đĩ chồn “ ( Nha Đầu ) mới mười bốn tuổi đã có vẻ đẹp thần tiên, không phải là người mà là chồn. Cô là con gái út của một bà chủ nhà chứa, bọn vương tôn quí khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu nên thường bị mẹ đánh đập khốn khổ. Không tham giàu sang, không màng tiền của của bọn vương tôn, khách quí, nàng Nha Đầu chỉ cảm động trước tấm chân tình thành thực của chàng học trò nghèo Vương Văn. Nàng Nha Đầu đã dám yêu một chàng học trò nghèo và đã dám đấu tranh để bảo vệ tình yêu ấy : nàng cùng chàng Vương bỏ trốn đến một nơi khác, sống một cuộc sống bình dị và hạnh phúc. Khi bị bà mẹ đến bắt đem về và ép gả cho người ta, nàng thề chết chứ không lấy hai chồng nên bị giam giữ trong tù ngục. Kiên quyết đấu tranh cho tình yêu, bất chấp sự ngăn cấm, răn đe của ông chú cay nghiệt, nàng Thanh Phượng trong truyện cùng tên quyết giành cho kỳ được quyền chủ động trong tình yêu và hôn nhân.

Câu chuyện về nàng tiên nữ Phiên Phiên trong truyện “Mặc áo lá cây”, tác giả đã miêu tả người tiên nữ tên gọi Phiên Phiên, có thể dùng lá vàng để biến thành áo gấm. Mỗi khi tình lang của mình có người yêu khác, nàng bèn lẳng lặng biến y phục của người tình lang trở thành những chiếc lá vàng, khiến chàng ta bị mất mặt với người tình riêng.  

Nàng Thụy Vân trong truyện cùng tên, một danh kỹ của đất Hàng, nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi vừa mười bốn, mẹ là mụ dầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách, Thụy Vân thưa rằng : “Đây là lúc bánh xe đời con bắt đầu vần chuyển, không nên qua loa cẩu thả. Giá do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn”. Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách. Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu được tiếp một ván cờ, và biếu trả lại một bức vẽ, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi. Thụy Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí ngày ngày nối gót nhau vào cửa. Tài sắc đủ cả, tiếng tăm lừng lẫy, nàng Thụy Vân muốn tự lựa chọn người yêu cho mình, giữa đám vương giả lắm tiền nhiều của ngày ngày nối gót vào cửa kia, nàng chỉ cảm mến chàng thư sinh Trần Dư họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. Đến lúc gặp mặt, nàng tiếp đãi rất mực ân cần, ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan  tình ý. Lại còn tặng cho chàng một bài thơ và ngỏ ý muốn cùng chàng sum họp. Sau đó, nàng kén rể mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng, thật ra trong lòng nàng đã chọn chàng Hạ rồi, nên còn kén chọn chi nữa!

Có thể thấy rằng những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai, trong tình yêu, họ có một thái độ hết sức chủ động, họ muốn tự lựa chọn cho mình người yêu và khi đã yêu thì họ quyết tâm đấu tranh đến cùng để bảo vệ tình yêu ấy.

Tình yêu mãnh liệt đã giúp họ phá bỏ những lao tù phong kiến, họ tự nguyện trao thân cho người mình yêu,  thái độ có khi hết sức chủ động.

Chẳng hạn như truyện “Nghĩa khí cải hoá hồn ma” kể về nàng Nhiếp Tiểu Thiện, thấy chàng Ninh Thái Thần quang minh lỗi lạc, cả trời và người đều khâm phục nên muốn nương tựa. Không chỉ có nàng Tiểu Thiện mà những nàng ma, hồ, tinh hoa, tinh mộc . . .trong Liêu trai hầu hết đều chủ động tìm đến những chàng nho sinh, những chàng công tử. Vào một đêm trăng thanh vắng, nơi nhà học thanh tĩnh, các nàng hiện ra với dung nhan tuyệt đẹp,  với sức quyến rũ đến mê hồn khó mà cưỡng lại được. Họ tình nguyện trao thân cho người yêu. Những hành động “vượt rào” của họ khiến cho những nhà Nho khắc kỉ đã dựa vào đó mà đánh giá Liêu trai là dâm, là buông thả.

 Họ mến nhau vì sắc, trọng nhau vì tài chứ không phải vì bất cứ một thứ gì khác như gia thế hay tài sản.Những người phụ nữ ấy, họ không tham giàu sang phú quí mà chỉ coi trọng chữ tình, coi trọng chữ nghĩa. Như nàng A Bảo, cô gái tuyệt sắc trong truyện cùng tên, con gái nhà thế gia giàu lướt cả vương hầu, thông gia họ mạc đều là dòng dõi quí phái. Đến tuổi nàng kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ. Ấy vậy mà chàng Tôn có ngón tay chẽ goá vợ nghèo khổ lại cậy mối đến hỏi. Chàng Tôn si tình chỉ vì một câu nói đùa cợt của nàng A Bảo : “ Nếu chàng bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay” mà lấy búa chặt phăng ngón tay của mình suýt chết lại còn hồn lìa khỏi xác bay đến nơi nàng A Bảo. Nàng A Bảo cảm cái thâm tình của chàng Tôn mà nhận lời về làm vợ chàng. Vậy mới thấy cái thâm tình chân thật mới là đáng quí, phải đâu cứ phải cao sang quyền quí, danh gia vọng tộc.

Cũng giống như nàng A Bảo, nàng Bạch Thu Luyện trong truyện cùng tên, vốn là một con cá ngựa trắng trong hồ, nhan sắc vô cùng xinh đẹp lại am hiểu chữ nghĩa, Long Quân muốn tuyển nàng làm phi tần, nàng không chấp thuận mà đem lòng quyến luyến chàng thư sinh họ Mộ có giọng ngâm thơ thanh tao.

Dù cho người yêu của họ có là những anh chàng nho sinh nghèo kiết xác chứ không phải là những chàng công tử nhà thế gia, thì họ vẫn yêu mà không màng đến gia cảnh. Trong tình yêu, có khi họ – những người phụ nữ – lại là người chủ động. Họ cảm mến những chàng nho sinh bần hàn nhưng có tài thơ văn, có giọng ngâm thơ thanh tao như nàng Liên Thành trong truyện “Cắt thịt vì tình” ( Liên Thành ). Nàng là con gái yêu của ông cử nhân Hiếu Liêm, cảm mến tài thơ của chàng Kiều sinh mà đem lòng yêu dấu. Nhưng gia đình chàng quá nghèo mà cuộc tình duyên bị ngăn trở. Nàng Liên Thành đã hứa hả cho nhà họ Vương. Nàng u uất mà chết đi trước khi được gả cho nhà họ Vương. Cuối cùng, với tấm lòng tình yêu chân thật, hai người đã đến được với nhau hay nàng Bạch Thu Luyện trong truyện cùng tên, vì nghe giọng ngâm thơ thanh tao của chàng thư sinh họ Mộ mà đem lòng quyến luyến, bỏ cả ăn ngủ, muốn kết mối lương duyên.

Lễ giáo phong kiến không thừa nhận trai gái có quyền quyết định việc “chung thân đại sự” mà phải do các bậc gia trưởng “quyền huynh thế phụ”. Hôn nhân phong kiến về hình thức phải “có lệnh cha mẹ, có người đến mối lái” nhưng trong cốt tuỷ là chú trọng gia thế sang, hèn, tiền của nhiều hay ít, không kể đến hai bên nam nữ có thực sự yêu nhau hay không. Địa vị gia thế của những nàng tiểu thư con nhà giàu trong Liêu trai và những chàng thư sinh nghèo kiết xác không cho phép họ yêu nhau nhưng họ vẫn yêu, yêu say đắm, thắm thiết và kiên quyết đấu tranh để đến được với người mình yêu. Họ coi khinh trật tự xã hội phong kiến, giữ trọn mối tình trong trắng, chung thủy. Họ không hề tính toán so đo, bất chấp quan niệm môn đăng hộ đối, tự phó cho mình sứ mệnh lựa chọn người yêu. 

 Một khía cạnh nữa thể hiện sự khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương của những nhân vật Liêu trai, đó là những nhân vật phụ nữ dù họ có là hồn ma bóng quế, là ma quỉ nơi cõi âm thì họ vẫn luôn khao khát được trở về chốn dương gian, được hoàn hồn, đầu thai, thác sinh  . . . để có được tình yêu say đắm với con những con người trần thế. Họ phải vượt qua bao nhiêu là khó khăn trở ngại để đạt được ước muốn của mình.  Không bằng lòng an phận ở thế giới diêm gian, bằng trăm phương ngàn kế, họ trở về với hiện thực, theo đuổi hạnh phúc tình yêu. Như nàng Bạch Thu Luyện trong truyện cùng tên, không muốn làm thứ phi của Long Vương ở dưới đáy bể, tìm cách trở về với nhân gian rồi nghe giọng ngâm thơ thanh tao của thư sinh họ Mộ mà đem lòng quyến luyến, muốn kết mối lương duyên cùng chàng. Hồn ma nàng Liên Toả mãi vương vấn nơi cõi trần rồi nàng tình cờ gặp gỡ chàng Dương, trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, cuối cùng nàng cũng được trở lại kiếp người, cùng Dương chung sống hạnh phúc.  Hồn ma, yêu tinh của cá khao khát được làm người thì chị em Hương Ngọc và Giáng Tuyết, tinh mộc của cây bạch mẫu đơn và cây nại đông trong vườn của nhà thư sinh họ Hoàng cũng hoá thân thành người và có dung mạo của những nàng thiếu nữ xinh đẹp. Tình yêu quấn quít của họ và chàng thư sinh họ Hoàng thật là cảm động, đến khi chàng ta chết đi, hoá thành một cái mầm đỏ mọc cạnh gốc mẫu đơn và cây nại đông. Nếu có cơ hội, họ luôn tìm cách để được đầu thai trở lại kiếp người vì chỉ có sống kiếp người thì mối tình của họ với những chàng nho sinh mới có thể lâu dài bởi những mối tình khác kiếp thường hay đau khổ và đầy bất hạnh. Như cô gái họ Mai, nàng Chương A Đoan trong những truyện ngắn cùng tên, hai nàng ma là Thu Dung và Tiểu Tạ trong truyện “Lớp học ma” ( Tiểu Tạ ), nàng Nhiếp Tiểu Thiện trong truyện “Nghĩa khí cải hoá hồn ma”.

Trong Luận án thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Bích Dung “Hệ thống nhân vật phụ nữ đẹp trong tiểu thuyết Trung Hoa”, Đại học sư phạm Hà Nội, 1997, tác giả đã xác định tiêu chí để phân loại hệ thống nhân vật phụ nữ đẹp  là  quan niệm của Thang Hiền Tổ ( nhà viết kịch tài ba, đại biểu tích cực của phong trào đòi giải phóng cá tính đời Minh ). Theo đó, dùng hai chữ “lý” và “tình” để làm tiêu chí phân loại. “Lý” chỉ những quan niệm đạo đức phong kiến lấy lý học Trình –Chulàm cơ sở, đó là những giáo lý phong kiến và sự ràng buộc của các thế lực phong kiến đối với thể xác và tinh thần của con người, đặc biệt là người phụ nữ. “Tình” chính là tình cảm chân chính tự nhiên của con người mà rõ nhất là sự theo đuổi tình yêu, hạnh phúc  tự do của phụ nữ. Tình là cái gì không thể lấn áp được, không thể tiêu diệt được, không thể chiến thắng được và cũng không thể dùng cái lý để giải thích được. Tác giả đã chia hệ thống nhân vật phụ nữ đẹp trong tiểu thuyết Trung Hoa thành hai tiểu hệ thống : một nhóm nhân vật phụ nữ đẹp đại diện cho chữ “lý” và một nhóm nhân vật phụ nữ đẹp đại diện cho chữ “tình”. Ở đây, dựa theo căn cứ phân loại ấy, chúng ta có thể xếp hệ thống nhân vật phụ nữ trong “Liêu trai chí dị” vào tiểu hệ thống nhân vật phụ nữ đẹp đại diện cho chữ “tình”. Cũng giống như các nàng Trác Văn Quân, Thôi Oanh Oanh, Đỗ Lệ Nương . . . những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai đều là những thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp, tài hoa nhưng họ không còn muốn  tùy phận theo thời, uốn mình trong bốn bức tường chật hẹp của đạo đức, lễ giáo phong kiến mà họ luôn nỗ lực đấu tranh cho tình yêu, khát khao tình yêu tự do. Bồ Tùng Linh đã để cho những nhân vật phụ nữ của mình  bộc lộ những rạo rực trong yêu đương, những khát khao đôi lứa nóng bỏng . . .khiến cho không ít nhà Nho khắc kỉ trước kia cho Liêu trai là dâm, là buông thả. Kỳ thực, ở chỗ này, Liêu trai có cái nhìn gần với tiểu thuyết hiện đại khi mà tâm lí yêu đương được miêu tả đầy đủ, chi tiết và chân thực chứ không phải bằng những ước lệ có sẵn. Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai, họ là những con người biết sống đúng với tình cảm chân thật, tự nhiên và ít bị ràng buộc vào những quy tắc, lễ nghĩa, đạo đức phong kiến, họ theo đuổi những tình cảm, những khát khao tự nhiên của con người. Với tư tưởng dân chủ, họ dám đấu tranh cho tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Họ chủ động tấn công vào thành trì lễ giáo phong kiến để giành lấy cuộc sống lứa đôi tốt đẹp.

Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một điều rằng, khi mà giai cấp phong kiến còn là một chế độ ưu việt so với xã hội xuất hiện trước nó ( chế độ nông nô ) thì hệ tư tưởng của nó có một giá trị thiêng liêng cao cả, là cái đích cao đẹp mà con người trong cái xã hội ấy luôn muốn vươn tới. Càng về sau, khi mà giai cấp phong kiến càng bộc lộ rõ bộ mặt xấu xa, trật tự xã hội bị đảo lộn, thì những gì từ xưa được coi là mẫu mực nay đã bị lung lay, thật giả lẫn lộn. Những mẫu người trung thành với đạo đức, lễ giáo phong kiến không còn được dư luận xã hội biểu dương ca ngợi, không tạo thành khoái cảm thẩm mỹ cho quần chúng nhân dân. Trái lại, hình ảnh những anh chàng nho sinh đã chán ngấy cái nợ công danh, mải mê say đắm với những mối tình với những nàng thiếu nữ xinh đẹp – “suy đồi – mất niềm tin” và những cô nàng dám yêu, dám đấu tranh cho tình yêu, khát vọng tự do tự tại của Liêu trai chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả, kêu gọi và khích lệ mọi người hãy sống vì những khao khát chính đáng của bản thân, hãy sống vì những gì nhân bản nhất.

KẾT LUẬN

*****

Vào thời Thuận Trị – Khang Hy nhà Thanh, khi cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp mãnh liệt và sâu rộng tạo thành nội dung cơ bản của nền chính trị xã hội thì những bộ tiểu thuyết ưu tú như “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh, “Thủy Hử hậu truyện” của Trần Thầm, “Thuyết nhạc toàn truyện” của Tiền Thái ra đời.

Con người trong xã hội phong kiến phải chịu nhiều sự áp bức. Sự thống trị tàn bạo của bọn quan lại cường hào cùng những lề thói gia phong đạo đức phong kiến cổ hủ đã kìm hãm bản năng tự nhiên của con người. Sống trong thời đại tàn bạo đầu đời Thanh, con người lại càng bị áp chế gay gắt về mặt tư tưởng. Vì vậy khát vọng giải phóng tình yêu, tự do dân chủ đã thăng hoa thành những hình tượng nhân vật nam nữ đầy sức quyến rũ của Liêu trai. Sự gặp gỡ kỳ ngộ giữa những chàng thư sinh chán ngán công danh – “suy đồi – mất niềm tin”-  và các nàng ma, hồ trong Liêu trai đã tạo nên những mối tình tuyệt đẹp, làm say lòng biết bao thế hệ độc giả.

Trong những thiên truyện ngắn viết về những mối tình yêu đương say đắm giữa những anh chàng nho sinh và những nàng thiếu nữ ma hồ xinh đẹp của Liêu trai, tình yêu của những nhân vật nho sinh thể hiện một quan niệm mới, một khát vọng tự do trong tình yêu. Bên cạnh đó,  phần lớn các nhân vật nho sinh của Liêu trai thất vọng về sự học hành, không còn mấy tin vào đạo Khổng, niềm tin vào sự học hành bị giảm sút trầm trọng nên đi tìm niềm vui trong tình yêu. Những nhân vật phụ nữ trong Liêu trai thì có nguồn gốc xuất thân hết sức đa dạng, xuất thân hư ảo ( phi thực) nhưng mang đậm tính người hoặc là những con người trần thực. Trong số đó, có những thân phận phụ nữ   bất hạnh, là những hồn ma chết oan, chết yểu, hoặc là không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.

Như vậy qua hình tượng nhân vật nho sinh và hình tượng nhân vật phụ nữ, “Liêu trai chí dị” đã thoả mãn nỗi khao khát của những con người bất hạnh trong xã hội lúc bấy giờ : trong đường học hành, trong tình yêu và hôn nhân. Từ đó phê phán những bất công trong xã hội, phản đối hệ tư tưởng Nho giáo, giải phóng con người khỏi những áp bức bất công.

Không phải ngẫu nhiên mà trong lúc phần nhiều tác phẩm văn học thuộc các thể loại thơ ca, tản văn, hí kịch đầu đời Thanh là những tác phẩm tầm thường, vô vị, tô son điểm phấn hiện thực thì “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh và những tác phẩm kể trên lại là một thành tựu lớn nhất của giai đoạn văn học này. Bồ Tùng Linh – một cây bút xuất sắc trong giai đoạn này – đã biết đề cập đến những vấn đề chủ yếu của thời đại. Thông qua việc sử dụng những hình tượng nghệ thuật muôn màu muôn vẻ, phản ánh cuộc sống của nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh vì những quyền lợi chân chính, nhân bản của con người. Họ trực tiếp hoặc gián tiếp biểu hiện cuộc sống của xã hội và hơi thở của thời đại. Đó là yếu tố cơ bản để Bồ Tùng Linh đạt được những thành công rực rỡ trong sự nghiệp sáng tác và trở thành một nhà văn lớn của thế kỉ XVII.

PHỤ LỤC

*****

TÓM TẮT

NHỮNG THIÊN TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI NHO SINH

 1.      Thư sinh họ Diệp ( Diệp sinh )

 Câu chuyện kể về anh chàng thư sinh họ Diệp có tài văn chương trội nhất đương thời nhưng số phận lận đận long đong trong trường công danh. Chàng được một vị quan thương mến tài năng của chàng mà ân cần giúp đỡ, ca ngợi tài năng. Thế nhưng bảng vàng đã treo mà chàng lại hỏng. Vì quá đau buồn, chàng lâm bệnh nặng rồi hồn lìa khỏi xác mà cứ ngỡ mình còn sống. Sớm tối, chàng theo truyền dạy cho cậu công tử của vị quan nọ. Công tử con quan liên tục đỗ đạt và qua một năm chàng cũng đỗ cử nhân. Nhân có một chuyến đi ngang quê nhà, chàng ghé vào thăm mới hay thì ra mình đã chết từ lâu rồi. Vì nhà nghèo nên còn để linh cữu trong nhà. Chàng nghe nói như thế thì buồn rũ rượi, đi vào nhà thấy linh cữu của mình trước mắt thì ngã ra giữa đất mà biến mất.

2.      Giấc mộng đắc chí ( Vương Tử An )

Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật mãi trong sự lều chõng. Khoa ấy vào trường thi hương xong, rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mềm, trong lòng ngổn ngang muôn nỗi. Quỉ hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu tạo nên giấc mộng công danh đắc chí đỗ đạt của Vương : nào là đậu tiến sĩ, qua tam trường, rồi được bổ vào viện Hàn Lâm. Tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả.

3.      Ba ông tiên

 Có người học trò đi thi, trên đường gặp 3 ông đồ, bèn kết bạn, cùng bàn luận văn thơ với nhau. Sáng ra tỉnh dậy không thấy ai cả mới hay họ là ba vị tiên ( cua, rắn và ễnh ương). Sau chàng vào trường thi, được ba bài đều trúng cả ba bài tiên làm cho dạo hôm nào thành thử được đỗ đầu.

4.      Mê sách ( Thư sĩ )

 Lang Ngọc Tru vô cùng mê sách, tin rằng cứ chăm đọc sách thì thế nào cũng có vàng có thóc, lại tin rằng trong sách có cả người đẹp. Thi hoài không đỗ, nhất nhất đều tin mọi sự y như trong bài thơ mà cha chàng để lại. Có lần đọc sách thì gặp một mĩ nhân từ trong sách bước ra, nàng tên là Nhan Như Ngọc. Hai người kết duyên vợ chồng. Nàng khuyên chàng không nên mê sách quá như thế, lại dạy bảo chàng nên giao lưu với bè bạn, học đánh cờ và học đàn. Sau nàng đẻ con trai, chàng đi thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ luôn tiến sĩ.

5.      Nối giấc kê vàng ( Tục Hoàng lương )

 Ông cử họ Tăng vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ xong cùng hai người bạn tân khoa đi chơi, vào một ngôi chùa xem một quẻ bói. Tính Tăng nghênh ngang tự đắc, lại được quẻ bói nói mình sẽ làm tể tướng, lại càng kiêu căng. Rồi Tăng ngủ quên đi trong chùa, bị lạc vào một giấc mơ dài : được làm tể tướng, giàu có quyền uy, báo ân báo oán. Song lại sa vào rượu chè đàng điếm, làm điều tự tiện, cướp tài sản, gái đẹp, ỷ mình đắc thế làm nhiều điều xằng bậy. Sau bị vua xử tội, lại bị đày xuống địa ngục, chịu qua nhiều hình phạt khủng khiếp vì tội lỗi đã gây ra ở dương gian. Rồi sau đó đầu thai làm con gái một gia đình ăn mày phải chịu nhiều nỗi khổ nhục. Chợt tỉnh giấc thì may thay đó chỉ là một giấc mộng mà thôi! Từ đó Tăng mới xuôi xị cái ý nghĩ đài các, vào núi tu.

6.      Thay tim đổi mặt ( Lục phán quan )

 Có chàng Châu Nhĩ Đán tính hào phóng nhưng kém  thông minh. Tuy học siêng năng nhưng chưa được nổi tiếng, làm bạn với phán quan họ Lục – một vị thần ở đền thờ Thập Vương. Có người bạn cõi âm giúp sức trong việc học hành, lại giúp cho chàng có một trái tim khác sáng suốt hơn, từ đó văn chương tấn tới, trí nhớ vượt bậc. Nhờ vậy mà chàng thi đỗ đầu bảng Hiếu liêm ( cử nhân). Sau Châu ba lần đi thi Hội đều bị đánh hỏng vì vi phạm nhằm luật cấm. Khi chết đi được Lục phán quan tiến cử một chức quan trông coi việc tử. Con trai của Châu hai mươi lăm tuổi cũng thi đậu tiến sĩ, được làm quan.Rồi con của anh ta cũng có một người làm tới chức Tổng hiến, có tiếng chính sự giỏi giang.

7.      Vợ thi hộ chồng ( Nhan thị )

 Chàng Mỗ học hành không được giỏi giang gì lắm, chỉ có tài viết thư từ chữ tốt. Lấy được người vợ là con gái một nhà dòng dõi học giỏi, rất mực thông minh và giỏi văn thơ. Nàng sớm hôm khuyên đốc chàng học nhưng chàng đi thi khoa nào cũng rớt. Do vậy nàng mới giả dạng nam nhi mà đi thi hộ chồng và đậu ngay cử nhân, tiến sĩ, được bổ lên đến chức ngự sử, vô cùng giàu có. Sau trao hết chức hàm cho chồng nhưng chàng hổ thẹn vì do vợ làm nên nên chỉ cam làm anh học trò bình thường, đi xa chưa từng dùng võng lọng bao giờ.

8.      Oan nghiệt trường văn

 Vương Bình Tử, Dư Hàng và chàng họ Tống , cả ba người cùng ở trọ chung trong một ngôi chùa nọ. Vương và Dư Hàng là hai anh học trò đi thi còn chàng Tống thì được giới thiệu là “không có chí bay nhảy” như họ. Dư Hàng tính vốn kiêu ngạo, văn tài không giỏi giang gì lắm. Vương kết thân với Tống sớm tối bàn chuyện kinh sử, nhờ Tống chỉ bảo trong việc học hành, đưa văn thơ của mình cho Tống duyệt đọc. Có lần Vương và Dư theo lời Tống, đưa văn chương của mình cho một bậc kì nhân ( một vị sư mù bán thuốc) xem thì văn của Dư bị đánh giá thấp còn văn của Vương thì được đánh giá cao. Thế mà kì thi năm ấy Dư đỗ hương cống còn Vương thì trượt. Hỏi nhà sư nguyên do là tại sao thì nhà sư bảo : “Ta tuy mù mắt nhưng tai không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả hai”. Thì ra Dư Hàng là học trò của một ông quan chấm thi kì thi năm ấy nên đã được chấm đỗ. Vương về tiếp tục ôn luyện cho kì thi năm sau nhưng vì phạm quy vì bị đánh hỏng. Tống hay tin bạn lại bị hỏng thì khóc lớn và thú thực mình là hồn quỷ phiêu bạt, từ nhỏ tuổi ôm ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc. Gặp Vương, chàng Tống muốn giúp cho bạn đạt được cái ước nguyện mà bản thân mình chưa đạt được. Nhưng nay bạn mình cũng không thoát cái tai ách của nghiệp văn tự. Sau Tống được bổ làm chức Tư Văn Lang, một chức quan ở cõi âm coi sóc việc văn vận. Đức Tuyên Thánh sai làm một bài thơ “Tinh đạo luận” song lại bị Diêm La xem sổ lí lịch đòi bỏ không dùng vì tội “khẩu nghiệt”, sau Đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi mới được duyệt.

Chàng Vương nghe theo lời Tống hết sức giữ mình, sau nằm mộng thấy Tống đến báo cho biết : do khi xưa anh đã phạm tội giết một con hầu nên vì thế mà bị tước sổ lộc. Nay do tu tỉnh nên được bớt tội song mệnh còn mỏng không đủ làm quan. Năm ấy Vương đỗ Hương Cống, sau đỗ tiến sĩ nhưng không làm quan.

NHỮNG THIÊN TRUYỆN NGẮN VỀ

 ĐỀ TÀI PHỤ NỮ

1.      Thụy Vân

 Câu chuyện kể về chuyện tình giữa đôi trai gái Thụy Vân – danh kỹ đất Hàng và chàng thư sinh họ Hạ tài danh nức tiếng nhưng gia tư chỉ vào bậc trung. Nàng là ca kĩ có tiếng, muốn gặp phải có lễ hậu, chàng lại nghèo nên chẳng dám ước ao. Tình yêu của họ bị thử thách khi nàng Thụy Vân xinh đẹp giờ đã trở nên xấu xí vì vết mực đen trên mặt. Hạ đem lòng thương xót người xưa, chuộc nàng về làm vợ, tình cảm rất nồng thắm. Cuối cùng, tình cảm chân thật và thủy chung của chàng thư sinh cũng được đền đáp, Thụy Vân được hóa giải phép thuật, trở lại xinh đẹp như xưa.

2.      Cô Bảo ( A Bảo )

 A Bảo, cô  gái tuyệt sắc, con nhà gia thế quí phái, đến tuổi kén duyên các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ. Có chàng Tôn góa vợ nhà lại nghèo mà tính lại vẩn vơ, lẩn thẩn cậy mối đến hỏi. Còn vì nàng mà chặt đứt cả ngón tay. Đến khi gặp mặt giai nhân, si mê đến độ hồn lìa khỏi xác bay đến nơi cô Bảo. Rồi lại còn hóa thành một con chim vẹt bay đến tìm nàng. Cô gái xiêu lòng đồng ý kết duyên. Ba năm sau, chàng bỗng mắc bệnh mà chết nhưng sau đó may mắn được sống lại vì Diêm Vương cảm người vợ tiết nghĩa vì chồng mà toan chết đi. Sau đó chàng đỗ đạt làm quan. Cô Bảo được vua ngợi khen, tặng thưởng rất nhiều.

3.      Hồng Ngọc

 Câu chuyện kể về mối tình của anh chàng Tương Như và cô gái láng giềng tên Hồng Ngọc. Hai người lén lút qua lại với nhau. Được nửa năm thì cha chàng Tương Như biết được, la mắng. Hai người đành xa nhau, nàng còn vun vén cho chàng một cô gái xinh đẹp trong vùng làm vợ, còn giúp cả tiền vàng để cho chàng hỏi cưới. Hai vợ chồng tình nghĩa rất thắm thiết, hai năm sau sinh một con trai là Phúc Nhi. Sau cả vợ và cha chàng đều chết vì trong làng có kẻ họ Tống gian ác hà hiếp vì cô vợ xinh đẹp. Trong nạn biến, đứa con trai bị lưu lạc đi mất. Chàng sống trong khổ sở, lẻ loi. Nửa năm sau thì chàng gặp lại người con gái láng giềng xưa, nàng thú thực với chàng mình vốn không phải là người mà là hồ. Lúc bấy giờ nàng đang nuôi Phúc Nhi như con ruột của mình. Nàng về làm vợ chàng Tương Như sau bao năm xa cách. Nàng vén khéo đảm đang, lại giúp chàng khoa cử đỗ đạt, giàu sang phú quí, cuộc sống vô cùng hạnh phúc, ấm no.

4.      Anh Ninh

Câu chuyện kể về cô gái tên Anh Ninh có tính hay cười, nàng vốn do hồ sinh ra, lại được bà mẹ ma nuôi nấng, sống ở nơi núi rừng hẻo lánh. Ngày xuân dạo chơi gặp chàng Vương, chàng tương tư Anh Ninh, về như người mất hồn. Đến khi tìm gặp được nàng mới hay nàng chính là cô em họ, bèn hỏi nàng về làm vợ. Được hơn một năm sinh con trai, tính cũng giống mẹ, hay cười.

5.      Ngũ Thu Nguyệt

Nàng Ngũ Thu Nguyệt mệnh số không thọ, chết yểu, trên mộ có ghi “Gái Thu Nguyệt, chết không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh”. Y thời gian ba mươi năm sau, nàng gặp được chàng Vương Đỉnh. Một đêm hai người cùng nhau đi thăm thành quách cõi âm thì gặp anh của chàng bị bắt dưới đó, chàng phạt đầu hai tên lính cứu anh. Nàng hi sinh ở lại cho chàng chạy thoát, cứu người anh sống lại. Sau chàng tìm cách cứu Thu Nguyệt thóat khỏi cõi âm, trở về dương thế. Hai vợ chồng ăn ở tích đức, bình yên, hạnh phúc.

6.      Cừu Đại Nương

Ông Trọng có hai con trai là Phúc và Lộc, lại có một người con gái con người vợ trước tên là Đại Nương. Gặp buổi loạn lạc, Trọng bị li tán gia đình, cảnh  nhà gặp nhiều khó khăn do tên Ngụy trong làng hãm hại. Đại Nương vốn ở xa, hay tin nhà có nạn, vội vã trở về một tay lo toan tất cả, hóa giải mọi họa nạn, giúp hai em trai tìm lại được hạnh phúc, lại lo chu tất kinh tế cho gia đình, hiếu thảo với người mẹ kế. Nhờ sự khôn ngoan và tài trí của Đại Nương mà mọi âm mưu gian ác của tên Ngụy đều bị thất bại, trái lại gia đình ngày càng giàu có, sum vầy đòan tụ. Việc làm của Đại Nương khiến hai em vô cùng cảm động, xây nhà to cho chị ở cạnh.

7.      Tiểu Thúy

Nàng Tiểu Thúy là con của hồ, để trả ơn họ Vương xưa kia cứu giúp mẹ mình mà nghe lời mẹ kết duyên với con trai Nguyên Phong của Vương. Chàng ta vốn là một kẻ ngây ngô, ngớ ngẩn. Tiểu Thúy xinh đẹp, thông minh, nhiều lần giúp cho gia đình chồng vượt qua nhiều nạn biến do bị tên quan cấp gián hãm hại. Nàng lại còn cứu chữa cho chồng khỏi căn bệnh “ngây ngô”. Nhưng nhiều lần, cũng do cái tính hay cười, hay đùa lại có vẻ kì dị, khó hiểu của nàng làm cho cha mẹ chồng sinh ra hiểu lầm, nhiều lần nhiếc mắng nàng thậm tệ. Nàng Tiểu Thúy buồn tủi bỏ đi. Sau Nguyên Phong gặp lại vợ, bày tỏ nỗi nhớ nhung, hai người sum họp nơi vườn vắng hoang vu. Tiểu Thúy buồn phiền vì nàng không thể sinh con cho chàng Nguyên Phong nên lo toan cưới vợ khác cho chồng. Cô dâu mới có dung mạo giống hệt nàng Tiểu Thúy, còn nàng đã quyết định ra đi. Sợ chồng sẽ đau buồn, trước khi chia ly nàng đã từ từ thay đổi dung mạo của mình để khuây khỏa nỗi nhớ của chàng ngày sau.

8.      Thanh Phượng

Nàng Thanh Phượng vốn là một con chồn, cùng cô chú và người anh họ sống trong một căn nhà hoang của một gia đình thế gia sa sút. Người cháu của gia đình thế gia ấy vì tò mò, hiếu kì mà đến khu nhà nọ. Chàng tình cờ gặp và tương tư nàng Thanh Phượng rồi chàng ta lân la dọn đến ở khu nhà đó. Chàng muốn cùng nàng Thanh Phượng sớm tối bên nhau nhưng nàng lại muốn giữ lễ nghi, lại bị ông chú cản ngăn cho như vậy là làm nhơ nhuốc danh giá của gia đình nên hai người đành phải chia lìa nhau. Gặp tiết thanh minh, đi tảo mộ, chàng tình cờ cứu được một con chồn con, thì ra con chồn ấy lại chính là nàng Thanh Phượng. Hai người sum họp hạnh phúc, chàng còn ra tay cứu giúp ông chú của nàng. Nàng Thanh Phượng giữ trọn chữ hiếu, rước gia đình chú về sống chung rất vui vẻ, hạnh phúc như thể cha con một nhà và hòa thuận mọi bề với người vợ cả của chàng.

9.      Hoa Cô Tử

Chàng An tính chuộng nghĩa, lại thích phóng sinh, cứu vớt nhiều chim thú. Có lần chàng mua lại một con nai xạ thơm người ta săn được rồi thả ra. Năm năm sau, vào một lần đi lạc trong núi lúc chiều tối, chàng gặp một cụ già chính là con nai khi xưa. Cụ già có một người con gái tên là Hoa Cô Tử. Để tạ ơn ân nhân, nàng đun rượu mời khách và chàng An đã say mê sắc đẹp của Hoa Cô Tử. Ra về chàng mắc bệnh tương tư, ngẩn ngơ mong nhớ Hoa Cô Tử. Hai người đến với nhau nhưng bị cha của Hoa Cô Tử cấm đoán, la mắng thậm tệ. Chàng An lại tìm đến nhà Hoa Cô Tử nhưng không gặp được nàng mà lại gặp phải con rắn yêu quái giả dạng thành nàng. Chàng An vì độc rắn chết đi, cha của Hoa Cô Tử hi sinh để cứu mạng ân nhân, nhờ vậy mà chàng được cứu sống. Nhưng chàng không thể sống chung với Hoa Cô Tử trọn đời vì Hoa Cô Tử cứu chàng mà phải chết, chỉ để lại cho chàng An một đứa con trai.

10. Liên Tỏa

 Nàng Liên Toả xinh đẹp nhưng mới mười bảy tuổi  bỗng bị bạo bệnh chết đã hơn hai mươi năm, đêm đến nàng cứ ngâm mãi hai câu thơ sầu oán. Rồi cũng nhờ hai câu thơ ấy mà nàng tình cờ gặp gỡ chàng Dương. Nàng Liên Toả không chỉ xinh đẹp mà còn ham đọc sách, viết chữ đẹp  . .  . tài sắc đủ cả. Nàng thường hay bàn luận việc sách vở với chàng Dương rất tâm đầu ý hợp. Hai người yêu nhau và nàng Liên Toả cuối cùng được trở lại kiếp người. Hai người sống hạnh phúc bên nhau sau khi trải qua nhiều khó khăn, biến cố.

11. Phòng Văn Thục

 Phòng Văn Thục nhan sắc tuyệt đẹp, một sớm tinh sương nàng đến một ngôi chùa nọ, trong chùa có chàng Đặng làm nghề chép thuê ở nhờ. Thế là cầm sắt hoà hợp dài lâu, nàng sinh cho chàng một đứa con trai. Nhưng một đêm nọ, Phòng Văn Thục bế con ra đi, lúc này chàng Đặng mới biết nàng không phải là người. Nàng đem con gởi lại cho người vợ lớn – là người vợ ở quê của chàng Đặng – làm con nuôi. Còn chàng Đặng, khi nàng Phòng Văn Thục bỏ đi bèn quay về quê với vợ thì mới hay vợ đang nuôi đứa con trai của mình và nàng Thục. Còn cô gái Phòng Văn Thục thì vẫn mãi biệt tăm.

12. Cô Tư họ Hồ (Hồ Tứ Thư )

 Hai chị em hồ là cô Ba và cô Tư  đều có nhan sắc. Chàng thư sinh họ Thượng một đêm nọ một mình nơi thư trai thanh tịnh thì cô Ba vào. Rồi sau đó chàng Thượng “thấy cô em thì quên mất cô chị”. Cô Ba vốn rất độc ác, định mưu giết chàng Thượng may nhờ có cô Ba cứu giúp mà thoát được. Có vị đạo sĩ chuyên trừ diệt yêu ma niệm chú nhốt cả hai chị em vào bình. Chàng Thượng vì thương xót cô Tư mà lén thả ra. Về sau, có lần gặp lại cô Tư, đã mười năm qua nhưng hai người không thể đoàn tụ. Sau đó hai mươi năm, gặp lại nhau thì cô Tư đã ghi tên trong sổ tiên. Vì cảm lòng chàng mà cô Tư ra ôn phù hộ độ trì cho chàng làm quỷ tiên, nên về sau chàng cũng không đến nỗi khổ.

13. Hương Ngọc

 Hương Ngọc vốn là một cây bạch mẫu đơn, Giáng Ngọc là một cây nại đông. Giáng Ngọc là chị em kết nghĩa với Hương Ngọc, hai cây mọc cạnh nhau trong vườn nhà thư sinh họ Hoàng. Giáng Ngọc là bạn hữu tri kỉ của chàng còn Hương Ngọc là người vợ yêu của chàng. Nàng Hương Ngọc bị  đào đem trồng chỗ khác, ngày càng trở nên héo úa. Thần hoa cảm động trước lòng chí tình của chàng họ Hoàng nên đã cho Hương Ngọc tái sinh. Nhưng khi đã được tái sinh, nàng Hương Ngọc thân xác giờ đây nhẹ tênh như cái bóng vô hình nên chàng phải năng chăm bón vun sóc để mong có ngày nàng Hương Ngọc trở lại như xưa. Trong thời gian đó thì nàng Giáng Ngọc làm vợ thay người. Mười năm sau, chàng họ Hoàng lâm bệnh mà chết, hoá thành một mầm đỏ năm lá mọc cạnh gốc mẫu đơn. Sau mầm lớn lên thành một cây cao to nhưng không trổ hoa. Có người không biết đẵn bỏ cây đi vì thấy không trổ hoa thì cây bạch mẫu đơn cũng héo đi rồi chết, chẳng bao lâu cây nại đông cũng chết nốt.

14. Hằng Nương

 Nàng Hằng Nương vốn là hồ, nhan sắc trung bình nhưng nói năng nhẹ nhàng dễ ưa. Nàng có “biệt tài” giữ cho chồng mãi say mê và yêu chuộng mình dù cho người chồng có vợ bé đi chăng nữa. Nàng đem “bí quyết” này truyền dạy cho một cô bạn láng giềng cũng có chồng lấy vợ bé, nhờ thế mà cô này mới giữ được chồng, khiến cho chồng yêu mình hơn cả người vợ bé trẻ đẹp. Nàng vừa am hiểu tâm lí con người ta, vừa khéo léo mềm mỏng, cái kế của nàng là kế “đổi vợ thành thiếp”, “hoá cũ thành mới”. Sau đó nàng Hằng Nương đi thăm cha rồi thoát xác lên tiên, không trở lại nữa.

15. Thanh Mai

 Thanh Mai là con gái của thư sinh họ Trình lỗi lạc và hồ. Nàng thông minh linh lợi, vẻ người lại vô cùng thanh tú. Sau Trình bệnh chết, nàng sống với chú rồi bị bán đi làm con hầu cho tiểu thư A Hỷ, con gái của vị tiến sĩ họ Vương. Thấy chàng thư sinh Trương Giới Thụ ở trọ nhà ông Vương vô cùng hiếu thảo với cha mẹ, Thanh Mai muốn gán ghép chàng cho tiểu thư A Hỷ. Nhưng việc ấy không xong vì gia cảnh chàng quá nghèo. Không nên duyên với cô chủ nhưng chàng và Thanh Mai nên duyên với nhau. Thanh Mai về nhà chồng là nàng dâu hiền, người vợ đảm. Còn nàng A Hỷ sau đó bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn khi mẹ nàng thì chết còn cha nàng bị cách chức rồi cũng bệnh mà chết. A Hỷ lênh đênh cơ khổ ở với người vú giá, không có tiền tống táng cho cha mẹ phải nhận lời làm vợ lẽ tên họ Lý giàu có. Sau người vợ cả ghen tức chửi mắng, nàng phải theo một ni sư già đến một cái am nhỏ ở tạm. Có lần A Hỷ tình cờ gặp lại Thanh Mai nay đã là bà nội tướng quan tư lý. Chàng Trương nay đã đỗ kì thi hương, thi hội, được bổ làm quan tư lý. A Hỷ theo lời khuyên của Thanh Mai về làm vợ chàng Trương. Thanh Mai đối xử với A Hỷ vô cùng kính cẩn, sau nàng sinh được hai trai một gái còn A Hỷ sinh được bốn trai một gái. Cả hai nàng đều được phong làm phu nhân.

16. Bạch Thu Luyện

 Nàng Bạch Thu Luyện vốn là một con cá ngựa trắng sống trong hồ, nhan sắc vô cùng xinh đẹp lại am hiểu chữ nghĩa. Một lần nọ, nàng nghe được giọng ngâm thơ thanh tao của thư sinh họ Mộ, con của một người lái buôn đậu thuyền ở hồ, thì đem lòng quyến luyến, muốn kết mối lương duyên. Thế nhưng mối tình tuyệt đẹp ấy gặp phải sự cản trở kịch liệt của cha chàng. Sau đó, do cảm động trước tình yêu của hai người và cũng do nàng Thu Luyện có tài đoán biết việc làm ăn nên đã giúp cho cha chàng  thu được mối lợi lớn nên ông mới chấp nhận mối lương duyên này. Sau nàng sinh hạ cho chàng một đứa con trai. Vì nàng Bạch Thu Luyện vốn là một con cá ngựa nên không thể sống thiếu nước hồ, lần nào thuyền của ông già đi buôn bán làm ăn quay trở về, cô gái cũng dặn dò ông chở một ít nước trong hồ về cho nàng để rưới vào cơm ăn. Nàng còn có một người mẹ già cũng la một con cá trong hồ. Mẹ nàng gặp nạn bị người ta bắt được may có chàng đem tiền chuộc lại và thả xuống hồ. Sở dĩ bà gặp nạn vì Long Quân muốn tuyển nàng làm phi tần, nàng không chấp thuận nên mẹ nàng đã bị đày ải như thế. Nàng tha thiết khẩn cầu chàng xin với Long Quân vì thế mà thoát được tai vạ. Có lần ông lão đi buôn về trễ mấy tháng liền, không có nước hồ, Bạch Thu Luyện lâm bệnh. Sau ông Mộ về, đem nước hồ về liền ngâm xác nàng vào đó thì nàng liền sống lại. Sau đó cả gia quyến dời xuống miềnNam, nơi hồ xưa nàng ở đó, và cũng là nơi lần đầu hai người gặp nhau trên thuyền.

17. Cô gái áo xanh ( Lục y nữ )

 Chàng họ Vu, tên là Cảnh ở nhờ trong một ngôi chùa để học. Đang đêm, có một cô gái đứng ngoài song cửa mà khen : chăm học làm sao! Đó là một nàng áo xanh, váy dài mềm mại xinh xắn nhưng không phải là người. Hai người ân ái với nhau hết sức mặn nồng. Nàng có giọng hát khẽ như tiếng nhặng. Một hôm, lòng nàng không hiểu sao cứ thảng thốt mãi, nàng linh cảm có chuyện chẳng lành sắp xảy ra. Nàng dặn dò chàng kĩ lưỡng rằng khi mình đi khỏi chàng phải theo tiễn và dặn chàng đứng trông. Chàng vừa tiễn nàng khỏi cửa, định quay vào thì nghe thấy tiếng nàng kêu cứu, tiếng kêu vọng ra từ mái hiên. Thì ra nàng là một con ong xanh đang bị một con nhện chằng trói, chàng thấy vậy liền ra tay cứu thoát cho ong. Con ong tỉnh dậy, nhúng thân vào lọ mực leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ “tạ” rồi bay đi, từ đó không trở lại nữa.

18. Gái thần ( Thần nữ)

 Có cô tiểu thư nhan sắc đẹp tuyệt trần, là con gái của ông cụ họ Phó nhà cửa giàu có, là bậc thế gia, vì cảm thương cho anh thư sinh họ Mễ vướng phải tai ương mà gia sản bị tiêu tán hết, áo mũ nho sinh không lấy lại được cho nên khó khăn cho việc thi cử mà tặng cho chàng một đoá hoa bằng ngọc trai, sau lại còn giúp tiền cho chàng đi thi. Về sau, chàng không cần cầu cạnh ai mà vẫn thi đỗ vào trường học của huyện. Một hôm có chàng công tử họ Phó đến nhờ vả chàng cứu cha mình. Thì ra ông cụ ấy chính là phụ thân của tiểu thư năm xưa đã giúp đỡ cho chàng, người đã tặng chàng đoá hoa ngọc trai. Để đền ơn, nhà họ Phó gả tiểu thư cho chàng họ Mỗ. Thì ra nàng là thần nữ. Làm  vợ chàng Mễ đã mấy năm mà nàng không sinh con. Thần nữ mua cho chồng một người thiếp trẻ tuổi tên là Cố Bác Sĩ. Sau nàng Bác Sĩ sinh cho chàng Mễ hai con trai. Ba người sống với nhau rất thuận hoà và hạnh phúc. Khi chồng mất, thần nữ chui vào cỗ áo quan chết chung với chồng.

19. Cô Tiêm ( A Tiêm)

 Hề Sơn, người miền Cao Mật ( Sơn Đông ) làm nghề chạy hàng xách. Một hôm giữa đường gặp mưa, chàng ta vào trú mưa ở một nhà nọ. Trong nhà có hai vợ chồng già và một cô con gái tên là A Tiêm. A Tiêm tuổi chừng mười sáu, mười bảy, vô cùng xinh đẹp. Hề Sơn muốn vun vén nàng A Tiêm cho người em trai của mình. Năm nay chàng ta cũng độ mười bảy, đang theo nghiệp đèn sách. Hơn tháng sau, Hề Sơn trở lại ngôi nhà nọ thì mới hay cụ ông đã mất. A Tiêm được gả cho chàng ba đúng như lời hẹn khi trước. Nhờ sự giỏi giang của A Tiêm mà nhà được khấm khá. Sau, người anh tình cờ biết được A Tiêm không phải là người mà là yêu quái, rồi nói vào ra những lời xì xầm bàn tán. A Tiêm đau buồn, lấy cớ mẹ già bị bệnh phải về chăm sóc rồi đi hơn một năm, vắng bặt tin tức. Vài năm sau đó, nhà họ Hề thiếu vắng A Tiêm, trở nên nghèo khó dần. Có người cháu em nhà chú của họ Hề tình cờ gặp lại nàng A Tiêm mới biết được hoàn cảnh của nàng lúc bấy giờ : bà mẹ già đã mất, A Tiêm sống cô độc một mình. Người cháu khuyên bảo nàng nên quay trở về. Nàng A Tiêm trở lại căn nhà xưa, lại giúp cho gia đình chồng trở lại sung túc như xưa, lại vô cùng hiếu thảo với cha mẹ chồng. Nàng A Tiêm cũng không để tâm thù oán người anh chồng mà trái lại còn chu cấp cho anh luôn.

20. Cô gái họ Mai ( Mai nữ )

 Có cô gái họ Mai, đang đêm thì nhà bị một tên trộm lẻn vào, cô bắt được, giải lên quan. Quan nhận tiền của tên trộm, vu cho nàng tội tư thông với tên trộm và toan bắt nàng lên tra khám. Cô nghe tin thắt cổ chết. Về sau cha mẹ nàng mất đi, cả ngôi nhà về tay người khác và trở thành một nhà trọ. Có chàng Phong Vân Đình trọ ở đấy, thấy hồn ma của nàng hiện về nhờ chàng chặt cây xà ngang và đem đốt đi, nơi mà nàng treo cổ năm xưa. Phong ước ao nàng có thể sống lại để chàng có thể cưới nàng về làm vợ. Nàng nói “đôi ta sẽ có ngày sum họp nhưng giờ thì chưa”. Nàng bèn mời một nàng ca kỹ cực kì phong nhã tên là Ái Khanh đến hầu hạ chàng. Nàng Ái Khanh vốn là vợ kế của một tên quan Điển sử, vì chồng nàng là một tên quan gian ác chuyên ăn của đút lót hại người, cha mẹ hắn dưới âm ty kêu xin cho hắn ta và vì thế phải đưa con dâu quí là nàng Ái Khanh xinh đẹp vào lầu xanh, mong trả món nợ tham nhũng của hắn. Thì ra hắn cũng chính là tên quan khi xưa đã vu oan cho cô gái họ Mai. Tên quan ấy sau đó bị bệnh mà chết, mọi oan hờn vì thế mà được rửa sạch. Chàng Phong và cô gái Họ Mai bèn tính chuyện trăm năm. Vì là hồn ma cách biệt âm dương nên nàng đã nghĩ ra một mưu kế là đầu thai vào một nhà nọ, rồi bày cách cho chàng đi hỏi nàng về làm vợ. Quả đúng như lời nàng nói, nhà nọ có một cô con gái nhưng bị bệnh ngẩn ngơ lại hay thè lưỡi ra ngoài. Đêm tân hôn, chàng theo y lời dặn, úp chiếc túi có đựng hồn ma của nàng lên đầu cô dâu mà gọi “Đừng quên! Đừng quên!”. Hai người nhận ra nhau vui mừng khôn xiết. Họ sống với nhau vô cùng hạnh phúc, sau chàng cũng thi cử rất đỗ đạt.

 21. Mĩ nhân cứu mạng ( Kiều Na)

 Có chàng Khổng Tuyết Lạp nổi tiếng với tài làm thơ, ở đậu trong một ngôi chùa nọ làm nghề viết thuê chép mướn cho thầy sãi. Gần chùa có một ngôi nhà bỏ hoang, chàng kết bạn với chàng thiếu niên họ Hoàng Phủ ở nhờ trong căn nhà ấy. Hai người sớm tối trò chuyện văn chương, chàng Khổng còn dạy dỗ cho chàng thiếu niên ấy việc đèn sách. Có lần chàng bị bệnh, may nhờ có Kiều Na là cô em của chàng thiếu niên ấy ra tay cứu giúp hộ nên chàng mới qua khỏi. Nàng Kiều Na mới mười ba, mười bốn tuổi, vẻ hoa lộng lẫy, vóc liễu thướt tha, khiến cho chàng ngày đêm tưởng nhớ, bỏ cả sách vở. Nhưng vì nàng Kiều Na còn nhỏ tuổi nên chàng thiếu niên đã se duyên cho chàng với A Tùng, là cô em họ của chàng. Sau đó, cả nhà họ Hoàng có việc phải dời đi nơi khác, hai vợ chồng trở về quê xưa của chàng. Sau đó chàng thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan. Tùng nương sinh cho chàng một con trai. Chàng vì tính cương trực trái ý của quan trên nên bị bãi chức. Một lần nọ, tình cờ gặp lại chàng công tử họ Hoàng Phủ, mới hay Kiều Na đã xuất giá. Chàng còn biết thêm được thì ra cả nhà họ Hoàng Phủ đều là chồn tinh cả. Sau đó, nhà họ Hoàng gặp nạn sét đánh, may mà có chàng Khổng ra tay cứu giúp nên mới thoát nạn, lại ra tay cứu sống Kiều Na, nhưng chàng thì bị sét đánh trúng chết giấc. Kiều Na cứu chàng lần thứ hai. Về sau, cả nhà Ngô Lang – chồng Kiều Na – bị số kiếp lôi đình chết hết cả, Kiều Na bèn về đoàn tụ cùng gia đình chàng Khổng. Hai gia đình vui vẻ sum vầy như một nhà vậy.

22. Vạn Lý Tầm Thu ( Cung Mộng Bật)

 Liễu Phương Hoa, nhà giàu có bậc nhất trong làng, lại có tính ưa tiếp đãi khách nên khách khứa đầy nhà. Trong số đó có một người tên là Cung Mộng Bật, người khách này có vẻ đặc biệt vì ông ta không bao giờ cầu xin chuyện gì hay hỏi vay của Liễu đồng nào như những người khách khác. Liễu có đứa con trai tên là Hoà. Sau, gia cảnh dần sa sút. Khi Liễu mất, Cung xuất tiền lo tang cho Liễu rồi Cung từ giã ra đi. Vì gia cảnh nghèo hèn nên gia đình họ Huỳnh khi trước hứa gả con gái cho Hoà lấy cớ đòi tiền thách cưới trăm bạc để hồi hôn. Cô con gái họ Huỳnh nghe việc cha tuyệt Hoà, nàng nghĩ thế là quấy, khuyên cha mẹ không được khinh bỏ người ta. Hai ông bà không nghe. Không lâu sau, nhà họ Huỳnh bị cướp, gia cảnh sa sút, hết cả của cải. Hai ông bà vì ham tiền mà ép gả con gái cho người ta. Nàng bỏ nhà, giả dạng ăn xin trốn đi, tìm đến nhà Hoà. Ba người sống khổ cực mà hạnh phúc. May mắn thay, nhờ Cung Mộng Bật, người khách xưa, đã để lại cả một kho báu trong nhà mà gia đình Hoà trở nên giàu có như khi trước. Hoà quyết chí lập lấy công danh để “không phụ lòng tốt của chú Cung”. Sau đó, chàng đậu thi Hương. Lại nói chuyện ông bà Huỳnh, từ khi con bỏ đi trở nên khốn quẫn hơn, hay tin con giờ đây đã yên bề gia thất với người chồng là Hoà vô cùng giàu có thì có đến thăm nhưng không dám ra mặt, phải giả dạng làm người khác cho bớt xấu hổ. Sau Hoà biết được, mời ông bà đến chơi, sắm sửa quần áo mới. Ở được một thời gian, ông bà vì lương tâm cắn rứt nên xin về. Hoà biếu họ rất nhiều tiền bạc nên về già họ Huỳnh cũng sống rất phong lưu.

23. Vợ bé là chồn ( Hồ thiếp)

 Lưu Động Cửu là quan ở Phân Châu, có bữa ngồi một mình ở trong đình thì xuất hiện bốn người con gái. Trong số đó ba người là chồn còn cô út thì “chẳng phải là người nhưng thật cũng là người”. Nguyên nàng là con gái của một vị quan trấn nhậm ở đây, bị chồn làm chết, xác chôn trong vườn, lũ chồn làm phép cho nàng sống lại và có phép biến hoá như chồn vậy. Từ đó, nàng làm vợ bé của Lưu. Nàng vừa xinh đẹp vừa khéo léo, có tài nấu ăn giỏi, lại có phép thần thông biến hoá, có thể nghe được lời nói từ một nơi cách đó rất xa, hoặc có thể làn phép lấy những món đồ từ nơi xa xôi khác mang về. Trong nhà gặp việc gì nguy nan, cứ bàn với nàng thì chẳng việc gì là không xong. Nàng lại còn có khả năng đoán biết trước những việc sắp xảy ra nên đã cứu cả nhà thoát khỏi nạn giặc giã dấy binh làm phản, lại giúp tiền vàng cho Lưu thoát khỏi cảnh nghèo túng. Sau đó mấy năm tự dưng nàng bỏ đi mất để lại mấy món đồ gói giấy tặng Lưu, trong đó có cái phướn nhỏ treo nhà đám ma. Ít ngày sau, Lưu chết.

24. Vợ dữ hơn cọp ( Giang Thành)

Cao Sinh ở Lâm Giang tên là Phồn thông minh nho nhã và cô gái Giang Thành vốn từ nhỏ đã là thanh mai trúc mã. Sau vì nhà Giang Thành dời đi xứ khác nên năm, sáu năm không nghe tin tức gì. Sau tình cờ gặp lại, Giang Thành giờ đây đã là một cô gái xinh đẹp, hai người vô cùng quyến luyến nhau rồi nên vợ nên chồng. Nhưng Giang Thành là một cô gái có tính hay giận hờn, hơi một chút là trở mặt coi chàng y như người lạ, miệng nàng la lối đến váng tai nhức óc. Nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện chi chàng Cao cũng cố nhịn. Nàng còn hay kiếm chuyện gây gỗ nhục mạ chồng, lại còn vác gậy đánh đuổi ra khỏi phòng. Có lần cha mẹ chồng chịu không nổi đuổi về nhà cha mẹ đẻ. Hơn năm sau, có lần tình cờ gặp lại vợ, chàng quyến luyến tình xưa nên từ đó cứ ít lâu lại ngủ đêm ở nhà cha mẹ vợ mà không cho cha mẹ mình hay. Sau đó, Giang Thành trở về nhà chồng nhưng lại giở thói cũ, đánh đập chồng thậm tệ đến nỗi cha mẹ ruột cũng tuyên bố dứt tình cha con với nàng rồi giận con quá mà qua đời. Thì ra nàng Giang Thành có tính tình kì lạ như vậy là do tai ương kiếp trước để lại . Nguyên kiếp trước Giang Thành là một vị hoà thượng có nuôi một con chuột trường sinh còn chồng nàng tiền kiếp là học trò đến chơi chùa vô ý đạp chết con chuột nên kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên. Một hôm có một lão tăng làm phép, nàng Giang Thành hoàn toàn biến thành một con người khác, dịu dàng với chồng, lễ hiếu với cha mẹ chồng. Sau chàng thi đậu cử nhân. Nàng lại còn xuất tiền chuộc cô đào hát về làm  thiếp cho chồng vì nàng biết đó là người năm xưa được chàng thương yêu.

25. Con gái nhà trời ( Bạch Vu Ngọc)

 Chàng trai trẻ Ngô Thanh Am  vốn giỏi văn chương , có quan Thái Sử họ Cát mến tài muốn gả con gái cho. Không may chàng thi rớt khoa thi hương. Tình cờ chàng gặp được một người cõi tiên họ Bạch và được lên trời chơi một phen. Ở trên cõi tiên, chàng được gần gũi một nàng tiên nữ áo tím, nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Mộng Tiên. Còn cô gái con quan Thái Sử, chỉ vì một lời hứa làm vợ Ngô Lang mà nguyện thủy chung, một mực không chịu làm vợ người khác. Chàng Ngô Lang cảm nàng là người hiền đức, lấy nàng về làm vợ và hết lòng kính yêu. Nàng cũng vô cùng hiếu thuận với mẹ chồng, lo ma chay cho bà đủ lễ khi bà mất. Sau, chàng bỏ đi tìm cõi tiên xưa, nàng ở lại lo liệu việc nhà, trông dạy, nuôi con đảm đang vô cùng. Mộng Tiên lớn lên rất thông minh , đậu thi hương, rồi Hàn Lâm.. Cát Mẫu ngoài năm mươi tuổi mà trông vẫn còn trẻ đẹp như người mới độ hai mươi.

 26. Hồ hay đùa ( Hồ hài)

 Câu chuyện kể về một cô gái xinh đẹp nhưng vốn là hồ ly, có biệt tài khôi hài thậm giỏi hễ cất tiếng là mọi người cười ngả cười nghiêng, lại vô cùng am hiểu chữ nghĩa, câu đối. Hồ kết duyên với chàng họ Vạn nhưng sau đó nàng theo anh em về lại quê cũ, vì thế mà đành chia lìa với Vạn, không thể chung vui trọn đời. Vạn cố sức lưu lại mà không được.

27. Nàng ba hoa sen ( Hà hoa Tam nương tử )

 Có cô gái nọ khá xinh đẹp nhưng kì thực là hồ li, chàng Tống Dương Nhược là bậc sĩ nhân, vì ham mê sắc đẹp của hồ mà mang bệnh vào thân, người đầy tà khí. Có vị hoà thượng bày cho Tống phép diệt Hồ, chàng y lời làm theo nhưng nghĩ chút tình xưa nên không nỡ giết hồ. Hồ cảm động đền ơn chàng đã tha mạng mà giúp cho chàng thuốc thang qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, lại bày cách cho chàng cưới được nàng ba Hoa Sen xinh đẹp về làm vợ. Nàng ba xinh đẹp vô ngần nhưng cũng là hồ li, nàng chính là hoa sen hoá thân thành người. Nàng giúp cho nhà chàng ngày càng giàu có, lại sinh cho chàng một đứa con. Sau đó sáu, bảy năm sau, nàng cáo biệt chàng ra đi, dặn chàng mỗi khi tưởng nhớ đến mình thì lấy kỉ vật xưa là một tấm khăn lụa trắng của nàng ra mà gọi tên “nàng ba hoa sen” ( hà hoa tam nương tử) thì lại thấy hình bóng xưa của nàng hiện ra.

28. Gái báo thù cha ( Thương Tam Quan)

Xưa ở Chư Cát Thành có Thường Sĩ Vũ là kẻ sĩ nhân. Do say rượu nói điều ngỗ ngược với vị huyện hào mà bị đánh chết. Thường có hai con trai tên là Thần và Lễ, một con gái tên là Tam Quan tuổi vừa trăng tròn lẻ, đã hẹn kì xuất giá. Nhà trai định cưới chạy tang, nàng không đồng ý vì cho như vậy là không hiếu thuận. Hai anh đâm đơn kiện vụ án của cha mình nhưng vụ kiện không được xét. Tam Quan khuyên hai anh nên mai táng cha, đừng trông mong vào vụ kiện nữa. Tang cha vừa xong, ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Thì ra nàng cải trang thành nam nhi xin vào một gánh hát để có dịp tiếp cận tên quan huyện hào đã giết hại cha mình khi xưa trong dịp lễ mừng thọ của hắn. Tam Quan báo thù được cho cha xong thì cũng thắt cổ tự vẫn. Khi nàng chết đi lại rất linh thiêng, được coi như thần vậy.

29. Xấu người đep nết ( Kiều nữ)

Nàng Kiều thị vừa đen vừa xấu, khuyết mũi, thọt chân đã hai mươi lăm, hai mươi sáu cái xuân xanh mà chưa ai hỏi đến. Sau về làm vợ kế chàng họ Mục hơn bốn mươi tuổi đầu goá vợ, nhà nghèo. Chị sinh con trai, sau đó ít lâu Mục chết. Kiều thị ở vậy chịu cực khổ nuôi con. Sau đó chàng Mạnh trong làng cũng góa vợ, định hỏi Kiều thị về làm vợ nhưng Kiều thị quyết giữ chữ đức, không muốn mắc tiếng thờ hai chồng mà từ chối. Sau Mạnh bệnh chết, bọn vô lại trong thôn mưu tính chia nhau chiếm đoạt gia sản của Mạnh. Đứa con nhỏ của Mạnh không ai nuôi nấng. Kiều thị nhận nuôi đứa bé như con, lại giúp lấy lại tài sản cho Mạnh. Kiều thị nuôi nấng con của Mạnh rất tử tế, lại lấy vợ cho nó. Sau bà mất đi, con Mạnh muốn hợp táng bà với ông Mạnh nhưng không được, phải hợp táng chung với phần mộ của ông Mục. Thật là cảm ơn tri kỉ mà đem hy sinh thân mình đền đáp. Cho nên phải coi trọng cái tinh thần bên trong và không nên chú ý đến những hình thức bên ngoài.

30. Vương Quế Am

Vương Cao, tự là Quế Am, con một nhà gia thế, một hôm đi thuyền chơi gặp một cô con gái đang ngồi trên thuyền thêu giày, xinh đẹp tuyệt trần tên là Mạnh Vân Nương. Về nhà chàng cứ tương tư ngẩn ngơ mong nhớ mãi. Quay trở lại chốn cũ tìm nàng thì không gặp lại nữa. Một hôm nằm mộng mà biết được nơi ở của cô gái. Sau có dịp tình cờ, chàng ta đến đúng nơi giống y như trong giấc mộng, gặp lại người xưa, chàng liền hỏi nàng về làm vợ. Một hôm, chàng nói đùa là chàng đã có vợ ở nhà. Vân Nương chạy bỏ đi đâu biệt tăm tích. Hơn một năm sau, có lần Vương vào trú mưa ở một nhà nọ, tình cờ gặp lại Vân Nương, lúc này nàng đã sinh cho chàng một đứa con trai. Thì ra đêm đó, Vân Nương đau buồn nhảy xuống sông tự tử, may nhờ có hai vợ chồng già nhà này cứu vớt được và nhận nàng làm con nuôi. Hai ông bà muốn gả chồng cho mà nàng nhất quyết không nghe. Chàng phân trần lời nói khi xưa chỉ là lời nói đùa, hai vợ chồng sum họp.

31. Duyên lỡ người tiên ( Vân Thúy Tiên )

Vân Thúy Tiên vốn không phải là người phàm trần. Vì nghe lời mẹ mà về làm vợ Lương Hữu Tài, một kẻ ham mê cờ bạc, rượu chè, chơi bời tráo trở, lại muốn bán vợ cho người ta để có tiền nhậu nhẹt cờ bạc. Vân Thúy Tiên biết chồng mình là kẻ xấu xa, muốn bán vợ để có tiền bạc trăm nhưng nàng vẫn đồng ý. Nàng khuyên chồng trước khi bán vợ nên về thăm nhà mẹ đẻ của nàng một bận. Thì ra nhà bà cụ vô cùng giàu sang, đến đó nàng mới ra mặt mắng nhiếc chồng thậm tệ. Sáng ra tỉnh dậy thì tất cả đều biến mất, Lương Hữu Tài bị trừng phạt thích đáng suýt nữa thì mất mạng. Về tới nhà thì trống hoang như ngôi chùa đổ, phải vào núi ở rồi đi ăn xin, sau thì ốm mà chết. 

32. Cởi truồng rượt ma ( Chương A Đoan )

 Chương A Đoan, cô gái xinh đẹp, sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, hung dữ, bất nhân, đánh đập thẳng tay khiến nàng buồn rầu mà chết yểu, xác chôn trong khu nhà nọ trên hai mươi năm. Có chàng Vệ Huy Thích tính gan dạ vào ở trong ngôi nhà rồi gặp hồn ma của nàng, đem lòng yêu. Nàng còn giúp cho chàng gặp lại hồn ma của người vợ cũ đã chết. Sau đó, nàng mắc căn bệnh “mị ám” ( ma  chết hoá ra mị), nhờ người vợ chàng Vệ mời thầy bùa về chữa cho nàng mới qua khỏi nhưng số của nàng không sống lâu ở đời được nữa nên đã qua đời. Nàng chết đi mà vẫn bị hồn ma của người chồng cũ hoá ra mị tối đến đòi mạng. Vợ chồng chàng Vệ làm tuần chay cho vong linh của nàng, nhờ vậy mọi nỗi oan của nàng mới được rửa sạch. Nàng thác sinh làm con gái của một vị thành hoàng. Còn nói về người vợ của Vệ, bị âm ty lùng bắt đi thác sinh ở kiếp khác. Chàng Vệ ở một mình trong căn nhà hoang, mong tái ngộ nhưng không có gì lạ.

33. Một nhà đĩ chồn ( Nha Đầu )

 Nàng Nha Đầu mới mười bốn tuổi, có vẻ đẹp thần tiên, không phải là người mà là chồn, là con gái út của một bà chủ nhà chứa. Bọn vương tôn quí khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, thường bị bà mẹ đánh đập khốn khổ. Có chàng học sinh Vương Văn tình cờ gặp nàng đem lòng quyến luyến, dốc chút tiền mọn nộp lễ mong được gặp nàng. Nàng cảm động trước tấm chân tình thành thực của chàng nên cùng chàng bỏ trốn. Hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc, chàng mở hiệu buôn bán, nàng may thuê thêu mướn, cuộc sống cũng rất phong lưu. Nhưng bỗng tai hoạ ập đến chia lìa hai vợ chồng : mẹ nàng tìm đến bắt nàng đi, chàng đi tìm mà không tìm được. Cách mấy năm sau, chàng tình cờ gặp ngay con trai của mình mà không biết, đem nó về nuôi vì thấy dung mạo của nó quá giống chàng. Thằng bé tên là Tư, lớn lên vạm vỡ, có tài diệt trừ ma quỷ, chồn tinh. Sau đó chàng tình cờ biết được tin tức của vợ : nàng bị mẹ bắt đem về ép gả cho người ta, nàng thề chết không lấy hai chồng nên bị giam giữ như ở tù ngục. Nàng đã sinh hạ một đứa con trai, đó chính là Tư. Tư đi cứu mẹ về, gia đình sum vầy, đoàn tụ.

34. Cậu bé đa tình ( Thanh Nga )

Thanh Nga là con gái của ông Võ Bình Sự, ông là người mộ đạo thần tiên lên núi không về. Nàng chỉ mới mười bốn tuổi, nhan sắc tuyệt đẹp, khi cha vào núi ở ẩn, nàng lập chí không lấy chồng. Có chàng Hoắc sinh đa tình yêu mến Thanh Nga, nửa đêm đào tường khoét vách vào phòng nàng nằm kề bên rồi ngủ thiếp đi. Trải qua nhiều sự rắc rối, biết bao khó khăn, chàng mới lấy được nàng về làm vợ. Nàng sinh cho chàng một người con đặt tên là Mạnh Tiên. Sau đó, nàng bỏ lên động tiên trên núi với cha. Có lần, chàng tình cờ lạc lối đến động tiên đó, gặp lại Thanh Nga, lôi kéo nàng trở về nhà. Nàng quay trở về, sinh cho chàng thêm một người con nữa đặt tên là Trọng Tiên. Sau cả hai vợ chồng bỏ nhà đi đâu mất, đều trở thành tiên cả.

35. Đào mả cô canh ( Canh Nương )

 Nàng Canh Nương xinh đẹp và hiền đức là vợ của chàng Kim Đại Dụng. Vợ chồng rất âu yếm hoà thuận. Trong một lần chạy loạn, Kim dẫn cả gia quyến về miềnNam. Trên đường đi gặp người bạn đường là Vương Thập Bát. Canh Nương có tài nhìn người, vừa nhìn dung mạo của Vương đã biết hắn không phải người tốt, khuyên chồng không nên đi chung với hắn ta nhưng chồng nàng không nghe. Cả gia quyến đều bị tay Vương hãm hại. Nàng may mắn còn sống sót và một tay nàng đã giết Vương trả thù cho chồng rồi nhảy xuống giếng tự tử. Sau nàng được hồi sinh, lại được đoàn tụ cùng chồng.

36. Kết duyên với ong (  Liên Hoa công chúa )

 Chàng Giao Châu Đậu Húc, tự Hiểu Uy, chiêm bao thấy mình được mời đến một lâu đài nguy nga, được tiếp đãi hết sức ân cần. Tình cờ chàng đáp lại được câu đối của chủ nhà, có nhắc đến hai chữ “Liên Hoa”, trùng với tên công chúa, chủ nhà cho là có nhân duyên nên gả công chúa cho chàng. Gia đình nàng có biến, bị quái vật quấy phá. Thì ra nàng là một con ong, “vương quốc” của nàng là một ổ ong to đã ngoài ba mươi năm, sinh đẻ cực nhiều, nay bị một con rắn to đến phá hại. Chàng bèn ra tay cứu giúp xây một ổ ong khác cho chúng ở nhà chàng, lại giết con rắn kia đi. Từ ngày ong vào nhà chàng sinh nở ngày một phồn thịnh hơn.

37. Bà chúa Tây Hồ ( Tây Hồ chúa )

 Trần Bật Giáo, tự Minh Doãn, một dịp nọ đi ngang qua hồ Động Đình, chàng đã ra tay cứu giúp một con thuồng luồng bị thương rất nặng. Hơn một năm sau có dịp quay trở lại nơi ấy thì bị lạc vào một lâu đài trong núi, tình cờ  đấy chính là lâu đài của bà chúa Tây Hồ – con thuồng luồng năm xưa, để đền ơn ân nhân, bà chúa đã gả công chúa cho chàng.

38. Con người quốc sắc ( Mao Hồ )

Mã Thiên Vinh con nhà làm ruộng ngoài hai mươi tuổi goá vợ, vì nghèo mà không cưới nổi vợ khác. Tình cờ gặp một thiếu phụ rồi ăn ở với nhau. Người thiếu phụ này vốn là chồn hoá thân. Mã được người hầu hạ chăn gối lại nảy lòng tham đòi nàng dùng phép thuật giúp cho y tiền bạc. Nàng bảo rằng số của y mỏng manh không xài được bạc thật nên giúp y toàn bạc giả. Y tỏ ý chê nàng không có nhan sắc, nàng bảo với y loài chồn tùy theo hạng người gặp gỡ mà hoá thuật hiện hình. Hạng y thì không có phúc hưởng tiền bạc thì cũng không có phúc được người đẹp. Lại nói với y, nếu so với tụi chân to lưng gù thì nàng chính là quốc sắc rồi. Nàng giúp tiền cho anh ta cưới vợ rồi nói lời từ giã. Thì ra người vợ mà anh ta cưới về là một cô nàng lưng gù, cổ rụt, chân to. Đó là một bài học của chồn dành cho y.

39. Mặc áo lá cây ( Phiên Phiên )

La Tử Phù lưu lạc xa quê lại lâm vào cảnh bệnh tật phải đi ăn xin tìm đường về quê. Một hôm bị lạc vào núi, gặp một thiếu nữ dung mạo như tiên, tên là Phiên Phiên. Nàng giúp chàng chữa khỏi bệnh, lấy lá cây may thành y phục cho chàng mặc. Hai người sống với nhau như vợ chồng, sinh được một người con trai. Khi con trai đã lớn, nàng cưới vợ cho con, con trai nàng rất sáng dạ, có số phú quí. Chàng cùng con trai và con dâu trở về quê cũ của chàng thăm ông chú. Sau chàng thương nhớ Phiên Phiên, dắt con vào núi thăm chỉ thấy lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, ngậm ngùi trở về.

40. Cô Tân thứ mười bốn ( Tân thập tứ nương)

Lão già Mông họ Tân có cả thảy mười chín người con gái, mười lăm cô đã có chồng. Chàng Quảng Bình Phùng có lần tình cờ gặp và yêu mến cô Tân thứ mười bốn. Nàng vốn là chồn tinh, nhan sắc xinh đẹp mĩ miều. Nhờ có bà cô họ xa ( vốn là hồn ma đã chết) đứng ra làm mai mối mà chàng mới cưới được nàng về làm vợ. Nàng có tài nhìn dung mạo của người ta mà đoán biết được lòng dạ, tâm tính, khuyên chồng không nên giao du với tên Sở công tử – bạn đèn sách thuở nhỏ với chàng – để tránh tai vạ và không nên giao du bè bạn, chỉ nên lo việc đèn sách. Nàng lại vô cùng siêng năng, cần kiệm, giỏi làm ăn mua bán. Có lần chàng say rượu chè chén ở nhà Sở công tử, bị tên này vu cho tội giết nàng hầu, bị bắt giam. Nàng sai con hồ tì biến mình đến Yên Kinh, tìm cách gặp thiên tử, giả là con gái của Phùng, vì cha mình bị vu oan nên  bị bán vào hồng lâu, thân phận lưu lạc. Nhờ có kế ấy mà chàng được xét tha tội. Nàng chọn cho chồng một người vợ hiền tên là Lộc Nhi, rồi nói rằng mình đã chán đời phàm tục và xin từ biệt. Chàng lấy Lộc Nhi làm vợ sinh hai con trai, sau chàng đi thi nhưng khoa nào cũng rớt. Nhờ có tiền của nàng để lại mới thoát cảnh sa sút. Về sau có người lão bộc có dịp đi qua núi Thái Hoa, thấy cô Tân mười bốn cưỡi ngựa đi trước, hồ tì cưỡi lừa theo sau. Nàng hỏi thăm chồng và báo cho biết nàng đã thành tiên.

41. Một đêm lấy ma ( Công Tôn cửu nương )

Cửu Nương, họ là Công Tôn, là con gái một nhà dòng dõi bị sa sút, vốn là ma, nhan sắc vô cùng xinh đẹp lại có tài văn thơ. Nàng kết duyên với chàng học trò người huyện Lai Dương. Âm dương cách trở, dù có duyên với nhau cũng không thể gắn bó lâu dài. Chàng trở về cõi trần thế rồi từ đó không có dịp gặp lại nàng Cửu Nương nữa.

42. Yêu hoa đâu dễ biết hoa ( Cát Cân )

 Chàng Thường Đại Dung rất mê hoa Mẫu Đơn, làm cả một trăm bài thơ tứ tuyệt với đề tài “Mong nhớ mẫu đơn”. Đi dạo trong vườn hoa, tình cờ chàng gặp một cô gái nhan sắc xinh đẹp rồi tương tư ngơ ngẩn. Sau hai người nên duyên vợ chồng. Về sau, chàng biết được nàng chính là “tinh hoa” mẫu đơn.

43. Vụ án tình si ( Yên Chi )

 Nàng Yên Chi là một cô gái xinh đẹp, tài sắc đủ cả, là con gái của một người làm nghề chữa bệnh cho trâu. Cha rất mực yêu quí muốn chọn gả cho nhà thanh quí song những bậc giàu sang khinh xuất thân hèn kém không xứng để thông gia nên nàng đã đến tuổi cập kê mà vẫn chưa có nơi chốn. Một dạo tình cờ, nàng Yên Chi phải lòng chàng thư sinh tú tài Ngạc Thu Chuẩn. Nhưng nàng là cô gái hiểu biết lễ giáo, không vì mến yêu mà nhận lời hò hẹn tình tự tư thông mà mong Ngạc có mai mối hẳn hoi và tính cuộc bền lâu trăm năm. Song mọi chuyện lại trở nên rắc rối khi xảy ra một vụ án mạng mà người bị chết là cha nàng và kẻ bị tình nghi là chàng Ngạc. Cuối cùng, khi mọi việc đã được sáng tỏ  thì mới rõ là chàng Ngạc bị oan. Khi văn án được ban bố, có mấy câu kết về nàng Yên Chi : “ Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng  . . Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu”. Bởi vậy mà quan huyện đứng ra tác thành cho nàng và chàng Ngạc.

44.  Hóa quạ lấy vợ thần ( Trúc Thanh )

 Chàng Ngư Dung nhà nghèo, đi thi bị trượt, trở về hết cả tiền phải đi ăn xin. Một lần vào trú trong miếu Ngô Vương, được Ngô Vương cử vào đội “Hắc y”, tức thì chàng biến thành một con quạ đen, lại được ghép cho một con mái tên là Trúc Thanh. Đôi vợ chồng rất yêu thương nhau. Ngư bị bắn trúng bụng, bị thương nặng dù được Trúc Thanh cứu về chữa trị nhưng vẫn chết. Ngư Dung bỗng bừng tỉnh mộng thấy mình vẫn đang ở trong miếu. Chàng về quê cũ, sau đó đỗ cử nhân, có dịp trở lại ngôi miếu xưa, gặp lại nàng Trúc Thanh nay đã làm thần nữ sông Hán. Sau nàng sinh con trai nằm trong bọc thai to như quả trứng lớn. Sau lại đẻ sinh đôi một trai một gái.

45. Tình nghĩa với chim ( A Anh )

 Có chàng Cam Ngọc ra tay cứu giúp  một cô gái –  thật ra nàng là một con chim nhỏ – bị yêu tinh giết hại. Cảm cái ơn ấy mà cô gái đã làm mai nàng A Anh cho em trai của chàng . Nàng A Anh cũng không phải là người mà là một con chim anh vũ. Khi biết người anh chồng  nghi ngờ mình là yêu tinh, nàng nói rõ mọi sự rồi cất cánh bay đi mất. Thì ra nàng chính là con chim anh vũ mà khi trước Cam ông đã nuôi, khi đó cậu Giác mới bốn, năm tuổi, ông nói đùa sau này chim sẽ làm vợ Giác. Giác biết vợ không phải là người nhưng nàng biến đi thì lòng thương nhớ không nguôi. Về sau, trong một lần chạy loạn, tình cờ gặp lại A Anh, nàng ra tay cứu giúp mọi người khỏi cơn nguy biến, lại có tài biến hoá người xấu trở thành người đẹp. Gặp lại chồng, nàng A Anh kiên quyết không quay trở lại làm vợ chàng như xưa vì nàng vẫn còn oán người anh trai của Giác. Sau nàng bị một con mèo cắn chảy máu một bên cánh, rồi nàng vỗ cánh mà bay đi mất.

46. Chồn quỷ tranh chồng ( Liên Hương )

 Nàng Liên Hương ( chồn ) và nàng Lý ( ma)  cùng tranh nhau chàng tang sinh tên Hiển. Phần về chàng Hiển, ngày càng bệnh nặng vì căn bệnh ma ám. Liên Hương ra sức cứu chữa cho chàng và dặn dò chàng muốn khỏi bệnh thì đừng qua lại với Lý nữa. Nhưng chàng Hiển vì ham mê sắc đẹp quá đỗi, lại nghĩ rằng nàng Liên Hương vì ghen mà nói vậy nên vẫn tiếp tục qua lại với Lý đến nỗi bệnh nặng sắp chết. Thì ra Lý vốn là con của ông Thông Phán nhỏ tuổi đã chết non, chôn ở ngoài vách tường nhà Hiển. Sau đó thì hai nàng cùng chung sức chữa bệnh cho Hiển và coi nhau như chị em. Lý được đầu thai nhập vào một cô gái tên là Yến Nhi. Hiển cưới Yến Nhi về làm vợ. Liên sinh cho chàng một đứa con trai rồi chết và nàng cũng được đầu thai nhưng lại đầu thai thành một cô gái mười bốn tuổi, không nhờ gì về kiếp trước của mình. Hiển bỏ tiền ra mua cô gái ấy về với giá rất đắt. Rồi sau đó nàng cũng nhớ lại được kiếp trước của mình. Hai người vì tình chị em gắn bó nên lấy xương cốt chôn chung vào một huyệt.

47. Háo sắc lụy mình ( Phong Tam nương )

Phong Tam Nương và cô Mười một họ Phạm con quan Tế Tửu là đôi bạn tri kỉ rất tâm đầu ý hợp, tình cảm quyến luyến không muốn rời. Phong Tam Nương có tài nhìn người mà đoán trước được hậu vận về sau nên biết được chàng tú tài Mạnh An Nhân về sau sẽ đỗ đạt nên nàng muốn se duyên cho cô Mười một. Nhưng vì nhà chàng quá nghèo nên gia đình cô Mười một không ưng, ép gả cô cho con nhà ông quan nọ. Hôm trước ngày cưới, cô thắt cổ tự vẫn. Phong Tam Nương dùng phép thuật giúp cho cô Mười một hồi sinh nhờ vậy mà cuộc nhân duyên mới thành. Thì ra nàng Phong Tam Nương là chồn tinh. Còn về phần chàng Mạnh, về sau thi đậu cả hương lẫn hội được bổ chức Hàn Lâm.

48. Cắt thịt vì tình ( Liên Thành )

 Nàng Liên Thành có tài thêu thùa rất khéo lại hay chữ. Nàng là con gái yêu của ông cử nhân Hiếu Liêm. Nàng cảm mến tài thơ của chàng Kiều sinh mà đem lòng yêu dấu nhưng gia đình chàng quá nghèo cho nên cuộc tình duyên bị ngăn trở. Kiều sinh không tiếc gì việc cắt thịt của mình để cứu nàng qua cơn bệnh nặng nhưng Liên Thành đã được hứa gả cho nhà họ Vương. Nàng vì u uất mà chết đi trước khi được gả về nhà họ Vương. Kiều sinh đến viếng tang rồi cũng chết giấc. Hai người gặp lại nhau nơi cõi âm và may mắn được cùng nhau hoàn hồn về dương gian.

49. Báo ứng trước mắt ( A Hà )

Nàng Tề A Hà vốn là chồn hoá thân, có dung mạo rất xinh đẹp. Nhờ âm đức ông bà để lại nên biết được tên chàng Cảnh sinh sẽ được ghi vào bảng vàng nên muốn nương tựa vào chàng. Nhưng chàng Cảnh sinh vì người đẹp mà phụ rẫy người vợ của mình một cách tàn nhẫn nên nàng đã biết chàng ta là con người phụ tình. Cũng vì tội ấy nên Cảnh sinh bị thần thánh xử phạt rút tên anh ta khỏi bảng vàng của kì thi năm ấy. Nàng A Hà lấy chàng Trịnh, là người thi đậu khoa thi đó. Còn về phần Cảnh thì gia đạo ngày càng sa sút phải ăn nhờ ở đậu bạn hữu. Có lần ngẫu nhiên, Cảnh đến nhà Trịnh, nàng A Hà động lòng thương khuyên chồng giúp cho y manh quần tấm áo lại đem hơn hai mươi đồng của nàng để dành ra tặng cho y  để đền đáp nghĩa cũ. Nàng khuyên chàng Cảnh nên tìm lấy một người tử tế làm vợ rồi sau này mở mày mở mặt cho con cháu mai sau. Cảnh lấy một con hầu ở nhà khoa cử trong miền làm vợ, nàng ta vừa xấu vừa dữ, sau sinh một con trai đỗ đại khoa.

50. Cái đầu kẻ thù ( Hiệp nữ )

Có cô gái người Triết Giang, cha làm quan Tư Mã, bị kẻ thù hãm hại, tịch thu mất ráo cửa nhà sản nghiệp. Nàng dẫn mẹ già đi trốn, mai danh ẩn tích đã ba năm. Nàng kết duyên với chàng Cố sinh, khi mẹ già qua đời, nàng đợi sinh cho chàng Cố một đứa con trai rồi sau đó ra tay chặt đầu kẻ thù. Sau khi trả thù cho cha, nàng để con ở lại cho chàng mà ra đi. Ba năm sau chàng mất, đứa con mười tám tuổi đậu tiến sĩ.

51. Lâm Tứ Nương

 Nàng Lâm Tứ Nương là cung nhân trong phủ Hành, gặp nạn biến mà chết đã mười bảy năm, thấy Trần Công Bảo Thược – quan đạo Thanh Châu – là bậc cao nghĩa nên gửi thân làm vui. Nàng rất giỏi âm nhạc, thường hay hát những khúc hát thê lương làm người nghe bùi ngùi cảm thương, lại có tài thơ phú và nhan sắc thì cực kì xinh đẹp. Sau vua âm phủ vì biết nàng khi sống vốn không có tội mà vẫn còn chăm chỉ không quên việc đọc kinh nên cho sinh vào một nhà vua. Vì vậy nàng phải nói lời từ biệt với Trần, khi đi có để lại cho Trần một bài thơ.

52. Phiên chợ giữa biển ( La Sát hải thị )

Chàng Mã Tuấn con nhà buôn bán, nổi tiếng học giỏi nhưng người cha già yếu của chàng khuyên con : “mấy quyển sách không thể nấu mà ăn khi đói, khi rét không thể may mà mặc” nên khuyên chàng nghỉ học, làm thương mại. Chàng đi buôn ngoài biển bị lạc tới một hòn đảo lạ. Trên đảo này kẻ xấu xí được xem là đẹp và càng xấu thì càng được làm chức quan to. Chàng bôi lem dung mạo mình đi thì được vua cử làm chức Hạ đại phu. Có lần chàng đi dự một phiên họp chợ biển, nơi mà người ta mua bán những vật quí dưới biển thì tình cờ gặp được Đông Dương tam thế tử dẫn chàng đi thăm thuỷ cung của Long Vương. Long Vương gả con gái cho chàng. Sau nàng sinh hai con một trai một gái. Chàng trở về quê xưa phụng dưỡng cha mẹ già, hai con cùng về với chàng. Còn nàng ở lại long cung giữ trọn lòng thuỷ chung, lại giữ chữ hiếu với mẹ chồng, về đưa tang khi bà cụ mất.

53. Tinh cúc – nghề hoa ( Hoàng Anh )

 Có chàng Mã Tử Tài, gia đình có truyền thống quý chuộng hoa cúc, đến chàng càng say mê gấp bội. Trên đường đi Kim Lăng để tìm giống cúc quý, chàng tìm được hai giò cúc rất quý và giữ gìn cẩn thận như của báu. Về giữa đường, chàng tình cờ gặp hai chị am nhà nọ, cậu em họ Đào, người chị tên là Hoàng Anh. Đào và Mã đều yêu hoa cúc nên Mã mời hai chị em họ về nhà mình ở chung. Sau khi vợ Mã chết, chàng lấy Hoàng Anh làm vợ. Hai chị em họ đều có tài trồng cúc rất đẹp và buôn bán cúc rất phát đạt. Thì ra hai chị em nhà họ vốn là tinh cúc.

54. Lấy vợ công chúa ( Vân La công chúa )

An Đại Nghiệp mới lọt lòng mẹ đã biết nói, lớn lên đẹp trai, thông minh học giỏi. Người mẹ thường chiêm bao thấy số con trai mình sẽ lấy công chúa, không ngờ một hôm chàng gặp được công chúa thật. Đó là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Công chúa vốn không phải người phàm trần, mình nhẹ như trẻ thơ, có tài đoán trước mọi việc. Nàng sinh hạ cho chàng một con trai. Chàng thi đậu, khoe với vợ nhưng nàng không hề vui mừng mà trái lại, nàng tỏ vẻ buồn rầu, cho đó là thứ danh vọng hảo, là vương phải tục luỵ. Chàng nghĩ lời vợ nói phải nên từ đó không muốn học hành thi cử gì nữa. Sau, nàng sinh thêm một con trai nữa. Con trai trưởng là Đại Khí, lớn lên, giống như lời mẹ tiên đoán từ trước : thi đậu và đỗ đạt, lại rất hiếu hạnh; còn Khả Khí, người con trai thứ hai, thì lại trái ngược hẳn với anh, ham chơi lêu lổng.

55. Phan Trần đùa mà hơn thực ( Trần Vân Thê )

Chàng Châu Dục Sinh học giỏi, đẹp trai, lúc nhỏ có thầy tướng đoán sau này sẽ lấy vợ đạo cô. Quả thật sau này chàng tình cờ gặp được bốn cô gái đạo cô, trong đó chàng để ý cô trẻ nhất tên là Trần Vân Thê. Khác với những cô kia có chiều lả lơi với Châu, Vân Thê e dè khép nép, không muốn cùng chàng hẹn hò tư thông mà khuyên chàng lo tiền chuộc nàng về một cách chính thức. Trải qua biết bao khó khăn gian khổ hai người mới nên duyên vợ chồng  một cách cũng thật là tình cờ. Sau nàng còn cưới Vân Miên ( là một trong bốn cô nàng đạo sĩ ) cho chồng.  Sinh thì thi đi thi lại không đỗ, chỉ có người con trai của Vân Miên và Sinh thì thi đậu cử nhân.

56. Bành Hải Thu

Nho sinh Lai Châu là Bành Hiếu Cổ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa, trung thu không về, cùng chàng họ Khâu và chàng Bành Hải Thu chuyện trò đối ẩm. Chàng Hải Thu mời một nàng danh kỹ xinh đẹp như tiên, tuổi khoảng đôi tám từ Tây Hồ xa ngàn dặm tên là Quyên Nương đến hát khúc hát “Chàng bạc tình” giúp vui.  Lúc chia tay nàng, chàng Bành bịn rịn bồi hồi, từ đấy không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau, trong một chuyến đi thăm người anh rể, vào bữa tiệc có nhiều con hát đàn ca, tình cờ chàng gặp lại Quyên Nương. Lúc này Bành mới biết nàng là con hát số một Quảng Lăng. Hai người vui mừng khôn xiết. Bành bỏ ra ngàn vàng chuộc thân cho nàng rồi đưa nhau về quê.

57.Bộ da vẽ ( Hoạ bì )

Thư sinh họ Vương một hôm đi sớm, gặp một người con gái ôm bọc quần áo đi một mình, chân bước ra dáng khó nhọc. Vương vội đi vượt lên nhìn, thì ra là một cô gái tuổi chừng đôi tám, nhan sắc tuyệt vời. Bụng yêu thích lắm, chàng liền cất lời hỏi han rồi chung chạ với nàng. Thì ra nàng là một con quỷ nanh ác, mặt xanh lét, răng chơm chởm như răng cưa, khoác tấm da người có vẽ đầy đủ mắt mũi tay chân. Chàng Vương mời đạo sĩ giúp trừ diệt yêu ma nhưng khi chàng đem bùa về nhà định trừ nó thì bị nó moi bụng giết hại. Vợ chàng là Trần thị mời đạo sĩ về tiếp tục trừ diệt yêu nghiệt, rồi theo lời đạo sĩ, chịu bao nhiêu là khổ nhục, phải nuốt đờm dãi hôi thối của người điên ở chợ để cứu chồng sống lại nhờ vậy mà cứu được chồng.

57. Xảo Nương

Chàng Liêm con của ông quan họ Phó miền Quảng Đông rất thông tuệ nhưng chẳng may bị “trời hoạn” ( liệt dương ). Chàng đã mười bảy tuổi mà không một nhà có con gái nào dám nhận lời hứa gả. Liêm theo thầy học tập, một hôm trốn thầy đi xem xiếc khỉ, sợ về thầy mắng nên bỏ trốn luôn. Đang đi trên đường thì thấy một nàng áo trắng có khuôn mặt diễm lệ ít ai sánh được. Nàng nhờ chàng gửi hộ phong thư cho người mẹ già ở kẻ Quỳnh. Chàng nhận lời rồi lên đường. Tối, đến đất Quỳnh Châu, lạc vào một nơi sân viện, thấy một cô gái vẻ người xinh đẹp có một, khoảng mười bảy, mười tám tuổi tên là Xảo Nương. Nàng mời chàng nghỉ lại, định cùng chàng vui chốn buồng the. Nàng Xảo Nương buồn tủi, rưng rưng ngấn lệ, tự thương mình phận bạc. Nàng Xảo Nương tài sắc vô song nhưng số phận gập ghềnh trắc trởsống đã vớ phải anh chồng hoạn, ẩn ức ôm hận mà chết đi. Khi đã làm ma cũng lại gặp ngay kẻ bị liệt dương. Bà già Hoa Cô – mẹ của cô gái mặc áo trắng mà chàng gặp trên đường – chính là chủ nhà mà Xảo Nương đang ở nhờ, khi về đến nhà, hay chuyện mới đưa cho chàng một viên thuốc thần kì, khiến chàng trở thành một gã trai cường tráng rồi gán ghép con gái mình là Tam Nương cho chàng một cách lén lút. Ở với Tam Nương nhưng chàng cứ mãi quyến luyến Xảo Nương, bèn tìm cơ hội đền đáp cho nàng. Hai người bị Hoa Cô bắt quả tang. Hoa Cô giục chàng quay trở về nhà thu xếp tính chuyện trăm năm. Khi chàng quay trở lại tìm Xảo Nương thì mới hay nàng đã mất. Thì ra khi mẹ con Tam Nương ra đi không báo cho nàng một tiếng, nàng ở lại ôm hận mà gào khóc dưới mồ. Kết duyên với Tam Nương nhưng chàng cứ nhớ đến Xảo Nương. Chàng quay trở lại tìm nàng thì thấy Xảo Nương ẳm một đứa trẻ từ trong mồ chui ra, đó chính là con chàng. Sau đó, Xảo Nương về làm vợ chàng Liêm, cùng Tam Nương sống rất hoà thuận lại rất hiếu lễ với cha mẹ chồng.

59. Cô Tú ( A Tú )

Chàng Lưu Tử Cố quê ở Hải Châu, năm mười lăm tuổi đến đất Cái thăm cậu, thấy trong cửa hiệu tạp hoá có một cô gái yểu điệu, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, lần vào giả vờ mua hàng. Nàng họ Diêu, tên là A Tú. Ra về, chàng bâng khuâng vơ vẩn không khuây, đem những thứ đã mua cất giấu vào trong một cái tráp, lúc vắng người lại khép cửa giở xem rối tưởng nhớ ngẩn ngơ. Năm sau lại đến đất Cái tìm cô gái thì cửa ngõ đóng chặt không thấy người đâu. Chàng về giảm ăn kém ngủ. Khi biết nàng đã được hứa gả cho người khác, chàng về nhà cúi đầu ngao ngán, lòng nguội như tro, hi vọng mất hết, ôm tráp mà khóc, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong thiên hạ lại có người giống như thế. Thế mà có thật! Đó là một người thiếu nữ họ Lý, vốn là hồ ly, có dung mạo giống hệt A Tú. Hai người cùng chung chăn gối. Thì ra kiếp trước A Tú không may chết yểu, nàng là chị của A Tú, muốn bắt chước dung mạo của em mình. Sau này chàng cũng được gặp lại nàng A Tú “thật” trong một cơn loạn lạc. Lưu đem nàng cùng về và hỏi cưới nàng làm vợ. Còn A Tú “giả” thì lúc đầu có lúc ẩn lúc hiện ở nhà chàng, sau đó vài năm thì đi đâu mãi không trở về.

60. Đại Nam

Hề Thành Liệt là một bậc sĩ nhân ở Thành Đô có một người vợ và một người thiếp họ Hà. Sau vợ chết, lấy thêm một người vợ kế họ Thân. Người vợ kế đố kị, ngược đãi người thiếp họ Hà. Hề giận dữ bỏ đi mất. Sau khi chồng đi, họ Hà sinh được một con trai là ĐạiNam. ĐạiNamrất thông minh, sáng dạ, khi đã lớn, chàng ra đi tìm cha. Chàng cứ đi lang thang mà tìm, không biết cha ở đâu. Được nhiều người tốt trên đường đi giúp đỡ nhưng vẫn không tìm được. Lại nói về người thiếp họ Hà, ở nhà bị Thân thị ức hiếp, bắt phải tái giá. Hà ý chí không chút lung lay. Lại bị ép bán cho một lái buôn, đến đêm Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn lại đem bán cho một người khác, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng. Khỏi rồi, chỉ muốn làm vãi. Tình cờ lại gặp được Hề sau bao nhiêu năm xa cách. Hề lập nàng làm chính thất. Sau Hà khuyên chàng mua thiếp, lại mua đúng Thân thị. Thành ra thiếp thành cả mà cả lại thành thiếp! Hà sống rất khoan dung với Thân thị. Sau đó, lại gặp lại ĐạiNam, nay đã làm quan huyện lệnh nên cả nhà được đoàn tụ.

61. Đảo tiên ( Tiên nhân đảo )

Vương Miễn có văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tính khá kiêu căng hay trách mắng làm người khác bị nhục. Có lần được một vị đạo sĩ đưa lên trời chơi. Đạo sĩ mở tiệc mời khách. Khách khứa đến dự tiệc cưỡi rồng cưỡi hổ, chim loan, chim phượng  . . .Trong số đó có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung cấm mang đàn đến. Vương chăm chăm nhìn người đẹp, đã yêu lại muốn nghe nhạc. Tài đàn của nàng không có ai cùng sánh, khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách phiêu diêu. Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn càng mệt vấn vương. Trên đường trở về nhà, Vương vì không nghe theo lời đạo sĩ, hé mắt nhìn nên bị rớt xuống biển, được một cô gái hái sen cứu giúp đưa về đảo tiên cách xa hẳn cõi người. Ở đảo tiên, Vương được gặp nàng Phương Vân xinh đẹp rực rỡ, dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng không chỉ xinh đẹp mà còn rất giỏi chữ nghĩa, ứng đối rất tài tình. Nàng cùng cô em gái mấy lần làm cho Vương phải xấu hổ, mất mặt, không còn dám kiêu căng vì tài văn của mình nữa. Hai người nên vợ nên chồng, tình nghĩa rất thắm thiết. Có lần chàng lén vợ tình tự với con hầu, là cô gái hái sen dạo nọ, bỗng dưng bị bệnh khó nói, may mà Phương Vân chữa cho mới khỏi. Sau nàng theo chàng Vương về quê, rất hiếu thuận với bố chồng. Vương về nhà, khiêm nhường khác hẳn thuở trước. Sau đó hai vợ chồng cùng lâu đài nhà cửa biến mất cả.

62.Thứ cỏ giết người ( Thủy mảng thảo )

Thủy mảng là loài cỏ độc. Ai lỡ ăn lầm chết ngay, liền hoá thành con thủy mảng. Tục truyền thứ ma này không được luân hồi, phải có người khác trúng độc chết để thay, bấy giờ mới được thác sinh. Một hôm chàng Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên ( bạn cùng sinh một năm với mình ), nửa đường khát nước, ghé vào một quán ven đường. Bà già chủ quán mời mọc rất ân cần, chàng ngửi nước thấy có mùi lạ không uống, định ra đi. Bà vội ngăn lại, bảo Tam Nương pha chén trà ngon cho khách. Tam Nương tuổi chừng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp. Chàng đỡ chén trà mà tâm hồn ngây ngất. Nàng là Khấu Tam Nương, vốn có tiếng sắc đẹp, vì ăn nhầm thủy mảng mà qua đời. Chàng uống phải nước thủy mảng nên chết, để lại một người mẹ già và đứa con thơ dại, vợ đi lấy chồng khác. Hồn ma của chàng hiện về, bảo với mẹ là dẫn vợ về phụng dưỡng. Thì ra nàng Tam Nương được đầu thai, chàng đuổi theo bắt nàng trở về và buộc làm vợ chàng. Hai hồn ma sớm tối coi sóc nhà cửa, phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ. Hồn ma của chàng còn giúp cho nhiều người trúng độc cỏ thủy mảng thoát chết. Sau chàng được thượng đế phong cho làm chức Tứ Độc Mục Long Quân.

63. Tay áo làm mai ( Củng tiên )

Có vị đạo sĩ nọ tài thuật phi thường, có phép biến ảo thần kì, vào phủ Lỗ Vương dâng nhạc giúp vui. Đạo sĩ mò trong tay áo ra những mĩ nhân đều là thần tiên trên trời, hát múa tuyệt vời, lại có cả nàng Chức Nữ may áo cho nhà trời.  Vương rất trọng đạo sĩ, muốn gữ lại ở trong phủ nhưng đạo sĩ vẫn ở nhà của Thượng tú tài. Nguyên trước Thượng tú tài nhân tình với đào hát Huệ Kha, đôi bên thề thốt lấy nhau. Huệ hát cực hay, đường tơ giọng hát vang dậy một thời. Lỗ Vương nghe tiếng mời nàng vào ở trong phủ hầu hạ, vì thế mà Thượng tú tài và nàng đứt tuyệt đi lại, thương nhớ muốn chết mà không có cách nào thông tin được với nhau. Nay Thượng tú tài nhờ đạo sĩ giúp, đạo sĩ bảo Thượng tú tài chui vào ống tay áo của mình để đạo sĩ mang vào phủ. Đó là một ống tay áo thần kì, sang trọng thoải mái đầy đủ tiện nghi. Hai người gặp nhau trong ống tay áo, mừng vui khôn xiết. Nàng Huệ Kha có thai, sinh một đứa bé trai. Sau nhờ có cái áo vấy máu người đẻ mà đạo sĩ để lại làm thuốc cho nàng ái phi của Lỗ Vương mà Thượng tú tài và nàng Huệ Kha được đoàn tụ.

64. Chuyện ở đảo thần tiên ( Phấn Điệp )

Dương Viết Đán là sĩ nhân đất Quỳnh Châu, có lần đi thuyền qua biển chẳng may gặp gió bão, lạc đến một hòn đảo thần tiên. Trên đảo, tình cờ chàng được gặp người cô thứ mười của mình. Cô Mười của chàng là một cô gái trẻ chỉ khoảng mười tám, mười chín, dáng vẻ lộng lẫy, có cái tài chơi đàn rất tuyệt diệu, âm thanh cứ theo ý mà thành điệu khoan nhặt, bổng trầm thành thục y như theo một bài sẳn có. Dương lắng nghe cô Mười đàn khúc “gió biển bạt thuyền” mà cảm thấy mình như đang lênh đênh trên thuyền, sóng gió cuồn cuộn hất lên dội xuống. Trong nhà cô Mười có một cô hầu gái đôi mắt long lanh như làn thu thủy, dáng vẻ tình ý rất mực dễ thương tên là Phấn Điệp làm Dương bổi hổi, mê mẩn cả thần hồn. Cô Mười biết được có vẻ không hài lòng, tỏ ý tức giận và bàn tính với chồng định gả nàng cho chàng Dương. Trước khi Dương lên đường quay trở về nhà, cô Mười dạy hết cho Vương những ngón đàn tuyệt diệu của mình. Về đến nhà, nghe mọi người trong nhà kể lại, Dương mới biết, cô Mười là người cô Út của chàng, sinh ra đã có dáng vẻ tiên nữ. Gia đình hứa gả cho họ Ân, chú rể mới mười tuổi, vào núi không thấy trở về. Cô Mười đợi đến ngoài hai mươi tuổi, bỗng nhiên không ốm đau gì mà mất, chôn cất đến nay đã hơn ba chục năm. Dương từ đảo tiên quay về nhà có một mình, mong mãi mà không thấy Phấn Điệp đâu. Sau đó hơn một năm, Dương hỏi cưới một cô gái con ông tú tài họ Tiền về làm vợ, cô dâu về nhà chồng thì ra chính là Phấn Điệp.

65.    Duyên tiên âm phủ  ( Cầm sắt )

 Chàng thư sinh họ Vương ở Hán Thủy lấy phải người vợ kiêu ngạo, coi chồng như con ở. Một mình chị ta chễm chệ ăn uống của ngon vật lạ, còn chồng chỉ có cơm hẩm rau già.  Năm mười chín tuổi, Vương đi thi khoa đồng tử ( khoa thi chọn trò học giỏi, cung cấp cho học trường Giám của nhà nước ) bị hỏng, về nhà lại có chuyện gây gổ với vợ. Vương uất quá  bỏ đi vào trong núi, định tìm chỗ tự vẫn nhưng lại lạc vào một nơi vô cùng kì lạ gọi là “Vườn cứu tế kẻ cô độ” của một cô con gái Tiết hầu ở Đông Hải tên là Cầm Sắt, có bản tính rất từ bi. Nàng đã lập một sở cứu tế những kẻ cô độc, thu nuôi các hồn ma ở dưới chín suối bị chết bất đắc kì tử, không còn chốn đi về. Vương ở lại nơi ấy và xin làm công việc trông coi sổ sách. Vương làm việc rất siêng năng, lại giữ mình nên được Cầm Sắt ban thưởng rất hậu. Có lần, trong một đêm có bọn cướp vào nhà, Vương đã ra tay cứu giúp Cầm Sắt, vì nàng mà bị hổ cắn gãy cả cánh tay. Sau việc đó, Cầm  Sắt cảm cái ơn của chàng nên muốn trao thân gởi phận làm nương tử của chàng. Thì ra Cầm Sắt là tiên trên trời bị trích giáng, tự nguyện nuôi các âm hồn để chuộc lỗi. Sau đó chàng Vương và Cầm Sắt trở về chốn dương gian. Cả thảy Vương có đến bốn người vợ. Người vợ cả khi Vương bỏ đi vào núi, ở nhà ngoại tình với người lái buôn, khi Vương về sợ quá thắt cổ chết. Người lái buôn có một người thiếp xinh đẹp trẻ tuổi, Vương cưới luôn làm thiếp. Nàng Cầm Sắt là vợ Vương và ngay cả nàng hầu Xuân Yến của Cầm Sắt cũng có thai với Vương, đẻ một cậu con trai. Một hôm, nàng dắt cô hầu gái ra đi và thôi không trở lại nữa. Vương sống đến tám mươi tuổi, đột nhiên đem theo lão bộc đi đâu mất không về.

66.    Nghĩa khí cải hoá hồn ma ( Nhiếp Tiểu Thiện )

 Chàng Ninh Thái Thần người Triết Giang tính tình khảng khái, chính trực, tự trọng, thường tuyên bố với mọi người : “Ngoài vợ chính ra, bình sinh không biết đến người đàn bà thứ hai”. Có lần đi Kim Hoa, nghỉ nhờ ở nhà một bậc sĩ nhân bên cạnh chùa. Đang đêm thì có một người con gái vào nằm cạnh, Ninh liền to tiếng đuổi ra ngay. Đêm sau cô gái lại mò đến, thấy Ninh là người cứng rắn, không dám dối lừa, mới nói thật rằng, nàng họ Nhiếp, tên là Tiểu Thiện, chết yểu năm mười tám tuổi, chôn ở cạnh chùa. Nàng bị yêu tinh cưỡng ép phải làm những điều kinh tởm hèn hạ, phải đi giết hại nhiều người để lấy máu cho yêu tinh uống, lòng chẳng vui thú. Nàng sợ ma quỷ sẽ hại tới chàn nên bày kế cứu giúp cho chàng, lại dặn chàng nếu đoái thương xin giúp mang nắm xương tàn nơi mộ cũ của nàng về chôn cất tử tế. Sau khi chôn cất nắm xương tàn của nàng tử tế, Vương định quay về  thì thấy nàng Tiểu Thiện hiện ra, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng xin cùng chàng về nhà lạy tạ song thân.Mẹ chàng sợ nàng là yêu ma, không cho làm vợ mà chỉ cho kết nghĩa anh em. Không bao lâu vợ Ninh chết, mẹ chàng thấy nàng cũng không phải là kẻ yêu quái hại người, lại vô cùng chăm chỉ, hiếu thuận nên đồng ý cho hai người nên nghĩa vợ chồng. Sau đó mấy năm, Ninh đỗ luôn tiến sĩ, Tiểu Thiện sinh một con trai.

67. Tấm gương hiện hình ( Phượng Tiên )

Lưu Xích Thủy, người Bình Lạc, thuở trẻ vừa thông minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm, anh ta mải mê chơi bời bỏ học. Một tối, bắt gặp một đôi nam nữ đang trăng hoa trên giường của mình, hai người vùng bỏ chạy nhưng sót lại cái quần tía.  Con hầu quay lại xin, chàng không cho, con hầu hứa sẽ hiến cho cậu vợ đẹp. Như lời hứa, đó là cô ba Phượng Tiên, nàng là em gái của người thiếu phụ mà chàng bắt quả tang trong phòng mình hôm nọ, chính là hồ ly. Sau đó một thời gian, Phượng Tiên nói lời từ biệt vì phải theo gia đình đi nơi khác. Hai năm trôi qua, nỗi tưởng nhớ trong Lưu ngày càng da diết. Sau có dịp tình cờ đến ngay nhà nàng, trong buổi tiệc, nàng cảm thấy buồn tủi vì cha mình có vẻ không xem trọng chàng Lưu, vì chàng ta  thân phận nghèo hèn, không phải là bậc quan lại giàu có như  người anh rể của nàng. Nàng tặng cho Lưu một tấm gương và dặn chàng, chỉ khi nào chàng chăm chỉ đèn sách bài vở thì mới thấy được mặt nàng trong gương. Cứ thế, mỗi khi nhớ nàng, chàng ta phải chăm chỉ ôn luyện thì hình ảnh nàng trong gương mới hiện ra, cho nên hai năm sau, chàng đi thi thì đỗ luôn, được bổ làm quan, mùa xuân năm sau thi hội, đỗ luôn tiến sĩ.

67.    Hồ như thần ( Tiểu Mai )

  Vương Mộng Trinh, con nhà thế gia ở Mộng Am có lần tình cờ thấy một bà lão ngồi khóc ở giữa đường, chàng bỏ tiền túi ra cứu  đứa con của bà thoát khỏi án tử hình. Thì ra bà ta không phải là mẹ của chàng trai ấy mà chính là một con hồ già, hai mươi năm về trước, có đêm đã ân ái cùng cha chàng ta, không đành lòng thấy hắn chết nên xin chàng cứu hắn. Để trả ơn chàng ta, bà lão nhân biết được người vợ của chàng ham thờ Phật đang bị bệnh nặng mà bắt con gái giả làm thần, ngày đêm chăm sóc, rồi khi phu nhân chết đi, nàng về làm vợ của chàng. Nàng vô cùng đảm đang, lo toan xếp đặt mọi việc trong nhà. Mọi việc trong nhà đều tốt đẹp hẳn lên, chỉ mới vài năm, ruộng liền bờ, kho đầy dãy. Nàng sinh con trai có nốt ruồi son nơi cánh tay, đặt tên là Tiểu Hồng. Có lần nàng đoán trước vận xấu sắp tới, ẳm con ra đi. Trước khi đi còn dặn dò Vương cách thoát khỏi nạn dịch tả nhưng Vương ở nhà không làm đúnh lời dặn ấy nên đã qua đời. Vương mất, bọn vô lại trong làng ức hiếp người nhà, bòn rút của cải. Đúng lúc ấy nàng quay trở về, trừng trị bọn ác ôn, thu lại của cải. Sắp đặt mọi việc xong, nàng giao con cho người thiếp rồi đi đâu mất.

68.    Giấc mộng vợ hồ  ( Hồ mộng )

Câu chuyện kể về một người bạn của Bồ Tùng Linh – tác giả Liêu trai, tên là Tất Di Am, tính tình phóng túng ít ai bì, có khuôn mặt đẫy đà, râu rậm. Tất đọc truyện do Bồ Tùng Linh chép, nhất là truyện “Thanh Phượng”, tỏ ý rất hâm mộ, chỉ hận nỗi sao mình chưa một lần được gặp hồ, thường hay đắm đuối tơ tưởng. Một tối đang nằm ngủ thì trong giấc ngủ thấy có một người đàn bà đến nói là hồ ly, vì cảm tấm lòng của ông mà đến. Bà ta có một đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, tuyệt thế giai nhân, sẽ đưa đến để nâng khăn sửa túi cho Tất. Nàng rất giỏi đánh cờ, chỉ bảo thêm cho Tất, được vài tháng Tất tiến bộ khá rõ. Nàng thấy Tất mê truyện Liêu trai, hâm mộ nàng Thanh Phượng thì mong muốn Tất ngỏ ý với “ông Liêu trai” bạn chàng chép cho một thiên tiểu truyện để ngàn năm sau người đời còn biết đến nàng. Sau đó nàng được Tây Vương Mẫu triệu đi làm Hoa điển sứ, không trở về nữa.

70.  Lớp học ma ( Tiểu Tạ )

 Chàng học trò Đào Vọng Tam tính tình phóng khoáng, không hề sợ ma, ở nhờ nhà quan Bộ lang, là một căn nhà có nhiều ma quỷ thường hiện hình nhát người, đã bỏ hoang từ lâu.  Chàng vừa dọn đến ở thì chập tối đã có hai cô gái là Kiều Thu Dung và Tiểu Tạ, cả hai đều xinh đẹp hiện ra quấy phá, trêu chọc chàng. Ngày lại ngày dần quen thân, cùng nhau nói chuyện phiếm. Đào dạy cho hai cô gái viết chữ. Hai cô gái coi Đào làm thầy. Tiểu Tạ còn dẫn cả cậu em trai là Tam Lang đến xin học. Tiếng đọc sách râm ran nhà cửa. Đào trở thành thầy đồ một lớp học toàn ma. Đào đi thi, vì tính chàng hay làm thơ đả kích việc thời sự, động chạm đến bậc quyền quý trong huyện nên bị bọn chúng hãm hại, bắt bỏ ngục. Thu Dung lẻn vào ngục đem cơm gạo cho chàng, Tam Lang tìm cách đội đơn kêu oan cho chàng. Chẳng may Thu Dung bị viên phán quan mặt đen ở miếu Thành Hoàng bắt, cưỡng bức làm vợ bé, Thu Dung không chịu cũng bị nhốt vào ngục tối. Chàng Đào có Tam Lang giúp, được thả ra. Sau đó Thu Dung cũng được thả. Có vị đạo sĩ cho hai lá bùa, Thu Dung may mắn được đầu thai. Đào cưới Thu Dung làm vợ. Rồi Tiểu Tạ cũng được trở lại làm người. Sau đó Đào thi đỗ tiến sĩ.

71.      Ma học đàn ( Hoạn Nương )

Ôn Như Xuân mê say đàn cầm từ nhỏ, rất siêng năng tập luyện. Có lần chàng đi chơi Sơn Tây, được một vị đạo sĩ dạy cho những khúc đàn vô cùng tuyệt diệu, trần gian không ai sánh kịp. Trên đường trở về nhà, nghỉ nhờ ở một nhà nọ. Trong nhà có một thiếu nữ độ mười bảy đến mười tám, đẹp như tiên sa tên là Hoạn Nương làm chàng không kìm được lòng. Chàng muốn hỏi nàng làm vợ nhưng bà mẹ nuôi của nàng bảo là không thể được. Sau đó, có lần Xuân đến gảy đàn cho nhà quan Lang trung họ Cát đã về hưu  thì gặp một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần  con gái của chủ nhà tên là Lương Công. Nàng vừa giỏi văn chương từ phú lại nổi tiếng là bậc tiên nữ trong vùng. Chàng cậy mối đến hỏi nhưng bị chê là nhà nghèo sa sút nên không gả. Hoạn Nương đã ra tay mai mối, giúp cho Xuân và Lương Công nên duyên đôi lứa. Thì ra Hoạn Nương vốn không phải là người mà là ma. Nàng là con gái quan thái thú, sớm thiệt phận đã trăm năm, vốn rất thích đàn cầm đàn tranh, trộm nghe tiếng đàn của chàng Xuân thì rất hâm mộ, chỉ thiệt phận mình là ma không thể nâng khăn sửa túi cho chàng nên ngầm dun dủi cho chàng gá duyên với nàng Lương Công tài cao sắc đẹp để báo đền chút tình đoái thương của chàng. Lúc trước, khi chưa ra mặt, Hoạn Nương lén học những ngón đàn của Xuân, Xuân  không thấy mặt nàng nhưng vẫn chỉ dạy bằng cách gảy đàn trước rồi để đàn lại cho nàng tập, y như một thầy dạy đàn vậy. Sau đó, khi biết nàng chính là người đã giúp mình lấy được Lương công, chàng chỉ bảo thêm cho Hoạn Nương và nàng cũng dạy lại cho Xuân mười tám chương đàn tuyệt diệu của mình. Trước khi ra đi, nàng để lại một tấm hình, dặn Xuân có nhớ đến thì đốt nén hương thơm, gẩy một khúc đàn. Nói xong, bước ra cửa biến mất.

 TÀI  LIỆU  THAM  KHẢO

 1. Giáo trình văn học Trung Quốc – Đại học Huế –  Trung tâm đào tạo từ xa, 1994.

2. Lịch sử văn học Trung Quốc tập II – Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo . Nxb Đại học sư phạm, 2002.

3. Văn học Trung Quốc Tập hai – Nguyễn Khắc Phi – Lương Duy Thứ. Nxb Giáo dục 1988.

4. Bài giảng Văn học Trung Quốc – Lương Duy Thứ. Nxb Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, 2002.

5. Lịch sử văn học Trung Quốc tập hai, Nxb Giáo dục 1997.

6. Văn học sử Trung Quốc tập 3 – Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (biên dịch). Nxb Phụ nữ 2000.

7. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – Trần Xuân Đề. Nxb Giáo dục 2000.

8. Văn học Trung Quốc – Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi. Nxb Thế Giới, Hà Nội 2002.

9. Từ điển văn học ( bộ mới ), Nxb Thế Giới, 2004.

10. Tuyển tập Liêu trai chí dị – Nhà xuất bản văn học, 2003

11. Giáo trình Văn học Trung Quốc, Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc ( Tài liệu lưu hành nội bộ), Đại học An Giang, 2003.

12. Về con người cá nhân trong văn học cổ ViệtNam, Nguyễn Hữu Sơn- Trần Đình Sử – Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần Nho Thìn – Đoàn Thị Thu Vân . Nxb Giáo dục1997.

13. Tóm tắt luận văn thạc sĩ : “Cái “Kỳ” trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh”, Trần Văn Trọng, Đại học sư phạm Hà Nội, 2001.

14. Tóm tắt luận văn tốt nghiệp : “Đặc trưng thẩm mỹ của nhân vật kì hình trong “Liêu trai chí dị”  của Bồ Tùng Linh”, Nguyễn Thị Thu Thủy, Đại học sư phạm Hà Nội,2002.

15. Lịch sử văn học Trung Quốc, Trần Xuân Đề, Nhà xuất bản Giáo dục 2002.

16. Tiểu thuyết sử thoại các thời đại Trung Quốc, Trương Quốc Phong  (Biên dịch : Thái Trọng Lai), Nxb Văn Nghệ TP . Hồ Chí Minh 2001.

17. Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc – Tập 2, Nhà xuất bản Đại Bách Khoa Toàn Thư Trung Quốc,Nhiều tác giả biên soạn, Nhà xuất bản Thế Giới ấn hành 2000.

18. Đề cương bài giảng “Thi pháp học hiện đại” (Tài liệu lưu hành nội bộ), Ths Phùng Hoài Ngọc, Đại học An Giang 2005.

19. http://www.fpt.vn

20. http://www.cinet.gov.vn