Các phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe

Một số phương pháp Truyền thông giáo dục sức khỏe trực tiếp NÓI CHUYỆN GIÁO DỤC SỨC KHỎE Mục tiêu1. Trình bày được các bước tổ chức nói chuyện giáo dục sức khỏe2. Thực hiện được buổi nói chuyện GDSK tại cộng đồng 3. Hướng dẫn sinh viên chuẩn bị và thực hiện được buổi nói chuyện GDSK tại cộng đồng Nói chuyện Là nói chuyện với một nhóm đông người về một nội dung GDSK nào đó. Ví dụ: Nói chuyện cho các bà mẹ có con dưới 1 tuổi về nuôi con bằng sữa mẹ Mục đích: cung cấp cho đối tượng những thông tin mới nhất về vấn đề sức khỏe liên quan tới họ, tới gia đình và cộng đồng họ. Tác dụng: chủ yếu là thay đổi nhận thức, giúp đối tượng suy nghĩ, hướng tới việc thay đổi thái độ và hành vi. Nói chuyện GDSK là gì? Mục đích:Tác dụng:Ví dụ: Bài tập thảo luậnTháng 8/2010, một tổ sinh viên Y3 được phân công về học tập tại xã AL, huyện BL. Lãnh đạo xã và các cán bộ y tế ở đây rất nhiệt tình và chu đáo nên các bạn đã nhanh chóng hoàn thành việc thu thập thông tin tại cộng đồng. Việc tiếp theo của sinh viên là tổ chức thực hiện các buổi nói chuyện GDSK với người dân. Mặc dù đã được học, nhưng vì là lần đầu tiên thực hiện nhiệm vụ này tại cộng đồng nên các bạn đều rất lúng túng, không nhớ phải làm những việc gì và bắt đầu từ đâu.Thày/cô hãy giúp các bạn sinh viên liệt kê những việc cần chuẩn bị cho một buổi nói chuyện GDSK. Các bước tổ chức nói chuyện GDSKChu n bẩ ịChu n bẩ ịTh c hi nự ệTh c hi nự ệK t thúcếK t thúcế 1. Chuẩn bịThày/cô hãy liệt kê những việc cần làm trước khi tiến hành một buổi nói chuyện GDSK? 1. Chuẩn bị- Xác định chủ đề nói chuyện,- Xác định đối tượng tham dự,- Xác định nội dung cốt lõi cần trình bày,- Xác định khoảng thời gian trình bày,- Sắp xếp trình tự trình bày, - Các phương tiện hỗ trợ thích hợp với chủ đề và thực tế địa phương, - Chọn thời gian, địa điểm thích hợp và thông báo trước cho đối tượng. Bài tập thảo luậnSau khi được thày hướng dẫn, các bạn sinh viên đã chuẩn bị mọi việc chu đáo để tiến hành các buổi nói chuyện. SV H. được phân công thực hiện buổi nói chuyện đầu tiên. H. đã mở đầu: “Xin chào tất mọi người, chúng ta bắt đầu nhé. Hôm nay tôi sẽ nói với mọi người một vấn đề VSMT rất bức xúc ở xã ta, đó là sử dụng nhà tiêu không hợp vệ sinh. Vì thời gian có hạn nên đề nghị mọi người thật chú ý, tôi sẽ nói trong vòng 30 phút. Sau đó H. bắt đầu “Tôi không ngờ tình hình vệ sinh ở xã ta lại quá kém, không hiểu tại sao các ông/bà có thể sống trong một môi trường như thế này trong bao nhiêu năm nay…” và tiếp tục rất say sưa, rõ ràng về tác hại của phân người và thế nào là nhà tiêu hợp vệ sinh trong suốt 40 phút. Mọi người ngồi nghe tỏ vẻ rất mệt mỏi, sốt ruột. Một người nhìn đồng hồ và bỏ ra về, một vài người khác cũng ra về theo trước khi buổi nói chuyện kết thúc. Thấy vậy H. cũng vội vàng dừng lại và tuyên bố kết thúc buổi nói chuyện.Thày/cô hãy nêu những điểm cần rút kinh nghiệm từ buổi nói chuyện của SV H. là gì? 2. Tiến hành- Tạo quan hệ tốt với đối tượng-Sử dụng lời nói, ngôn ngữ địa phương-Nói rõ ràng mạch lạc. - Sử dụng vật liệu, mô hình và ví dụ minh họa. Nếu có điều kiện thì sử dụng video, phim v.v.v.- Cần bao quát, quan sát đối tượng để điều chỉnh - Cho phép và khuyến khích các đối tượng hỏi và thảo luận những vấn đề chưa rõ. - Hỏi đối tượng xem họ đã hiểu rõ vấn đề mà mình vừa trình bày chưa trước khi chuyển phần khác. 3. Kết thúc- Tóm tắt những vấn đề mấu chốt nhất cho đối tượng dễ nhớ.- Cảm ơn sự tham gia của đối tượng - Giới thiệu các địa chỉ liên hệ khi cần, nếu có TƯ VẤN GIÁO DỤC SỨC KHỎE MỤC TIÊU HỌC TẬPMỤC TIÊU HỌC TẬP1. Trình bày được nội dung các bước 1. Trình bày được nội dung các bước tổ chức tư vấn GDSK.tổ chức tư vấn GDSK.2. Thực hiện được buổi tư vấn GDSK. 2. Thực hiện được buổi tư vấn GDSK. 3. Hướng dẫn được sinh viên chuẩn bị 3. Hướng dẫn được sinh viên chuẩn bị và thực hiện được buổi tư vấn và thực hiện được buổi tư vấn GDSK.GDSK. - Giúp đối tượng hiểu rõ vấn đề - Giúp đối tượng hiểu rõ vấn đề của họ, cung cấp thông tin, thảo của họ, cung cấp thông tin, thảo luận giúp chọn lựa giải pháp, luận giúp chọn lựa giải pháp, đưa ra quyết định thích hợpđưa ra quyết định thích hợp - Giúp đối tượng lựa chọn cách- Giúp đối tượng lựa chọn cáchgiải quyết vấn đề chứ khônggiải quyết vấn đề chứ khôngphải là ép buộc thực hiện hànhphải là ép buộc thực hiện hànhđộng theo ý kiến người tư vấnđộng theo ý kiến người tư vấn - Là biện pháp thích hợp để giúp - Là biện pháp thích hợp để giúp đối tượng hiểu rõ những vấn đề đối tượng hiểu rõ những vấn đề sức khỏe nhạy cảmsức khỏe nhạy cảmTư vấn GDSK là gì? Các hoạt động cơ bản trong TV GDSK - Tiếp đón- Hỏi để thu nhận thông tin- Giao tiếp, trao đổi- Giúp đỡ, hỗ trợ - Giải thích- Tiếp tục hỗ trợ đối tượng Các bước tổ chức tư vấn GDSKChuẩn bị Chuẩn bị trước tư vấntrước tư vấn Thực hiện Thực hiện tư vấntư vấn Kết thúc Kết thúc tư vấn tư vấn Chuẩn bị trước khi tư vấn- Xác định vấn đề, xác định đối tượng cần được tư vấn,- Chọn thời gian và nơi tư vấn thoải mái cho đối tượng,- Thông báo trước thời gian, địa điểm để đối tượng biết và chủ động, - Chuẩn bị để nắm chắc nội dung của chủ đề tư vấn,- Chuẩn bị tài liệu, vật liệu, mô hình minh họa, - Nếu cần trình diễn, hướng dẫn các kỹ năng thực hành cho đối tượng thì phải chuẩn bị các phương tiện, dụng cụ cần thiết để thực hiện. Thực hiện tư vấn Cách bắt đầu một cuộc tư vấn: - Khi gặp ĐT, chủ động chào hỏi thân mật; - Chủ động mời ĐT ngồi vào chỗ đã chuẩn bị; - Giới thiệu ngắn gọn về mình và mời ĐT tự giới thiệu; - Bắt đầu bằng cách nói chuyện thông thường để có thể tạo không khí tự nhiên thoải mái ngay từ đầu; - Nói với ĐT là mọi thông tin về họ sẽ được giữ bí mật; - Gải thích với ĐT là mình sẵn sàng nghe ĐT nêu tất cả các vấn đề của họ, sẵn sàng trả lời các câu hỏi, thảo luận với họ để giúp giải quyết vấn đề của họ..

Đại cương Giáo dục sức khoẻ và Nâng cao sức khoẻ 57 BÀI 5: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE Mục tiêu học tập Sau khi kết thúc bài học, sinh viên/học viên có khả năng: 1. Trình bày được khái niệm, tầm quan trọng, việc chuẩn bị và tổ chức thực hiện các hình thức truyền thông với cá nhân 2. Trình bày được khái niệm, tầm quan trọng, việc chuẩn bị và tổ chức thực hiện các hình thức truyền thông với nhóm 3. Trình bày được khái niệm, tầm quan trọng, việc chuẩn bị và tổ chức thực hiện các hình thức truyền thông với cộng đồng  o0o  1. Giáo dục sức khỏe với cá nhân Đây có thể là hình thức cung cấp thông tin, hướng dẫn thực hiện hoặc thuyết phục một người nào đó thực hiện những hành vi cụ thể một cách trực tiếp (mặt đối mặt) hoặc gián tiếp (qua điện thoại đường dây nóng, nói chuyện trực tuyến trên mạng Internet). Ngoài ra, giáo dục sức khỏe với cá nhân còn có hình thức đặc biệt như tư vấn sức khoẻ giữa thầy thuốc và bệnh nhân/khách hàng, nó có thể bao gồm: - Cung cấp thông tin sức khỏe cơ bản. - Thuyết phục bệnh nhân/khách hàng thực hiện một hành động cụ thể - Giúp bệnh nhân/khách hàng ra quyết định. Ví dụ như việc lựa chọn biện pháp tránh thai nào. - Giúp bệnh nhân/khách hàng đối phó với những tình huống phức tạp/khó khăn. - Trị liệu cho bệnh nhân/khách hàng có các vấn đề sức khỏe cụ thể. Ví dụ như nghiện rượu, nghiện thuốc lá, v.v. 2. Giáo dục sức khỏe với nhóm 2.1. Khái niệm nhóm "Nhóm là một tập hợp từ 2 người trở lên và có chung một mối quan tâm”1 Ví dụ về các nhóm thường gặp như: gia đình, những người cùng làm việc trong một nhà máy, xí nghiệp, hội phụ nữ, nhóm bệnh nhân tại một phòng khám, nhóm đối tượng có những hành vi giống nhau 1 Education for health. A manual on health education in primary health care. WHO, 1988. Page 108. Đại cương Giáo dục sức khoẻ và Nâng cao sức khoẻ 58 2.2. Phân loại nhóm Dựa trên cách thức tổ chức nhóm, người ta thường phân thành 2 loại nhóm chính sau: nhóm chính thức và nhóm không chính thức. Phân loại nhóm Nhóm chính thức Nhóm không chính thức Định nghĩa Là một nhóm người được tổ chức một cách chặt chẽ như Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Là một tập hợp gồm những người có chung ít nhất một mối quan tâm nhất thời như: nhóm bệnh nhân ở phòng đợi khám bệnh, nhóm những người thuê trọ ở cùng một khu vực, vv Đặc điểm - Về mặt tổ chức, nhóm bao gồm ban lãnh đạo và các thành viên có mối quan hệ với nhau - Nhóm có tôn chỉ, mục đích hoạt động rõ ràng mà tất cả các thành viên trong nhóm đều cố gắng đạt được, đồng thời, có các quy tắc mà tất cả các thành viên đều phải tuân theo. - Các thành viên trong nhóm đều có những nhiệm vụ và quyền lợi nhất định. - Hoạt động của nhóm được tổ chức quy củ như những buổi họp thường kỳ, các chương trình hoạt động. - Nhóm người này không có một mục tiêu đặc biệt nào mà họ phải cùng cố gắng đạt được. - Nhóm không có quy tắc tổ chức, hầu như giữa các thành viên không có mối liên quan. Trong giáo dục sức khoẻ, chúng ta quan tâm đến một loại nhóm cụ thể, đó là nhóm đối tượng đích. Nhóm đối tượng đích là một tập hợp các cá nhân có chung một hoặc nhiều đặc điểm có liên quan trực tiếp đến vấn đề sức khoẻ. Nó là cơ sở để chúng ta xây dựng được các thông điệp và các tài liệu truyền thông giáo dục sức khỏe, hỗ trợ một cách có ích và thích hợp với đối tượng. Cần phải mô tả chi tiết các đặc điểm về kiến thức, sở thích, nhu cầu, mối quan tâm, các kênh truyền thông hay tiếp cận và các ưu tiên của các nhóm đối tượng truyền thông đích.Việc cố gắng tiếp cận với tất cả các đối tượng bằng một thông điệp truyền thông hoặc một chiến lược truyền thông có thể làm cho các thông điệp trở nên kém hiệu quả vì những thông điệp chung này có thể Đại cương Giáo dục sức khoẻ và Nâng cao sức khoẻ 59 không thu hút được sự chú ý của các nhóm đối tượng truyền thông đích. Thông thường những thành viên trong nhóm đối tượng đích có cùng một số hành vi nguy cơ như nhóm người hút thuốc lá, nhóm người tiêm chích ma tuý, nhóm lao động tình dục, nhóm người không sử dụng mũ bảo hiểm khi đi xe máy, 2.3. Tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe với nhóm Khác với giáo dục sức khoẻ với cá nhân hay với cộng đồng, giáo dục sức khoẻ với nhóm có những giá trị riêng vì: - Có nhiều vấn đề sức khoẻ mà từng cá nhân riêng rẽ không thể giải quyết được. - Việc tiếp cận theo nhóm trong giáo dục sức khoẻ cho phép các cá nhân chia sẻ kinh nghiệm cũng như hiểu biết của mình với những người khác trong nhóm. Mọi người có thể học hỏi lẫn nhau, từ đó, có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt hơn. - Trong môi trường quen thuộc của mình (nhóm), các cá nhân thường cảm thấy được khuyến khích, động viên tốt hơn. Điều nay rất quan trọng trong việc thay đổi và duy trì những hành vi sức khoẻ mới. - Giáo dục sức khỏe với nhóm thường có tác dụng vận động cao hơn so với giáo dục sức khỏe với cá nhân. Tiếng nói của nhóm dễ dẫn đến những thay đổi nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc giáo dục sức khỏe và thay đổi hành vi. Ví dụ: Để giải quyết vấn đề điếc nghề nghiệp cuả công nhân làm việc trong một phân xưởng cơ khí do không sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động, cần tiến hành giáo dục cho toàn bộ công nhân trong phân xưởng về tầm quan trọng của việc bảo hộ lao động. Rõ ràng, để giải quyết vấn đề này, tốt nhất là tiến hành giáo dục sức khoẻ với nhóm để mọi người trong phân xưởng có thể trao đổi kinh nghiệm và lựa chọn biện pháp bảo hộ phù hợp nhất với mình. Đồng thời, người công nhân sẽ không cảm thấy ngại ngùng, xa lạ khi sử dụng phương tiện bảo hộ lao động khi làm việc trong xưởng vì anh ta biết tất cả mọi người đều hiểu và khuyến khích hành vi đó. 3 Giáo dục sức khỏe với cộng đồng 3.1. Khái niệm cộng đồng "Là một nhóm người có mối quan hệ, ràng buộc lẫn nhau do có chung một hoặc một số đặc tính như: cùng sống trong một vùng nhất định; cùng tôn giáo, cùng một dân tộc, có chung các giá trị chuẩn mực hoặc mối quan tâm". Ví dụ: Cộng đồng một làng, xã, huyện, tỉnh; Cộng đồng người theo một đạo giáo (Hồi giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo ); Cộng đồng người làm nghề (gốm sứ, mây tre, nuôi trồng thủy hải sản ); Cộng đồng dân tộc thiểu số (Dân tộc H’mông, Dao, Tày, Kinh ) 3.2. Sự cần thiết của giáo dục sức khỏe với cộng đồng Giáo dục sức khoẻ cộng đồng là một quá trình/loại hình công việc giúp cộng đồng, người dân, nâng cao nhận thức (về tầm quan trọng của sức khoẻ, trách nhiệm Đại cương Giáo dục sức khoẻ và Nâng cao sức khoẻ 60 của mỗi cá nhân và cộng đồng đối với công tác chăm sóc sức khoẻ) và tổng hợp các kinh nghiệm nhằm tạo điều kiện thuận lợi để họ chấp nhận một cách tự nguyện các hành vi có lợi cho sức khoẻ. Một số vấn đề liên quan đến sức khoẻ có thể giải quyết theo cá nhân, nhưng hầu hết các vấn đề sức khoẻ phải cần đến sự cộng tác của nhiều người. Chúng ta có thể minh họa điều này qua một số ví dụ: Nếu tại một làng bản, nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu từ một con suối. Mọi người đều không có nguồn nước riêng. Do việc giữ vệ sinh cho con suối không được chú ý nên nước suối bị nhiễm bẩn. Một số trẻ trong làng đã bị tiêu chảy. Trong tình huống này, bản thân mỗi cá nhân không thể thay đổi được tình hình, việc tuyên truyền giáo dục cho người dân về cách phòng bệnh thông qua việc bảo vệ nguồn nước là cần thiết và chắc chắn mọi người trong làng phải chung sức tham gia. Vùng đồng bằng sông Cửu long, vào mùa lũ lụt, dịch bệnh tiêu hoá có thể lan tràn, do nguồn nước bị ô nhiễm. Việc giáo dục sức khoẻ trước và trong tình huống này cho cộng đồng là cần thiết. Tóm lại, Giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng là hết sức cần thiết khi vấn đề sức khoẻ có tác động đến nhiều người hoặc toàn thể người dân trong cộng đồng, vì thế phải có sự tham gia, hợp tác của nhiều người trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm thực hiện và duy trì những hành vi có lợi cho sức khoẻ trong cộng đồng.