Bài tập môn tư pháp quốc tế phần riêng

Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu cho các bạn một số câu nhận định đặc trưng của môn Tư pháp quốc tế- một trong các môn học “khó nhằn” nhất đối với sinh viên luật. Những câu nhận định dưới đây được tổng hợp từ các đề thi thât và sẽ được cập nhật liên tục nên các bạn theo dõi nhé.

Bài tập môn tư pháp quốc tế phần riêng

Đáp án dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo và dựa trên cơ sở pháp lý của Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

1. Theo pháp luật Việt Nam, luật nơi có tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với động sản đang trên đường vận chuyển.

Nhận định này là Sai. Luật nơi tài sản được chuyển đến mới có vai trò trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với động sản đang trên đường vận chuyển. CSPL: Khoản 2 Điều 678 BLDS 2015.

2. Theo pháp luật Việt Nam, quyết định của trọng tài nước ngoài chỉ được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam sau khi được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.

Nhận định này là Đúng. Khoản 4 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

3. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc biệt.

Nhận định này là Đúng. Bởi lẽ chỉ có Tư pháp quốc tế mới tồn tại các quy phạm xung đột.

4. Điều ước quốc tế về tư pháp quốc tế luôn có hiệu lực được ưu tiên áp dụng so với pháp luật Việt Nam.

Nhận định này là Sai. Chỉ có những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên mới có hiệu lực được ưu tiên áp dụng so với luật Việt Nam.

5. Pháp luật nước ngoài không thể được áp dụng nhằm giải quyết xung đột pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng trong trường hợp hợp đồng được ký kết và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam.

Nhận định này là Sai. Trong trường hợp đồng ký kết tại Việt Nam nhưng đối tượng của hợp đồng là bất động sản nằm ở nước ngoài thì pháp luật nước nơi có bất động sản đó được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật. CSPL: Khoản 4 Điều 683 BLDS 2015.

6. Bản án của Tòa án nước ngoài về vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài không thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

Nhận định này là Sai. Bản án về vụ án ly hôn của Tòa nước ngoài vẫn có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu rơi vào một trong 2 trường hợp:

(i) Nước mà Tòa án có trụ sở và Việt Nam là thành viên của điều ước quốc tế quy định về vấn đề này (thông thường là hiệp định tương trợ tư pháp)

(ii) Được công nhận và cho thi hành trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.

(iii) Pháp luật Việt Nam có quy định cụ thể về việc công nhận và cho thi hành bản án đó.

CSPL: Khoản 1 Điều 423 BLTTDS 2015.

7. Tòa án Việt Nam thụ lý và giải quyết mọi vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

Nhận định này là Sai. Về mặt nguyên tắc, Tòa án Việt Nam chỉ thụ lý giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Tuy nhiên không phải bất kỳ vụ án nào thuộc thẩm quyền chung của Tòa án thì Tòa án đều thụ lý giải quyết. Trường hợp Tòa không thụ lý giải quyết là trường hợp tại Điều 472 BLTTDS 2015.

8. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, di sản không người thừa kế là động sản được giải quyết theo pháp luật của nước mà người để lại di sản là công dân trước khi chết.

Nhận định này là Đúng. Khoản 1 Điều 680 BLDS 2015.

9. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các bên trong hợp đồng luôn được quyền chọn pháp luật áp dụng nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong tất cả các hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Nhận định này là Sai. Ba trường hợp không được quyền chọn luật được liệt kê tại khoản 4, 5,6 Điều 683 BLDS 2015.

10. Hệ thuộc Luật tòa án luôn được áp dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật.

Nhận định này là Sai. Hệ thuộc Luật Tòa án (lex fori) chỉ được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về luật hình thức (luật tố tụng) chứ không có vai trò lớn trong việc giải quyết xung đột pháp luật về luật nội dung.

Bài tập môn tư pháp quốc tế phần riêng

Nguyễn Quốc Bảo là tác giả có chuyên môn trong nhiều lĩnh vực gồm đầu tư nước ngoài, bất động sản và M&A, đồng thời, cũng là tác giả của một số bài viết được đăng tải tại Lawinsider, Asian Mena Counsel.

Quyền sở hữu, một khía cạnh không thể phủ nhận của đời sống kinh tế xã hội, đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong khung pháp luật dân sự. Khái niệm này không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là hệ thống giá trị và nguyên tắc cơ bản tác động đến sự phát triển của cộng đồng và xã hội. Trên phương diện kinh tế, quyền sở hữu làm nền tảng cho việc quản lý, phân phối và sử dụng tài sản. Sự minh bạch và công bằng trong quá trình sở hữu không chỉ khích lệ sự đầu tư mà còn tạo động lực cho sự sáng tạo và phát triển kinh tế. Tham khảo ngay những Bài tập quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế được Học viện đào tạo pháp chế biên soạn tại bài viết sau

Câu 1: Quy định về quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế như thế nào?

Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế không chỉ là sự tổng hợp các quyền năng của các chủ thể trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, mà còn đặc trưng bởi yếu tố nước ngoài. Điều này thể hiện rõ qua những khía cạnh sau đây:

Trước hết, chủ thể tham gia quan hệ sở hữu có thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà nước nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ví dụ cụ thể có thể là trường hợp người nước ngoài mong muốn sở hữu bất động sản ở Việt Nam hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất, thậm chí là thừa kế tài sản ở quốc gia này.

Khác biệt tiếp theo xuất phát từ đối tượng của quan hệ sở hữu, khi tài sản tồn tại ở nước ngoài. Ví dụ, trong trường hợp di sản thừa kế là bất động sản hoặc động sản ở nước ngoài, quyền sở hữu trở nên phức tạp hơn khi tham gia vào quan hệ giữa các quốc gia.

Cuối cùng, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ sở hữu thường xảy ra ngay tại nước ngoài. Chẳng hạn, một công ty xuất nhập khẩu Việt Nam ký một hợp đồng ngoại thương với một đối tác nước ngoài. Hợp đồng này được lập trên lãnh thổ nước ngoài và có hiệu lực pháp lý, nhưng hàng hóa vẫn tồn tại tại Việt Nam. Trong trường hợp này, xác định quyền sở hữu của công ty Việt Nam sẽ phụ thuộc vào các quy định tư pháp quốc tế.

Bài tập môn tư pháp quốc tế phần riêng

Quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, do đó, không chỉ đòi hỏi sự hiểu biết vững về các quy định pháp luật quốc tế mà còn đặt ra thách thức trong việc quản lý và bảo vệ quyền lợi liên quan đến tài sản trên bản địa và quốc tế.

Câu 2: Quy định xung đột pháp luật về quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế như thế nào?

Tương tự như khái niệm chung về xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế, xung đột pháp luật về quyền sở hữu trong lĩnh vực này thường xuyên làm nảy sinh hiện tượng khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ sở hữu. Kết quả của việc này có thể không nhất quán, đồng thời phụ thuộc vào việc hệ thống luật pháp nào được ưu tiên áp dụng trong trường hợp cụ thể.

Một ví dụ minh họa cho tình trạng xung đột này có thể là quy định về tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản có thể được xem xét là tài sản riêng của vợ hoặc chồng nếu có chứng minh rằng nó hình thành từ tài sản riêng của mỗi bên và không bị chia đôi khi xảy ra tình trạng ly hôn. Ngược lại, một số quốc gia khác trên thế giới có thể áp dụng quy định khác, khiến cho tất cả các tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản cộng đồng và phải chia đôi khi xảy ra ly hôn.

Sự đa dạng này trong quy định về quyền sở hữu tạo nên một thách thức đối với việc quản lý và giải quyết tranh chấp, đặc biệt là khi các bên liên quan có quốc tịch, nơi thường xuyên xảy ra sự xung đột pháp luật. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết cho sự hiểu biết sâu rộng về quy định tư pháp quốc tế và khả năng đối thoại chặt chẽ giữa các hệ thống pháp luật để đảm bảo sự công bằng và nhất quán trong việc áp dụng quyền sở hữu.

Câu 3: Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế?

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về quyền sở hữu, như đã đề cập, có thể được giải thích thông qua một số yếu tố quan trọng:

Trước hết, sự khác biệt về điều kiện cơ sở hạ tầng giữa các quốc gia tạo nên một nền tảng độc đáo cho việc xây dựng hệ thống pháp luật. Mỗi quốc gia phát triển theo các tiêu chí và tiến độ riêng, dẫn đến việc hình thành các quy định pháp luật có tính cụ thể và linh hoạt phản ánh điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Sự chênh lệch này tạo ra một môi trường pháp luật đa dạng, góp phần vào hiện tượng xung đột khi các quy định này đối mặt trong quan hệ sở hữu.

Ngoài ra, các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử cũng đóng vai trò quan trọng trong tạo nên sự đa dạng trong quy định pháp luật. Chính trị và kinh tế cùng xã hội phong tục tập quán đều ảnh hưởng đến cách mà quốc gia xây dựng và thực thi luật pháp, dẫn đến sự không nhất quán trong việc điều chỉnh quyền sở hữu. Trong khi đó, sự khác biệt về đặc điểm thể chất, tâm lý của công dân cũng đóng góp vào việc tạo ra các quy định pháp luật độc lập và thậm chí trái ngược nhau.

Tất cả những yếu tố này tạo nên một bức tranh phức tạp, làm nảy sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu khi các hệ thống pháp luật từ các quốc gia khác nhau giao thoa trong quá trình quản lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản. Để giải quyết hiệu quả hiện tượng này, sự hòa nhập và đối thoại chặt chẽ giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi, nhằm tạo ra một cơ sở pháp luật quốc tế đồng nhất và minh bạch.