Giáo dục sức khỏe và kngt viết tắt là gì năm 2024

  • 1. HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG VĂN TRANG KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ BỆNH VIỆN TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG II LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI – 2016
  • 2. HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG VĂN TRANG KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ BỆNH VIỆN TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG II Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số : 60310401 LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ HUỆ HÀ NỘI - 2016
  • 3. xin cam đoan công trình nghiên cứu này là do chính tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo bản quyền tác giả. Học viên Hoàng Văn Trang
  • 4. hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Học Viện Khoa Học Xã Hội và quý thầy cô Khoa Tâm lý - giáo dục học đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc Bệnh viện tâm thần trung ương 2 tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình học tập. Xin chân thành cảm ơn quý đồng nghiệp đang công tác tại Bệnh viện tâm thần trung ương 2 đã nhiệt tình cộng tác trong quá trình nghiên cứu đề tài. Xin cảm ơn các bạn học viên lớp Tâm lý - giáo dục, đợt 2 - Khóa 05 đã quan tâm chia sẽ, động viên tôi trong thời gian học tập và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này. Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2016 Học viên Hoàng Văn Trang
  • 5. .................................................................................................................. 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ........................................................................ 13 1.1. Kỹ năng ............................................................................................................ 13 1.2. Kỹ năng giao tiếp............................................................................................. 20 1.3. Kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế.................................... 24 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...................................................................................... 36 Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 37 2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu................................................... 37 2.2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu............................................................. 38 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................... 47 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ BỆNH VIỆN TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 2.................................................................................... 48 3.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế bệnh viện Tâm thần Trung ương 2.......................................................................................... 48 3.2. Các biện pháp nâng cao KNGT của NVYT với người bệnh........................ 72 TIỂU KẾTCHƯƠNG 3....................................................................................... 77 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81 PHỤ LỤC
  • 6. CHỮ VIẾT TẮT STT TỪ VIẾT TẮT NGHĨA ĐẦY ĐỦ 1 BN Bệnh nhân 2 ĐD Điều dưỡng 3 ĐLC Độ lệch chuẩn 4 ĐTB Điểm trung bình 5 GT Giao tiếp 6 KNGT Kĩ năng giao tiếp 7 NVYT Nhân viên y tế 8 TBC Trung bình chung
  • 7. BIỂU Bảng 3.1. Nhận thức của NVYT về khái niệm KNGT với người bệnh.............. 48 Bảng 3.2. Nhận thức của NVYT và BN, thân nhân về tầm quan trọng của KNGT đối với công việc........................................................................................ 49 Bảng 3.3. Nhận thức của NVYT và BN, thân nhân về mức độ cần thiết của các KNGT...................................................................................................................... 52 Bảng 3.4. Biểu hiện kỹ năng thiết lập mỗi quan hệ của NVYT với người bệnh 54 Bảng 3.5. Sự khác biệt về biểu hiện cụ thể và mức độ của kỹ năng thiết lập mỗi quan hệ theo trình độ chuyên môn......................................................................... 56 Bảng 3.6. Biểu hiện kỹ năng lắng nghe của NVYT với người bệnh................... 57 Bảng 3.7. Sự khác biệt về biểu hiện cụ thể và mức độ của kỹ năng lắng nghe theo độ tuổi.............................................................................................................. 59 Bảng 3.8. Biểu hiện kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi của NVYT với người bệnh.......................................................................................................................... 60 Bảng 3.9. Sự khác biệt về biểu hiện cụ thể và mức độ của kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi theo trình độ chuyên môn ............................................................. 62 Bảng 3.10. Biểu hiện kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu của NVYT với......... 64 người bệnh............................................................................................................... 64 Bảng 3.11. Sự khác biệt về biểu hiện cụ thể và mức độ của kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu theo giới tính............................................................................. 66 Bảng 3.12. Những khó khăn thường gặp của nhân viên y tế với người bệnh trong quá trình giao tiếp ................................................................................................... 67 Bảng 3.13. Những yếu tố ảnh hưởng đến KNGT của NVYT với người bệnh.. 69 Bảng 3.14: Đánh giá của NVYT về các biện pháp nâng cao KNGT với người bệnh.......................................................................................................................... 73
  • 8. cấp thiết của đề tài Xã hội ngày càng phát triển, cùng với sự hội nhập quốc tế và nhu cầu tiếp thu những thành tựu văn hóa xã hội khác nhau, đòi hỏi con người phải giao tiếp với nhau, giao tiếp là kĩ năng vô cùng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Không có giao tiếp con người khó có thể tồn tại, không có giao tiếp thì xã hội không thể phát triển. Vì vậy, giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, thông qua giao tiếp cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu nền văn hóa xã hội được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử, biến nó thành của mình. Giao tiếp trong các cơ sở khám, chữa bệnh được thể hiện bằng lời nói, thái độ và hành vi văn hoá trong mối quan hệ giữa thầy thuốc và nhân viên y tế với người bệnh, người nhà người bệnh, khách đến làm việc và mối quan hệ đồng nghiệp, người đến khám bệnh, chữa bệnh, đến thăm và đến làm việc là đối tượng phục vụ của các cơ sở khám, chữa bệnh và cần được đối xử, bình đẳng và lịch sự. Y đức là phẩm chất tốt đẹp, cao quý của những người hành nghề y, được thể hiện qua thái độ, tinh thần trách nhiệm, hết lòng thương yêu, chăm sóc người bệnh, coi sự đau đớn của người bệnh như của mình. Cung cách giao tiếp là một phần của y đức, như lời Bác Hồ đã dạy “Lương y như từ mẫu”, y đức không ở đâu xa, đó là thái độ giao tiếp, cung cách phục vụ, cái mà người bệnh rất cần. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Trong 12 điều y đức tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế, điều 4 có nói: khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình, trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh, phải giải thích tận tình cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị, phổ biến cho họ về chế độ chính sách, quyền và nghĩa vụ của người bệnh, động viên an ủi khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục, trong trường hợp tiên lượng xấu, cũng phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc đến cùng, đồng thời báo cho gia đình người bệnh biết.
  • 9. môi trường bệnh viện tâm thần, nơi mà nhất cử nhất động của các nhân viên y tế đều phải cảnh giác vì có thể bị nguy hiểm, thế nhưng với tấm lòng yêu nghề, yêu bệnh nhân nên mọi nhân viên y tế vẫn quyết tâm ở lại với những bệnh nhân, những người không hiếm khi được gọi bằng cái tên nghe đến nao lòng - người điên. Điều trị và chăm sóc cho người bệnh bình thường đã vất vả, khó khăn, việc làm đó đối với những người bệnh tâm thần lại càng khó khăn gấp bội, bệnh viện tâm thần trung ương 2 là cơ sở khám và điều trị bệnh không những cho nhân dân trong địa bàn tỉnh Đồng Nai mà còn tiếp nhận ở các tỉnh Miền Trung và các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long như: Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh …người bệnh không những được chăm sóc sức khỏe bằng các dịch vụ y tế mà còn được chăm sóc bằng tâm lý, thể hiện qua cách thức giao tiếp của nhân viên y tế với người bệnh. Trong công việc khám, điều trị và chăm sóc người bệnh hằng ngày nhân viên y tế thường xuyên giao tiếp với nhiều người bệnh khác nhau, nhân viên y tế cần có nghệ thuật và phương pháp giao tiếp với người bệnh, đặc biệt là người bệnh tâm thần, do họ thường có những thay đổi về tâm sinh lý và sa sút về trí tuệ, người bệnh hạn chế về nhận thức, cảm xúc, hành vi… Khi tiếp xúc với người bệnh, nhân viên y tế cần giao tiếp với người bệnh hết sức nhẹ nhàng, cởi mở, phải thực sự cảm thông sâu sắc với bệnh nhân, xem đau đớn của người bệnh cũng như đau đớn của mình để chia sẻ, giao tiếp với người bệnh, giúp cho người bệnh luôn cảm thấy được cảm thông, chia sẻ, đây là một trong những yếu tố giúp người bệnh mau chóng bình phục. Bên cạnh đó, do sự quá tải của bệnh viện, cường độ làm việc căng thẳng, dẫn đến thời gian tiếp xúc của nhân viên y tế với người bệnh còn ít, điều kiện quan tâm đến người bệnh và giao tiếp với họ còn hạn chế. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Bệnh viện tâm thần trung ương 2”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Nghiên cứu về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp ở nước ngoài Vấn đề giao tiếp được con người xem xét từ thời cổ đại, nhà triết học Xôcrate (470 – 399 TCN) và Platôn (428 – 347 TCN) đã coi đối thoại như là
  • 10. trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ giữa con người với con người, dẫn theo [2, tr.161]. Đến thế kỷ 18 nhà triết học Hà Lan M.Phem-xtec-lôi đã viết một tiểu luận dưới nhan đề: “Một bức thư về con người và các mối quan hệ của nó với người khác” trong đó có đoạn: “Muốn xem xét con người trong xã hội một cách chút ít thành công thì phải bắt đầu từ chú ý nghiên cứu một cơ quan mà cho đến nay chưa có tên riêng, mà thường gọi là trái tim, tình cảm, lương tâm…Tương tự như cơ quan thính giác hay thị giác nếu không có không khí và ánh sáng thì không thể hoạt động được, trái tim và lương tâm con người chỉ bộc lộ khi người ấy cùng sống với người khác”, dẫn theo [2,tr.161]. Đến giữa thế kỷ 19, trong Bản thảo kinh tế - triết học (1884), Karl Marx (1818 -1883) đã bàn về nhu cầu xã hội giữa con người và con người trong hoạt động xã hội và tiêu dùng, theo ông xã hội loài người phải giao tiếp thực sự với nhau, chẳng hạn như giao tiếp với những người khác đã trở thành khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong những phương thức chiếm hữu sinh hoạt của con người. Hơn thế nữa, thông qua giao tiếp với người khác mà có thái độ với chính bản thân mình, mỗi người tự soi mình, dẫn theo [2, tr161-162]. Các nhà hiện sinh pháp như Gienmasosen (1869 – 1973), J.Psactrơ (1905 – 1981) và Muniê (1905 – 1950), đại diện triết học chủ nghĩa cá nhân đã cùng nghiên cứu giao tiếp, Muniê viết: “Có thể nói rằng tôi chỉ tồn tại chừng nào tôi tồn tại cho người khác”. Đến thế kỷ 20 vấn đề GT được các nhà triết học, tâm lý học, xã hội học quan tâm nhiều hơn, có thể kể đến một vài nghiên cứu GT theo nhiều hướng tiếp cận sau: Hướng thứ nhất: Nghiên cứu lý luận chung về GT như bản chất, cấu trúc, cơ chế GT, phương pháp luận nghiên cứu GT, mối quan hệ giữa GT và hoạt động...Hướng nghiên cứu này thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu
  • 11. tâm lý học Liên Xô (cũ) như “Về bản chất GT người” (1973) của Xacopnhin, “Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ” (1976) của I.L.K.kolominxki, “Tâm lý học GT” (1978) của A.A Leonchiev, “GT trong tâm lý học”(1981) của K.Platonov, “Phạm trù GT và hoạt động trong tâm lý học” của B.P.Lomov, dẫn theo [22, tr.8]. Hướng thứ hai: Nghiên cứu GT với nhân cách có công trình “Nhân cách trong cấu trúc giao tiếp sư phạm” (1980) của Pơlotnhicova, “Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp giữa các nhân cách” (1985) của Sakanova…[14, tr.14]. Hướng thứ ba: Nghiên cứu các dạng GT nghề nghiệp trong đó có thể kể đến một vài tác giả như: A.A.Leonchiev với “Giao tiếp sư phạm” (1979), A.V.Petropxki với “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Allan Pease “Body language”(1988) với bản tiếng việt là “Cuốn sách hoàn hảo về cơ thể” (2008) đã phân tích kỹ năng phát hiện các trạng thái tâm lý thông qua tác động, cử chỉ, điệu bộ, tư thế… của con người trong GT. Derak Torrington viết cuốn “Tiếp xúc đối mặt trong quản lý” (1994) đã đi sâu phân tích các hình thức GT thường gặp giữa người quản lý với người bị quản lý, qua đó đòi hỏi người quản lý cần có những KNGT nhất định, dẫn theo [22, tr.7]. Trong những năm gần đây, bên cạnh những nghiên cứu về GT, thì những nghiên cứu về KNGT cũng được quan tâm. Trong tâm lý học liên xô (cũ), nhiều nhà tâm lý học cũng quan tâm nghiên cứu KNGT trong các lĩnh vực nghề nghiệp. A.A.Leonchiev đã liệt kê các KNGT sư phạm như: KNGT điều khiển hành vi bản thân, KN quan sát, KN nhậy cảm xã hội biết phán đoán nét mặt người khác, KN đọc, hiểu biết mô hình hóa nhân cách học sinh, KN làm gương cho học sinh, KNGT ngôn ngữ, KN kiến tạo tiếp xúc, KN nhận thức, dẫn theo [22, tr.10]. Paul Ekman, Tác giả cuốn sách “Emotion Revealed” nêu lên vấn đề cảm xúc biểu hiện trong GT của cá nhân thể hiện qua nét mặt từ đó đề cập đến KN
  • 12. mặt và các cảm xúc đi kèm trong quá trình GT như một KNGT cơ bản. dẫn theo [22]. IP.Dakharov nghiên cứu và đưa ra trắc nghiệm tự đánh giá KNGT bao gồm, các kỹ năng như kỹ năng tiếp xúc, thiết lập quan hệ, kỹ năng biến nhu cầu bản thân và đối tượng trong quá trình GT, kỹ năng nghe đối tượng, kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác, kỹ năng tự chủ nhận thức – hành vi, kỹ năng diễn đạt dễ hiểu cụ thể, Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong GT tiếp, kỹ năng thuyết phục, Kỹ năng chủ động điều khiển quá trình GT. Dẫn theo [22]. Trong tâm lý học Mỹ, xuất hiện nhiều tác giả nghiên cứu về nghệ thuật GT, KNGT trong quản lý, trong lĩnh vực kinh doanh. Allan Pease tiến sĩ tâm lý học Mỹ đã cho xuất bản cuốn sách “Ngôn ngữ, cử chỉ - ý nghĩa của cử chỉ trong GT”. Ông đã đi sâu phân tích KN phát hiện các trạng thái tâm lý thông qua những động tác, cử chỉ điệu bộ, tư thế của con người trong GT. Theo ông, GT không bằng lời là một quá trình tác động phức tạp của con người và những tác động cử chỉ nét mặt…Có một ý nghĩa nhất định, những cử chỉ tác động đều có ý nghĩa chung. Khi hạnh phúc con người mĩm cười, khi buồn thì châu mày, khi giận dữ có cái nhìn bực tức…Gật đầu là đúng, lắc đầu là sai…[14, tr.14]. 2.2. Nghiên cứu về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp và kỹ năng giao tiếp được nghiên cứu từ những năm 70 của thế kỷ 20, có thể nêu ra một số hướng nghiên cứu như sau: Nghiên cứu về giao tiếp: Hướng thứ nhất: Nghiên cứu về bản chất tâm lý học GT, đặc điểm GT của con người, phương tiện GT có công trình của Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ngọc Bích… Hướng thứ 2: Nghiên cứu GT như là một tiến trình truyền đạt thông tin, các đặc điểm GT của người tham gia vào truyền thông có công trình của Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Khắc Viện…
  • 13. Nghiên cứu về KNGT trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, kinh doanh…có công trình của Nguyễn Thạc – Hoàng Anh, Mai Hữu Khuê, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Văn Đính. Hướng thứ tư: Nghiên cứu các dạng GT nghề nghiệp có công trình của Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Văn Nhận, Võ Tuyến, Nguyễn Sinh Phúc. Như vậy, vấn đề GT được các nhà xã hội học, tâm lý học trong nước nghiên cứu trên các bình diện khác nhau: Về mặt lý luận: Nhìn chung, các công trình đã đề cập đến những vấn đề lý luận về GT như: Vai trò, ý nghĩa của GT đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Về mặt thực tiễn: Các công trình, đề tài nghiên cứu về GT rất nhiều và đã đề cập đến những vấn đề GT nhằm nâng cao hiệu quả GT trong các lĩnh vực nghề nghiệp. Tuy nhiên cũng còn rất ít các công trình nghiên cứu về KNGT với người bệnh nói chung và bệnh tâm thần nói riêng. Hiện nay GT cũng là nội dung quan trọng được giảng dạy trong các trường cao đẳng, đại học và một số cơ quan y tế…Bởi lẽ những NVYT làm trong lĩnh vực này là những người chăm lo sức khỏe cho con người cả sức khỏe thể chất và sức khỏe tin thần. Trong hoạt động nghề nghiệp của người làm công tác ngành y thì thường diễn ra các hoạt động GT, GT giữa NVYT với nhau, GT giữa NVYT với người bệnh, giữa người bệnh với người bệnh… Chính vì lý do đó mà vấn GT của NVYT luôn được quan tâm, chú trọng. Gần đây một số tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực này như: Tác giả Võ Tuyến đã đề cập đến mối quan hệ giữa thầy thuốc và người bệnh đồng thời ứng dụng tâm lý học y học trong khám chữa bệnh. Theo tác giả, ngoài việc đào tạo những kiến thức khoa học cơ bản, đạo đức nghề nghiệp cho NVYT còn phải cung cấp cho họ những kiến thức về GT nói chung và giao tiếp trong lĩnh vực khám, chữa bệnh nói riêng, có như vậy mới góp phần vào nâng cao chất lượng phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
  • 14. Văn Nhận đã đề cập đến vấn đề GT giữa người thầy thuốc và người bệnh, tác giả cho rằng: Loại hình GT chủ yếu với người bệnh là GT chính thức, về cơ bản, mục đích, chức năng, phương hướng, nhiệm vụ… hoạt động GT, được xác định trước và đáp ứng yêu cầu các hoạt động khám, điều trị, chăm sóc cho người bệnh. Trong GT mỗi người chọn cho mình một cách GT với người bệnh khác nhau và tác giả đã đưa ra một số quy tắc GT cơ bản như: Cần xác định rõ ràng cụ thể mục đích GT, phong cách GT, thời gian, địa điểm, không khí tâm lý của cuộc GT… Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp: Trong những năm gần đây ở nước ta đã có một số tác giả nghiên cứu vấn đề KNGT trong lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp như: Luận án tiến sĩ Tâm lý học “Kỹ năng GT sư phạm của sinh viên” (1992) của Hoàng Thị Anh đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản của GT sư phạm và nghiên cứu thực trạng KNGT sư phạm theo các nhóm như kỹ năng định hướng: gồm kỹ năng nhận thấy sự thay đổi trạng thái tâm lý qua nét mặt, ánh mắt, lời nói, kỹ năng phán đoán nhanh được ý định, thái độ của đối tượng… Nhóm kỹ năng điều khiển bản thân gồm kỹ năng biết chủ động đề xuất GT theo mục đích của mình, KN tự kiềm chế; nhóm KN điều khiển đối phương gồm các kỹ năng hướng đối tượng theo ý mình để đạt được mục đích GT, KN kích thích hứng thú học tập của học sinh trên lớp…[1]. Tác giả Trần Trọng Thủy với bài “Tình người GT và văn hóa giao tiếp (1998) đã phân tích mối quan hệ giữa tình người, văn hóa và GT. GT là phương tiện thể hiện tình người, là hình thức tác động qua lại của con người trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau…Thông qua GT, bản chất con người được thể hiện thu nhận các tri thức về thế giới, về người khác, về bản thân…Tác giả đã đề cập đến một số KNGT như kỹ năng chỉnh sữa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới quen họ, kỹ năng bước vào GT với người khác một cách không có định kiến. Dẫn theo [27, tr.20].
  • 15. Đình Xuân nghiên cứu GT trong quản lý, tác giả đã đề cập đến một số KNGT như KN lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp khách, KN làm chủ cảm xúc của mình trong GT…[27, tr.21]. Tác giả Nguyễn Văn Đính đề cập đến một số KNGT mà người hướng dẫn viên cần có khi tiếp xúc với khách du lịch trong “Giáo trình tâm lý và nghệ thuật GT ứng xử trong kinh doanh du lịch”(1997) như KN định hướng, KN định vị, KN điều khiển GT…[27]. Ngoài ra còn có các luận án nghiên cứu về KNGT, có thể kể đến luận án tiến sĩ tâm lý học “KNGT nghiệp vụ của trinh sát an ninh và phương pháp đánh giá chung” (2002) của Võ Sĩ Lục, đề tài đã nghiên cứu những KNGT nghiệp vụ cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ an ninh theo các nhóm kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển Trong GT. [27] Luận văn thạc sĩ tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Cao đẳng Cần Thơ” (2010) của Châu Thúy Kiều đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về GT, GTSP, KNGT sư phạm và nghiên cứu thực trạng KNGT, KNGT sư phạm của sinh viên sư phạm trường cao đẳng cần thơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên chưa ý thức được về tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp chiếm 89,6% và 92,15% sinh viên chưa biết những kỹ năng giao tiếp cụ thể, qua khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp của nam sinh viên và nữ sinh viên sư phạm trường cao đẳng cần thơ cho thấy rằng: KNGT của phái nữ và phái nam ở mức độ tương đồng không có sự chênh lệch cao, đồng thời tác giả cũng đưa ra một số biện pháp nhằm rèn luyện, nâng cao kỹ năng GT sư phạm cho sinh viên sư phạm trường cao đẳng Cần Thơ [14]. Đề tài cấp cơ sở "Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam" (2014) của Huỳnh Thị Tự, đề tài đã nghiên cứu việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động giao tiếp của nhân viên y tế. Bên cạnh đó có đề tài cấp cơ sở "Kỹ năng giao tiếp và nâng cao văn hóa
  • 16. môi trường bệnh viện đa khoa tư nhân Hà Nội" (2015) của Nguyễn Thị Hồng Phượng đã đem lại sự chăm sóc tốt nhất, toàn diện cho người bệnh. Nghiên cứu "Đánh giá thực trạng khả năng giao tiếp với người bệnh của đội ngũ điều dưỡng Bệnh viện quân y 110" (2015) của Nguyễn Thị Phương Hoa, đề tài đã đánh giá thực trạng giao tiếp của điều dưỡng đối với người bệnh trong quá trình điều trị tại Bệnh viện Quân y 110. Đề tài "Khảo sát sự hài lòng của người bệnh điều trị nội trú về kỹ năng giao tiếp của điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa Tịnh Biên năm 2015" của Phạm Thanh Hải, nghiên cứu đã khảo sát tỉ lệ điều dưỡng đạt kỹ năng giao tiếp tốt, xác định tỷ lệ mức độ hài lòng và một số yếu tố liên quan với sự hài lòng chung của bệnh nhân điều trị nội trú về kỹ năng giao tiếp của điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. [23] Nhìn chung, vấn đề KNGT và KNGT với người bệnh được nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, cho thấy rằng tầm quan trọng của kỹ năng GT trong công việc hay trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong các công trình nguyên cứu trên vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về KNGT với người bệnh tâm thần. Do đó việc nghiên cứu về kỹ năng GT với người bệnh tâm thần là rất cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực trạng biểu hiện, mức độ kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Bệnh viện tâm thần trung ương 2; những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế, trên cơ sở lý luận và thực trạng đề xuất một số biện pháp tâm lý sư phạm rèn luyện kỹ năng giao tiếp với người bệnh góp phần nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh.
  • 17. nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về kĩ năng, kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế: Làm rõ các khái niệm công cụ; các biểu hiện, mức độ kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế, đồng thời xác định những yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế. - Làm rõ thực trạng biểu hiện và mức độ kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Bệnh viện tâm thần trung ương 2. - Từ đó, đề xuất một số biện pháp tâm lý sư phạm nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế bệnh viện Tâm thần Trung ương 2. 4.2. Khách thể nghiên cứu Tổng số khách thể của quá trình nghiên cứu gồm: - Các khách thể được thăm dò ý kiến để phục vụ cho thiết kế công cụ điều tra bao gồm: 10 cán bộ quản lý, chuyên gia tâm lý trong lĩnh vực kĩ năng giao tiếp. - Các khách thể nghiên cứu trong giai đoạn điều tra thử: 30 nhân viên y tế Bệnh viện tâm thần trung ương 2. - Các khách thể điều tra chính thức: 200 nhân viên y tế đang làm việc tại Bệnh viện tâm thần trung ương 2. 4.3. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế (kỹ năng thiết lập mối quan hệ, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi, kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu của nhân viên y tế trong hoạt động khám, điều trị và chăm sóc người bệnh tâm thần).
  • 18. về địa bàn nghiên cứu: Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2- TP Biên Hòa- Tỉnh Đồng Nai. Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của NVYT Bệnh viện tâm thần trung ương 2 có nhiều mức độ khác nhau và chủ yếu ở mức trung bình. Có nhiều yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế như: ý thức cá nhân; môi trường làm việc độc hại và nguy hiểm... 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn sâu - Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học và việc sử dụng phần mềm SPSS for Window 21.0 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú hơn lý luận về kĩ năng giao tiếp nói chung và kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế nói riêng; Chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Làm rõ thực trạng biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế bệnh viện Tâm thần Trung ương 2, những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế đồng thời đề
  • 19. biện pháp tâm lý sư phạm rèn luyện kỹ năng giao tiếp với người bệnh góp phần nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh. Những kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo bổ ích cho cán bộ, công nhân viên trong các cơ sở y tế. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về kĩ năng giao tiếp với người bệnh của NVYT bệnh viện Tâm thần Trung Ương 2
  • 20. LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ 1.1. Kỹ năng 1.1.1. Khái niệm kỹ năng KN là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học trong và ngoài nước quan tâm. Ở các góc độ khác nhau, các tác giả có các quan niệm khác nhau về KN: kĩ năng được xem là mặt kĩ thuật của hành động; là khả năng của cá nhân; ở một bình diện khác, kĩ năng là hành vi ứng xử. Quan niệm thứ nhất: Coi KN là mặt kỹ thuật thao tác hành động hay hoạt động. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả như: Ph.N.Gônôbôlin, V.A.Cruchetxki, V.X.Cudin, A.G.Côvaliôv... Các tác giả này cho rằng, muốn thực hiện được một hành động cá nhân phải có tri thức về hành động đó, tức là phải hiểu được mục đích, phương thức và các điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy, nếu ta nắm được các tri thức về hành động, thực hiện được nó trong thực tiễn là ta đã có KN hành động. V.A.Cruchetxki (1980) cho rằng: “KN là phương thức thực hiện hoạt động- cái mà con người lĩnh hội được” [6,tr78]. Để làm rõ khái niệm KN, tác giả đã phân tích kỹ vai trò của việc luyện tập trong thực tiễn, trong hoạt động, trong quá trình hình thành kỹ năng. Tác giả viết: Trong một số trường hợp thì KN là phương thức sử dụng các tri thức vào trong thực hành, tức là khi có tri thức con người phải áp dụng và sử dụng chúng vào trong cuộc sống, vào trong thực tiễn. Trong quá trình luyện tập, trong hoạt động thực hành KN trở nên được hoàn thiện và trong mối quan hệ đó hoạt động của con người cũng trở nên được hoàn hảo hơn trước. A.G Covaliov quan niệm: “KN là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động” [5]. Như vậy, các quan niệm nói trên nhấn mạnh mặt kĩ thuật của KN, coi KN như là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động, họ chưa nói tới kết quả hành động.
  • 21. hai: Coi KN không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà nó còn là khả năng của cá nhân trong hoạt động. KN theo quan niệm này vừa có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả: N.D.Lêvitôv, V.V.Bôgôvlovxki, X.I.Kixegof, K.K.Platônôv, A.V.Barabasicoov... N.D.Levitov cho rằng: KN là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định. Như vậy, ông chú ý đến kết quả hành động với nghĩa là phải biết chọn cách hành động đúng đắn, phù hợp với các điều kiện cho phép, dẫn theo [27]. Theo K.K.Platônôv thì người có KN không chỉ hành động có kết quả trong một hoàn cảnh cụ thể mà còn phải đạt được kết quả tương tự trong những điều kiện khác nhau. Do vậy, theo ông “KN là khả năng của con người thực hiện một hành động bất kì nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm- những cái đã được lĩnh hội từ trước. Hay nói cách khác KN được hình thành trên cơ sở của tri thức và kỹ xảo”, dẫn theo[2, tr97]. A.V.Pêtrôvski quan niệm: “Năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lí luận hay thực hành xác định, được gọi là các KN”, dẫn theo [2,tr149]. Quan niệm của các nhà giáo dục Việt Nam như Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô Công Hoàn, Lê Văn Hồng, Nguyễn Quang Uẩn cũng tương tự như quan niệm của các tác giả nói trên. Trong Từ điển tiếng Việt, KN được định nghĩa theo quan điểm thứ hai như sau: “KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”, dẫn theo [2,tr517]. Như vậy theo khuynh hướng này, KN không chỉ được hiểu là kĩ thuật mà còn đem lại kết quả cho hoạt động. Đây là quan niệm tương đối toàn diện và khái quát về KN. Tuy nhiên, các tác giả chưa quan tâm phân tích về mặt thao tác, hành động của KN.
  • 22. ba: Coi KN là hành vi ứng xử. Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận khá mới mẻ về kĩ năng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Kĩ năng được coi là hành vi ứng xử của cá nhân. Chẳng hạn, S.A.Morales & W.Sheator (1987) đã nhấn mạnh ảnh hưởng của thái độ, niềm tin của cá nhân trong KN [30]. Còn J.N.Richard (2003) coi KN là hành vi thể hiện ra hành động bên ngoài và chịu sự chi phối của cách cảm nhận và suy nghĩ của cá nhân [31]. KN không chỉ là kĩ thuật hành động, là kết quả của hành động mà còn là thái độ, giá trị của cá nhân đối với hoạt động. Cách tiếp cận này tương đối toàn diện, xem xét KN trong sự liên kết giữa tri thức, kinh nghiệm, phương thức hành động với các giá trị thái độ, chuẩn mực, động cơ hành động của cá nhân. Đây là một quan niệm đáng quan tâm và phù hợp với KN nghề nghiệp. Tuy nhiên, coi KN là hành vi, các tác giả chưa quan tâm nhiều đến mặt kĩ thuật của nó. Hiểu KN theo cách này có thể sẽ gặp khó khăn trong việc đào tạo KN và thiết kế các công cụ đo lường đánh giá chúng. Bất kỳ KN về một hoạt động nào cũng phải dựa trên cơ sở lý thuyết. Cơ sở lý thuyết đó là kiến thức. Sở dĩ như vậy là vì xuất phát từ cấu trúc của KN (phải hiểu mục đích, biết cách thức đi đến kết quả và hiểu những điều kiện cần thiết để triển khai các cách thức đó). Nói cách khác, có KN con người mới sử dụng được tri thức một cách tự giác và có chủ định, mới biết lựa chọn các biện pháp cần thiết, phù hợp với từng hoàn cảnh và vận dụng các biện pháp đó vào hoạt động để đạt mục đích. Nhìn chung khi xem xét KN ta phải lưu ý những điểm sau: Thứ nhất: KN trước hết phải được hiểu là mặt kỹ thuật của thao tác hay hành động nhất định. KN không có đối tượng riêng, đối tượng của KN là đối tượng của hoạt động, hành động. Không có KN chung chung, trừu tượng tách rời hành động. Khi nói tới KN là nói tới một hành động cụ thể đạt tới mức đúng đắn và thành thục nhất. KN hành động đồng nghĩa với hành động có KN. Thứ hai: Cơ chế hình thành KN thực chất là cơ chế hình thành hành động. Mỗi hành động bao giờ cũng có mục đích. Lôgic thao tác làm nên mặt kỹ thuật của hành động. Việc hình thành KN hành động là hình thành ở con người khả
  • 23. thao tác theo đúng lôgic phù hợp với mục đích khách quan. Việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh quá trình hình thành KN được quy định bởi sự định hướng, điều khiển và điều chỉnh quá trình hình thành và củng cố hành động. Thứ ba: KN là mức độ cao của tính đúng đắn, thành thục và tính sáng tạo của việc triển khai hành động trong thực tiễn. Đúng đắn, thành thục và sáng tạo là tiêu chuẩn quan trọng để xác định sự hình thành và mức độ phát triển của KN hành động. Hành động chưa thể có KN nếu còn mắc nhiều lỗi và vụng về, hành động còn tiêu tốn nhiều thời gian, công sức triển khai nó và hành động còn cứng nhắc mang tính dập khuôn. Vì vậy, để có KN hành động cá nhân không chỉ hiểu sâu sắc về hành động (mục đích, cơ chế, điều kiện hành động) mà chủ yếu phải mềm dẻo và linh hoạt triển khai hành động trong mọi hoàn cảnh của hành động. KN luôn được nhận thức. Thứ tư: KN là sản phẩm của hoạt động thực tiễn. Đó là quá trình con người vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để đạt mục đích đã đề ra. Từ những quan niệm trên, chúng tôi đi đến kết luận: KN là khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm và những cách thức hành động đúng đắn vào thực tiễn để thực hiện có kết quả hành động đó. Xem xét KN không chỉ đơn thuần về mặt kĩ thuật hành động mà còn là khả năng của chủ thể hành động. Như vậy, người có KN hành động trong một lĩnh vực hoạt động nào đó được biểu hiện ở những dấu hiệu sau: + Kĩ năng được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân. + KN là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm và các giá trị phù hợp với điều kiện hoạt động. + Sự vận dụng KN phải đem lại kết quả cho hoạt động. + Có thể thực hiện hành động, hoạt động có kết quả trong những điều kiện đã thay đổi. Nghĩa là, KN đòi hỏi con người phải có tri thức, kinh nghiệm cần thiết về hành động. KN chỉ có được khi con người vận dụng những tri thức kinh nghiệm đó vào hoạt động thực tiễn một cách có kết quả.
  • 24. tâm lý hình thành kỹ năng Để nắm vững bất kỳ KN nào con người không chỉ suy nghĩ về mục đích hoạt động của mình mà còn lĩnh hội các biện pháp và nắm vững phương tiện áp dụng thực tế các tri thức đã có một cách có ý thức. Kiến thức về cách thức hành động trong các điều kịên nhất định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nắm vững KN. Cơ chế hình thành KN, kỹ xảo thực chất là cơ chế hình thành hành động và luyện tập hành động đó trong các điều kiện khác nhau. Trong các lí thuyết mô tả cơ chế hình thành hành động, lý thuyết hoạt động của A.N Lêônchiev và lí thuyết hình thành các hành động trí tuệ theo giai đoạn của P.I Ganpêrin có giá trị lí luận và thực tiễn. Đứng trên lập trường của tâm lý học Mác-xít, khẳng định sự hình thành tâm lý, ý thức con người là quá trình chuyển hóa hoạt động từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong. A.N Lêônchiev đã đưa ra cấu trúc hoạt động gồm: Hoạt động ↔ Động cơ ↕ ↕ Hành động ↔ Mục đích ↕ ↕ Thao tác ↔ Phương tiện. Ông nhấn mạnh, hành động là đơn vị của hoạt động và muốn hình thành hoạt động thì trước hết phải hình thành hành động. Hành động được cấu thành từ thao tác, đồng thời hành động sẽ trở thành thao tác khi nó chuyển hóa phương thức để thực hiện mục đích của hành động khác [15]. Lý thuyết của A.N Lêônchiev đã góp phần làm rõ cấu trúc của hoạt động và khẳng định sự thống nhất giữa hoạt động bên ngoài và hoạt động bên trong. Tuy nhiên, nó chưa chỉ ra cơ chế chuyển hóa giữa hai hình thái hoạt động. Lý thuyết hình thành hành động trí tuệ theo giai đoạn của P.I Ganpêrin đã khắc phục được sự thiếu hụt này. Theo P.I Ganpêrin, một hành động được thực hiện bao giờ cũng có hai phần, phần định hướng và phần thực hiện. Trong đó phần định hướng quyết định chất lượng của hành động. Nó điều khiển phần thực hiện trong suốt quá trình
  • 25. Ganpêrin đã xác lập 3 loại cơ sở định hướng chủ yếu cho hành động và tương ứng với nó là 3 loại định hướng chủ yếu cho việc làm: Loại 1: Chỉ là các mẫu- hành động và sản phẩm của nó. Không có lời dẫn để thực hiện đúng đắn hành động. Trên cơ sở ấy, quá trình hình thành hành động diễn ra theo cách “thử và sai”. Kết quả là hành động có thể được hình thành nhưng không ổn định. Loại 2: Bao gồm cả mẫu hành động và sản phẩm của nó, đồng thời có cả chỉ dẫn để làm đúng hành động đó với vật liệu mới. Thực hiện đúng những chỉ dẫn đó, việc huấn luyện sẽ không gặp sai lầm và nhanh chóng. Khi điều kiện thay đổi nhưng không làm mất tính cơ bản của các điều kiện cần thiết hành động vẫn được ổn định. Loại 3: Việc huấn luyện có kế hoạch, cách phân tích việc làm mới được đặt ra trước khi chủ thể triển khai các hành động cụ thể. Sự phân tích ấy cho phép lấy ra các điểm tựa, các điều kiện để thực hiện đúng hành động. Trên cơ sở định hướng của hành động, chủ thể bắt tay vào việc thực hiện hành động. Việc thực hiện hành động được tiến hành tuần tự theo các bước: Bước 1: Hành động vật chất (hay vật chất hóa). Chủ thể tự mình thực hiện hành động lên đối tượng vật chất (vật thật hay vật thay thế) nhằm tách nội dung thực sự của hành động ra khỏi dạng khởi đầu của nó để lĩnh hội nội dung này. Sau đó chủ thể phải luyện tập hành động đạt đến mức thành thạo. Bước 2: Hành động với lời nói to. Bước này tiếp tục gia công hành động đã được thực hiện ở bước trước nhưng hình thức hành động đã thay đổi. Quá trình hành động không còn thực hiện bằng cơ bắp mà bằng lời nói. Đây chính là cách thực hiện hành động với đồ vật bằng ngôn ngữ. Nội dung của hành động không thay đổi nhưng hành động đã được tách khỏi điểm tựa vật chất và nhập vào lời nói. Bước 3: Hành động với lời nói thầm. Đây là giai đoạn hành động với ngôn ngữ nói to chuyển vào bên trong được thể hiện ở việc cấu tạo lại ngôn ngữ để tạo nên biểu tượng của từ. Hành động dần dần bứt khỏi chỗ dựa vật chất cuối cùng chuyển sang bình diện tinh thần.
  • 26. động với lời nói bên trong. Nội dung vật chất của hành động được biểu thị trong nghĩa của từ chứ không phải trong hình ảnh cảm giác. Nghĩa là nó không có âm thanh, nó biến thành ý nghĩ về hành động đã làm. Hành động được rút gọn và hoàn toàn chuyển thành hành động bên trong [15,tr364]. Cơ chế của việc hình thành một hành động tâm lí mới nói chung là tuân theo các bước chuyển hóa từ ngoài vào trong. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả luyện tập hành động với các đối tượng khác nhau là độ thuần thục, khái quát và tính sáng tạo, linh hoạt. 1.1.3. Các giai đoạn hình thành kỹ năng Theo quan điểm chung của một số nhà tâm lý học A.V Petropxki, Phạm Minh Hạc, Trần Quốc Thành...thì các giai đoạn hình thành KN là: * Nhận thức mục đích của hành động và kế hoạch hành động Muốn xây dựng một KN nào đó, người học cần phải: Một là, biết mình sẽ phải làm gì và sẽ phải đạt đến kết quả nào. Học viết trẻ phải xem mẫu chữ thật đẹp, thật rõ, qua đó trẻ sẽ thấy kết quả cuối cùng cần đạt tới. Hai là, biết được cách thức để đi đến kết quả đó. Những cách thức này hoặc tự người học xây dựng nên hoặc được người dạy hướng dẫn. Trong quá trình nghe hướng dẫn người học suy nghĩ, hình dung công việc sẽ phải làm, diễn lại hành động trong óc hoặc tay chân làm theo lời hướng dẫn. * Làm thử Sau khi nắm được phương thức hành động, cần theo đó để làm thử vài lần dưới sự kiểm soát của người hướng dẫn. Lúc này động tác chậm, không tự tin, các khâu của động tác không gắn với nhau vì luôn luôn phải dừng lại để đối chiếu với tri thức đã có, với lời hướng dẫn xem khâu tiếp sau là gì. Vận động của các cơ quan tham gia hoạt động còn quá căng thẳng, còn nhiều động tác thừa. Tùy theo khả năng của từng người mà độ sai sót nhiều hay ít, giai đoạn làm thử dài hay ngắn. * Luyện tập Làm đi làm lại nhiều lần động tác cần học. Lúc mới luyện tập, người học mới chỉ chú ý đến từng khâu riêng lẻ của hành động, chưa chú ý đến toàn bộ.
  • 27. luyện tập, người học biết liên kết nhiều hành động riêng lẻ lại, hành động lúc này liên tục, không bị ngắt quãng, tự tin hơn. Quá trình luyện tập cũng là quá trình làm cho động tác chính xác hơn, ít sai lầm hơn. Đến giai đoạn này người học có thể nhận thấy sai lầm của mình và biết tự sửa chữa. KN thực sự ổn định khi người ta hành động có kết quả trong những điều kiện khác nhau. Việc luyện tập có hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Điều kiện luyện tập, tính hệ thống của quá trình luyện tập, đặc biệt là sự nỗ lực của cá nhân... Như vậy, trong mỗi giai đoạn KN có những đặc điểm và cấu trúc tâm lý riêng. Sự phát triển của KN ở giai đoạn sau bao giờ cũng ở mức độ cao hơn so với giai đoạn trước, thể hiện ở tính mục đích và tính sáng tạo trong việc sử dụng các tri thức và các kỹ xảo đã có vào quá trình hoạt động để đạt mục đích đã đề ra. Từ đây có thể thấy, muốn hoạt động tốt trong một lĩnh vực nào đó thì phải có KN hành động ở mức độ sáng tạo trong lĩnh vực đó. Nếu không kết quả của hoạt động sẽ không đạt được chất lượng cao. Chúng tôi đồng nhất với quan niệm của một số nhà tâm lý học A.V Petrovxki, Phạm Minh Hạc, Trần Quốc Thành...về các giai đoạn hình thành KN. Việc hình thành KN diễn ra trên hai cấp độ chính: Cấp độ nhận thức và cấp độ thao tác hành động. Ở cấp độ nhận thức chủ thể phải có được các tri thức, hiểu biết về mục đích, yêu cầu và cách thức của hoạt động. Ở cấp độ thao tác hành động, chủ thể cần thực hiện KN trong thực tiễn ổn định, sau đó vận dụng KN vào các điều kiện khác nhau của hoạt động. 1.2. Kỹ năng giao tiếp 1.2.1. Giao tiếp Tác giả David K.Berlo cho rằng, giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không có chủ định có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được diễn đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. GT của con người diễn ra ở các mức độ trong con người, giữa con người với con người và cộng đồng. GT của con người là một quá trình năng động, bất thuận nghịch, tác động qua lại và có tính chất ngữ cảnh [22, tr 12].
  • 28. ở góc độ tiếp cận nhận thức, L.X.Vưgotxky cho rằng: “GT là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc”, còn theo KK.Platonôv “GT là những mối liên hệ có ý thức của con người trong cộng đồng loài người” [22, tr.11], [2]. Ở góc độ GT là một dạng hoạt động, định nghĩa của A.N.Lêonchiev đã chỉ rằng: “GT là một hệ thống các quá trình có mục đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách các quan hệ tâm lý sử dụng những phương tiện đặc thù trước hết là ngôn ngữ” [10]. Theo “Từ điển tâm lý học” của Vũ Dũng: GT là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ những nhu cầu hành động. GT bao gồm hàng loạt các yếu tố như: Trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. GT có ba khía cạnh chính: Giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác [7, tr.83]. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, GT là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau hay nói khác đi, GT xác lập và vận hành các quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác [22, tr.48]. Qua các khái niệm trên có thể thấy rằng giao tiếp là quá trình tác động qua lại trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, nhận biết lẫn nhau giữa hai chủ thể GT. GT thường tham gia vào hoạt động thực tiễn của con người, tham gia vào quá trình thực hiện và kiểm tra hoạt động của con người. Đó là một quá trình thiết lập mối quan hệ đa chiều giữa một người hoặc với nhiều người xung quanh, là quá trình mà con người ý thức được mục đích, nội dung và những phương tiện cần thiết để đạt kết quả khi tiếp xúc với người khác. Từ các quan niệm trên, chúng tôi đồng nhất với quan điểm của tác giả Nguyễn Quang Uẩn: GT là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói khác đi, GT xác lập và vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác.
  • 29. giao tiếp Kỹ năng giao tiếp tốt là cơ sở cho việc GT có hiệu quả. Để rèn luyện KNGT tốt cần thông qua rèn luyện hiệu quả những KNGT cụ thể. Có nhiều quan điểm khác nhau về KNGT. Tiếp cận ở khía cạnh kỹ năng xã hội, các tác giả Michelson, Sungai, wood và Kazdin cho rằng KNGT có thể hiểu đó là kỹ năng được hình thành qua giáo dục, rèn luyện bao gồm các hành vi ứng xử thích hợp bằng lời và không lời trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao trong GT với người khác [22, tr.110]. Nhóm tác giả Hoàng Anh, Đổ Thị Châu, Nguyễn Thạc cho rằng, KNGT là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối tượng và bản thân của chủ thể giao tiếp; là khả năng sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh, điều khiển quá trình GT nhằm đạt mục đích GT [2, tr.201]. Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: “Kỹ năng giao tiếp là khả năng vận dụng hiệu quả các tri thức và kinh nghiệm về giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ vào trong những hoàn cảnh khác nhau của quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp” [22, tr.112]. Qua xem xét các quan điểm khác nhau về KNGT, chúng tôi thống nhất với quan điểm nhóm tác giả Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc cho rằng: “KNGT là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối tượng và bản thân của chủ thể giao tiếp; là khả năng sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh, điều khiển quá trình GT nhằm đạt mục đích GT”. Dựa vào khái niệm kỹ năng giao tiếp, chúng tôi quan niệm rằng : Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế là khả năng hiểu biết nhanh chóng và vận dụng có hiệu quả những tri thức về quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của bản thân tác động lên người bệnh, nhằm đạt mục đích giao tiếp. Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu: Kỹ năng GT gồm hai khía cạnh:
  • 30. hiểu biết nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của người bệnh khi giao tiếp. Nghĩa là khi giao tiếp chúng ta nhận thức được người khác, hiểu biết về bản thân mình, nhận ra những biểu hiện bên ngoài như: cử chỉ, điệu bộ, hành vi… và những biểu hiện bên trong được con người kết hợp một cách hài hòa, hợp lý, nhằm đảm bảo kết quả cao trong hoạt động giao tiếp. + Khả năng sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh, điều khiển quá trình GT của nhân viên y tế. Do vậy khi giao tiếp nhân viên y tế cần phối hợp một cách hợp lý các chuẩn mực hành vi xã hội của cá nhân với sự vận động của phương tiện phi ngôn ngữ như: Ánh mắt, nụ cười, tư thế tay, chân, đầu…nhằm phù hợp với mục đích trong giao tiếp. 1.2.3. Phân loại kỹ năng giao tiếp KNGT bao gồm nhiều kỹ năng GT cụ thể tùy thuộc vào cách tiếp cận theo những tiêu chí khác nhau. Theo V.P.Dakharov, có thể dựa vào trật tự các bước tiến hành của một pha GT để xác định các KNGT cần có, các KNGT đó là: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong GT; Kỹ năng biết cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tương GT; Kỹ năng nghe và biết lắng nghe; Kỹ năng tự chủ cảm xúc và hành vi; Kỹ năng tự kiềm chế và kiểm tra đối tượng GT; Kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn và mạch lạc; Linh hoạt mềm dẻo trong GT; Kỹ năng thuyết phục đối tượng GT; Kỹ năng điều khiển quá trình GT; Sự nhạy cảm trong GT. Ông đã xây dựng trắc nghiệm thăm dò những KNGT nhằm phát hiện những khả năng tiềm tàng về GT của mỗi người [22, tr.112-113]. Ngoài ra, KNGT còn được xem xét theo tiêu chí khác, khi nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm, A.Cubanova và M.rakhmatulia cho rằng một quá trình giao tiếp sư phạm gồm ba thành phần lớn: Nhóm các kỹ năng định hướng trước khi giao tiếp sư phạm. Nhóm kỹ năng tiếp xúc xảy ra trong quá trình GT sư phạm. Nhóm các kỹ năng hướng quá trình GT sư phạm đến các giá trị khác nhau mà giáo viên cần hướng đến.
  • 31. nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nhận thấy các kỹ năng sau là cần thiết trong hoạt động khám, điều trị và chăm sóc cho người bệnh tâm thần: kỹ năng thiết lập mối quan hệ, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng tự chủ cảm xúc và hành vi, kỹ năng diễn đạt ngắn gọn dễ hiểu. 1.3. Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Để cải thiện sự hài lòng của người bệnh, vấn đề GT trong bệnh viện là yếu tố quan trọng góp phần làm cho người bệnh an tâm, hợp tác điều trị, trong nhiều trường hợp vấn đề GT còn quyết định sự thành công trong việc khám, điều trị và chăm sóc cho người bệnh. Vì vậy, cung cách GT và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của cán bộ y tế bệnh viện là rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh và uy tính của bệnh viện. 1.3.1.Một số đặc điểm tâm lý của nhân viên y tế Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lương y phải như từ mẫu” chúng ta cũng coi dịch vụ y tế là một loại dịch vụ đặc biệt, nhậy cảm và dễ tổn thương. Một thực tế rõ ràng là người thầy thuốc dù hoạt động trên bất cứ lĩnh vực nào cũng được xã hội coi trọng, nhưng có sự đòi hỏi cao. Vì vậy người thầy thuốc cần có những đức tính sau: Lòng nhân ái, giản dị, khiêm tốn, ngay thẳng, chính trực, tế nhị, yêu lao động, biết tôn trọng mọi người. Trách nhiệm của người thầy thuốc phải đem hết trình độ, khả năng và mọi phương tiện sẵn có để cứu chữa người bệnh, trong những trường hợp nếu tình trạng người bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của người thầy thuốc và vượt quá khả năng về điều kiện trang thiết bị hiện có thì trách nhiệm lúc đó không thuộc về thầy thuốc. Phẩm chất nghề nghiệp: Yêu nghề, say mê lao động nghề nghiệp có kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực mình đang công tác, làm chủ kỹ năng, kỹ xảo, không ngừng nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, năng lực tổ chức, có năng lực GT, xử lý tốt các mối quan hệ trong lĩnh vực nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, tôn trọng người bệnh, thực sự cầu thị và giữ bí mật nghề nghiệp, có sức khỏe tâm hồn gây cảm tình và sự kính trọng đối với người bệnh. Có tinh thần trách nhiệm (trách nhiệm nghề
  • 32. với người bệnh và nhân dân nói chung và với bản thân), tính trung thực, lòng dũng cảm, tính nguyên tắc, tính khiêm tốn, ham học hỏi, nghiên cứu cầu tiến. Người thầy thuốc phải là người có tri thức và có năng lực. Mục đích đào tạo thầy thuốc là nhằm trang bị những kiến thức để nhằm phục vụ và chăm sóc sức khỏe con người. Người thầy thuốc phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cho mình. Tính đặc thù của người thầy thuốc. Người thầy thuốc, có thể có quyền biết những gì bí mật về cơ thể lẫn những tâm tư thầm kín của người bệnh, đối với thầy thuốc, người bệnh có thể tâm sự và kể hết mọi chuyện thầm kín nếu họ cảm giác tin tưởng vào thầy thuốc. Mặt khác đứng trước yêu cầu được chăm sóc sức khỏe và tính mạng của mình nên người bệnh sẵn sàng hợp tác với thầy thuốc và cho phép thầy thuốc thăm khám họ. Người thầy thuốc, không được lợi dụng tình cảm cũng như vật chất trong khi thăm khám và điều trị cho người bệnh. Ngược lại, người thầy thuốc phải luôn giữ bí mật cho người bệnh, phải tôn trọng những tình cảm chân thành mà người bệnh đã đặt vào mình. Giao tiếp với người bệnh tâm thần: Giao tiếp xã hội, giao tiếp với bệnh nhân nói chung đã khó nhưng khi giao tiếp với người bệnh tâm thần thì những trở ngại đó còn tăng gấp bội, bởi lẽ đặc điểm nhân cách của người bệnh tâm thần diễn biến rất phức tạp, phần lớn họ mất năng lực về nhận thức và hành vi. Giao tiếp trong khám bệnh, điều trị và chăm sóc người bệnh, người thầy thuốc thể hiện bằng ngôn ngữ, thái độ và hành vi văn hóa trong các mối quan hệ giữa thầy thuốc với người bệnh. Thầy thuốc chủ động đặt câu hỏi để bệnh nhân kể về bệnh của họ, tùy theo cách kể của người bệnh, mà NVYT chỉ gợi ý hoặc hướng họ vào những vấn đề nhất định. Trong GT với người bệnh NVYT thường sử dụng hình thức giao tiếp trực tiếp với người bệnh và phương tiện giao tiếp chủ yếu là phương tiện GT ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Trong giao tiếp với người bệnh, NVYT thường nói nội dung rõ ràng, mạch lạc, xúc tích, ngắn gọn, đôi khi lặp đi lặp lại nhiều lần người bệnh mới
  • 33. Trong giao tiếp với người bệnh, NVYT thường không hỏi quá lâu, có thể gây kích thích bệnh nhân. Trong giao tiếp với người bệnh, NVYT thường biết những lúc nào thì cần hoặc không nói với người bệnh. Tùy hoàn cảnh cụ thể từng lúc, từng tình huống cụ thể mà cân nhắc về nội dung muốn nói (ví dụ: khi bệnh nhân ổn định hay không ổn định). NVYT thường dùng ngôn ngữ dễ hiểu, không dùng các từ gây cho người bệnh lo sợ (cho ra phòng cách ly, cố định bệnh, chích thuốc…) Khi GT với người bệnh tâm thần, NVYT cần hết sức nhẹ nhàng, cởi mở, phải thật sự cảm thông sâu sắc với bệnh nhân, xem đau đớn của người bệnh cũng như đau đớn của mình để chia sẽ nỗi đau đó. 1.3.2. Một số đặc điểm tâm lý của bệnh nhân tâm thần Bệnh tật là một vấn đề không ai mong muốn, vì vậy khi mắc bệnh ai cũng thấy lo lắng, mức độ lo lắng tùy thuộc vào tính chất của bệnh nặng hay nhẹ và diễn biến tâm lý của người bệnh và sự quan tâm chăm sóc của thầy thuốc và NVYT nhiều hay ít….đặc biệt trong bệnh viện tâm thần đối tượng bệnh nhân là những người bị rối loạn về trí nhớ, nhân cách, cảm xúc, tư duy nhận thức và hành vi…không bình thường hơn nữa hầu hết bệnh nhân tâm thần thường không có người thân chăm sóc mọi sinh hoạt từ ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt thường ngày dựa vào NVYT chăm sóc với họ bệnh viện chính là nơi điều trị và là ngôi nhà thứ hai của họ. Bệnh nhân tâm thần thường có những đặc điểm tâm lý sau: Hoạt động nhận thức: Những biến đổi hoạt động nhận thức, trí tuệ của người bệnh làm cho người bệnh mất tập trung chú ý; do những cảm xúc âm tính tác động lên quá trình tư duy. Làm cho người bệnh có biểu hiện giảm trí nhớ, đãng trí, không tập trung chú ý, giảm khả năng sáng tạo, giảm khả năng lao động hoặc họ mất nhận thức hay nhận thức sai về bệnh của mình do đó người bệnh thường không có khả năng phản ánh thế giới xung quanh, hành vi bị rối loạn và mất khả năng phê phán. Xúc cảm của người bệnh: Người bệnh có những cảm xúc âm tính, làm người bệnh giảm khí sắc, buồn rầu, ưu tư và cũng có khi lo âu, sợ hãi quá mức,
  • 34. thờ ơ với những sự việc xảy ra xung quanh mình, không có gì gây được thích thú khi GT với người khác. Thường bệnh nhân có những cảm xúc không ổn định họ thường chuyển cảm xúc này sang cảm xúc khác một cách nhanh chóng. Nhân cách của người bệnh: Người bệnh thường có những biến đổi về nhân cách: Có những hành vi chống đối, phủ định bệnh và họ cho rằng họ không bị bệnh, người bệnh không thấy hết mức độ nặng nhẹ của bệnh, họ không chịu hợp tác trong việc thăm khám và điều trị, họ giải thích bệnh tật và cách điều trị bằng những lời lẽ riêng làm tăng thêm ý nghĩa của bệnh. Đặc điểm giao tiếp: Giao tiếp của người bệnh tâm thần có những đặc trưng riêng vì bệnh tâm thần là những bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn mà gây nên những biến đổi thất thường trong ý nghĩ, cảm xúc, hành vi, tác phong, suy luận và ý thức. Người bệnh tâm thần khi giao tiếp thường rất ít tập trung, chú ý, lắng nghe mà người bệnh đôi khi nói liên tục, lập đi lập lại một vấn đề nào đó hoặc không nói và thường nói với nội dung vô nghĩa hay nói ra những từ rời rạc, không có mối liên hệ với nhau và không có ý nghĩa. Trong giao tiếp người bệnh tâm thần họ thường có những rối loạn về ngôn ngữ, suy nghĩ khó khăn, chậm chạp, nội dung đơn điệu, nghèo nàn, ngắt quảng thường dừng lại rất lâu sau mỗi câu nói. Trong giao tiếp đôi khi người bệnh luôn lặp đi lặp lại một số chữ hoặc câu không ai hỏi cũng nói hoặc khi hỏi người bệnh không trả lời mà chỉ lặp lại câu hỏi. Người bệnh thường ngại giao tiếp, họ hay thu mình đôi khi họ nói lẩm bẩm một mình nội dung không liên quan đến vấn đề. 1.3.3. Biểu hiện, mức độ kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế. 1.3.3.1. Biểu biện kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Kĩ năng giao tiếp bao gồm các kĩ năng thành phần như: Kĩ năng thiết lập mối quan hệ, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi...Mỗi kĩ năng có những biểu hiện cụ thể như sau:
  • 35. lập mối quan hệ Thiết lập mối quan hệ xã hội thực chất chính là thiết lập sự hiểu biết và quan hệ giao lưu trên bình diện rộng và sâu, khi con người tồn tại trong các mối quan hệ khác nhau, nghĩa là con người đang được quan tâm và đánh giá. Khi những cá nhân tồi tại trong các mối quan hệ nghĩa là họ có sự quan tâm đến nhau, dù chỉ là ở một chừng mực nhất định, khi cần có nhau, khi cần hỗ trợ hay khi cần chia sẻ, chắc chắn sự tận tâm, tận lực hay hết lòng sẽ xuất hiện và những khó khăn dường như có thể tan biến một cách dễ dàng. Kỹ năng thiết lập mối quan hệ có những biểu hiện như sau:  Biết cách làm quen  Biết làm cho đối tượng GT gần gũi mình  Biết cách mở đầu câu chuyện  Biết tiếp xúc với nhiều người  Biết thích nghi với môi trường  Biết tiếp xúc với mọi người, dễ dàng và tự nhiên. Kỹ năng thiết lập mối quan hệ được biểu hiện thông qua cá nhân có nhiều mối quan hệ với những người xung quanh, để thiết lập mối quan hệ với một người nào đó trước tiên ta phải tìm hiểu về họ như: giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, sở thích, hoàn cảnh gia đình…tất cả các vấn đề trên giúp cho ta tìm ra chủ đề mở đầu câu chuyện, mỗi đối tượng khác nhau với mục đích thiết lập mối quan hệ khác nhau sẽ có nghệ thuật thiết lập mối quan hệ riêng. Kỹ năng thiết lập mối quan hệ là một kỹ năng rất cần thiết trong hoạt động khám chữa bệnh. NVYT có kỹ năng thiết lập mối quan hệ tốt với người bệnh sẽ giúp cho NVYT thực hiện có hiệu quả trong công việc khám, điều trị và chăm sóc người bệnh tốt hơn. * Kỹ năng lắng nghe Lắng nghe là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong GT. Kỹ năng lắng nghe là khả năng hiểu được nội dung lời nói, nhận biết được tâm trạng, cảm xúc và nhu cầu của người nói. Theo Paul ToryRankin (1930) trong
  • 36. ngữ con người dùng 42,1% tổng số thời gian cho việc nghe, 31,1% cho việc nói, 15% cho việc đọc và 11% cho việc viết. Như vậy, gần một nữa thời gian GT dành cho lắng nghe, thế nhưng con người dành rất ít thời gian dành cho việc lắng nghe, trong GT lắng nghe có những biểu hiện như sau:  Hiểu được đối tượng một cách tốt hơn khi GT.  Nhận ra được những ý nghĩ, nội dung trong GT  Nhận biết được đối tượng GT nói lạc đề.  Thu thập được nhiều thông tin về đối tượng giao tiếp.  Lắng nghe để hiểu được cảm xúc, tâm trạng của người khác.  Trong lúc nghe thì không suy nghĩ việc riêng.  Nhận biết được giọng điệu, lời nói.  Ít bị chi phối bởi những gì xảy ra xung quanh mình. Lắng nghe là một kỹ năng nếu cố gắng rèn luyện hay trau dồi chúng ta sẽ thu được những lợi ích cần thiết. Để có được kỹ năng lắng nghe tốt cần tuân thủ các bước sau đây của lắng nghe. Tập trung: Yếu tố đầu tiên của lắng nghe có hiệu quả là tập trung. Tập trung có nghĩa là: Trong một thời điểm chỉ làm một việc. Nhiều người khi giao tiếp với người bệnh không tốt là: Trong khi lắng nghe người bệnh nói thì họ để các công việc khác xen vào, kết quả từ thông điệp được truyền tải từ người bệnh đến NVYT không hiểu như nhau. Cho nên, việc tập trung lắng nghe cũng là biểu hiện sự tôn trọng người bệnh, giúp cho người bệnh tin tưởng để giao tiếp cởi mở hơn. Tham dự: Có người nói phải có người nghe, tham dự trong GT được biểu hiện bằng sự chú ý của ánh mắt, những cái gật đầu của người nghe, về ngôn từ là những từ đệm: dạ, vâng, ừm… Hiểu: Hiểu được thông điệp của người gửi, yêu cầu người nghe phải xác định lại thông điệp bằng cách trình bày lại nội dung của người nói theo ý hiểu của mình hoặc bằng cách đặt câu hỏi để xác định như: ý anh/chị là…
  • 37. nhớ thông điệp chính. Hồi đáp: GT là quá trình tương tác hai chiều giữa người gửi và người nhận. Sau khi nhận thông điệp, bước tiếp theo cần có sự hồi đáp với người gửi, mới có thể hoàn chỉnh quá trình GT cũng như lắng nghe. Phát triển: GT không phải một thời điểm mà là một quá trình. Quá trình hồi đáp là chấm dứt cho một chu trình mới. Chu trình lắng nghe vừa mô tả là một mô hình khép kính và diễn ra theo chiều xoắn ốc đi lên. Kỹ năng lắng nghe là một kỹ năng rất cần thiết đối với NVYT đang công tác trong hoạt động khám, chữa bệnh. NVYT cần phải có kỹ năng lắng nghe tốt để hiểu được cảm xúc, tâm trạng nội dung lời nói của người bệnh nhằm thu thập được các thông tin liên quan đến người bệnh. Kỹ năng lắng nghe được biểu hiện thông qua tiếp xúc với người bệnh, để lắng nghe có hiệu quả trước tiên ta phải thể hiện sự chú ý khi GT với người bệnh thể hiện bằng cách “gật đầu”, nói “vâng”, đúng rồi, tôi hiểu, ừm… hay biểu hiện nét mặt thích hợp thể hiện sự đồng cảm với người bệnh. * Kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi Cảm xúc của con người là vô tận và không dễ kiềm chế nhưng thực tế con người vẫn có thể điều tiết hay kiềm chế cảm xúc của mình trong một chừng mực nào đó. Kỹ năng kiềm chế cảm xúc đó chính là khả năng con người có thể điều chỉnh cảm xúc của mình theo mục tiêu nhất định nào đó với những yêu cầu cụ thể để hướng tới sự GT có lợi nhất. Kỹ năng kiềm chế cảm xúc có những biểu hiện như sau:  Luôn giữ được bình tĩnh khi tiếp xúc.  Luôn giữ bình tĩnh, khi đối tượng GT la hét, quậy phá…  Luôn làm chủ được cảm xúc và hành vi khi bị xúc phạm (chửi bới, hăm dọa…).  Luôn giữ được bình tĩnh khi tiếp xúc với người bệnh nói nhiều hoặc ít nói.
  • 38. được bình tĩnh khi tiếp xúc có định kiến.  Luôn làm chủ cảm xúc và hành vi một cách thường xuyên trong hoạt động GT.  Luôn vui vẻ giao tiếp với mọi người. Kỹ năng kiềm chế cảm xúc là một kỹ năng rất cần thiết đối với NVYT đang công tác trong môi trường bệnh viện, NVYT phải thực hiện những công việc dưới nhiều áp lực do công việc quá nhiều và thời gian để hoàn thành công việc và thường tiếp xúc với người bệnh có những hành vi nguy hiểm… Việc nhận ra cảm xúc của chính mình và quản lý cảm xúc và hành vi đó theo hướng kiềm chế là điều cần thiết. * Kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu Khi GT với người khác cần truyền đạt những thông tin cho ngắn gọn dễ hiểu, đầy đủ và mạch lạc, để đạt được điều này phải trải qua quá trình truyền thông tuy nhiên làm thế nào để thông điệp bạn muốn gửi cho người nhận đến “đích” và đạt hiệu quả cao, bạn phải hiểu được quá trình truyền thông và kỹ năng diễn đạt. Kĩ năng này có những biểu hiện như sau:  Khi giao tiếp phải diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu, nội dung mình muốn nói.  Nói ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu.  Sử dụng từ ngữ thông dụng để giao tiếp.  Giải thích nội dung một cách ngắn gọn, đầy đủ. Trong kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu sử dụng ngôn ngữ nói là chủ đạo. Trong GT chúng ta không nên lạm dụng lời nói quá nhiều dẫn đến nhiều lời dài dòng, chỉ nên nói những gì cần nói, nói nhiều quá sẽ làm giảm giá trị lời nói của bản thân. Kỹ năng diễn đạt ngắn gọn dễ hiểu là kỹ năng rất cần thiết trong hoạt động khám, điều trị chăm sóc cho người bệnh tâm thần. Kỹ năng này sử dụng
  • 39. là chủ đạo trong GT với người bệnh. Vì vậy, trong GT với người bệnh NVYT cần nói những ngôn từ thông dụng, nội dung ngắn gọn, dễ hiễu. 1.3.3.2. Mức độ kĩ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Để đánh giá chính xác mức độ KNGT của nhân viên y tế, chúng tôi căn cứ vào điểm trung bình: Đây là tiêu chí đánh giá định lượng biểu hiện và mức độ các KNGT của nhân viên y tế. Đồng thời, hệ thống giao tiếp trong đề tài chúng tôi dựa vào Bộ quy tắc ứng xử trong ngành y của Bộ Y Tế ban hành ngày 25/02/2014 theo thông tư TT-BYT. Chúng tôi căn cứ vào kết quả thu được từ các công cụ điều tra chính là phiếu trưng cầu ý kiến dành cho nhân viên y tế, và phiếu trưng cầu ý kiến dành cho bệnh nhân, người nhà bệnh nhân để đánh giá. KNGT với người bệnh của nhân viên y tế được đánh giá theo 3 mức độ: Mức 1: mức thấp có điểm TB từ 1 đến 1,67 điểm Mức 2: mức trung bình có điểm TB từ 1,68 đến 2,35 điểm Mức 3: mức cao có điểm TB từ 2,36 đến 3 điểm 1.3.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế 1.3.4.1. Yếu tố chủ quan Tri thức và tầm hiểu biết của NVYT: NVYT là người có vốn hiểu biết sâu rộng, vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, biết được những diễn biến tâm lý của người bệnh sẽ là yếu tố thuận lợi trong việc GT với người bệnh đạt hiệu quả cao. Sự đào tạo của người thầy thuốc mang tính liên tục và thường gắn liền với tình trạng sức khỏe của con người cả trong trạng thái bình thường lẫn khi mắc bệnh, nghĩa là người thầy thuốc phải hiểu những đặc điểm tâm sinh lý, giãi phẩu, những cấu trúc chức năng…của một người bình thường, trên cơ sở đó mới nắm vững được những rối loạn bệnh lý và cách phòng chống. Ngoài kiến thức chuyên môn, người thầy thuốc còn phải hiểu biết
  • 40. về xã hội các môn khoa học khác, để làm tăng thêm vốn kiến thức sâu rộng của mình. Khả năng GT của NVYT còn thể hiện trong sự linh hoạt, khéo léo, nhuần nhuyễn trong GT, khi người bệnh có những hành vi kích động hay buồn chán…thì NVYT có cách GT phù hợp sẽ làm cho quá trình GT đạt kết quả tốt hơn. Ý thức cá nhân: Một việc làm nào đó NVYT ý thức được sự cần thiết của nó đối với bệnh nhân và xã hội thì họ sẽ hành động tích cực và ngược lại. Đồng thời ý thức cá nhân tạo nên động cơ và tâm thế hành động. Những người thầy thuốc có chuyên môn giỏi thường là những người có đạo đức, có lương tâm vì có thực sự yêu thương người bệnh, hết lòng vì người bệnh người thầy thuốc mới thực sự yêu nghề nên mới phấn đấu hết mình nhằm nâng cao trình độ phục vụ người bệnh. Nhân viên y tế sợ tiếp xúc tiếp xúc với người bệnh nhiều dễ bị nhiễm bệnh nghề nghiệp nên hạn chế giao tiếp. Đặc điểm thể chất cá nhân: NVYT phải là người có sức khỏe, khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, giọng nói...Sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giao tiếp giữa NVYT và người bệnh. Kỹ năng, kinh nghiệm trong nghề nghiệp: Cũng như trong GT, sẽ giúp cho NVYT nắm bắt được những nhu cầu GT của người bệnh từ đó sử dụng các phương tiện GT, hình thức GT cho phù hợp. Mối quan hệ GT của NVYT với người bệnh là mối quan hệ giữa một bên là nhân viên y tế và một bên là người bệnh. Loại hình giao tiếp chủ yếu giữa NVYT và người bệnh là giao tiếp chính thức: Là hoạt động giao tiếp được xác định trước và đáp ứng yêu cầu của hoạt động khám, điều trị và chăm sóc cũng có thể nói đây là hoạt động GT công việc. Trong giao tiếp với người bệnh, NVYT thường sử dụng các phương tiện GT một cách tổng hợp, song phương tiện chủ yếu là ngôn ngữ. Uy tín, phong cách công tác của NVYT đôi khi đóng vai trò quyết định đối với kết quả GT.
  • 41. khách quan Môi trường làm việc và GT của NVYT bệnh viện luôn phải thường xuyên tiếp xúc với người bệnh, vừa phải cảnh giác với những người có hành vi nguy hiểm, điều đó ảnh hưởng sức khỏe, tâm lý và giao tiếp của NVYT. Khi người bệnh nhớ nhà muốn có người để nói chuyện cho khuây khỏa thì NVYT là người an ủi, động viên giúp người bệnh. Trong môi trường làm việc và điều kiện GT khó khăn như vậy, nhưng mỗi NVYT luôn cố gắng động viên lẫn nhau để giúp đỡ người bệnh. Nhận thức người bệnh tâm thần: Chăm sóc người bệnh bình thường đã là một việc khó khăn, chăm sóc cho những bệnh nhân tâm thần lại càng khó khăn hơn. Bởi những bệnh nhân tâm thần là những người đã bị hạn chế về năng lực hành vi cũng như khả năng nhận thức, nhiều bệnh nhân còn mắc các bệnh nan y, bệnh truyền nhiễm. Chính vì vậy, NVYT thường xuyên phải tiếp xúc với người bệnh nên nguy cơ lây nhiễm cao. Trong khi các NVYT cho họ ăn còn bị hất cơm vào người và phun thức ăn vào mặt... Tuy nhiên, với tinh thần và trách nhiệm của người thầy thuốc, các NVYT luôn quan tâm và giúp đỡ những bệnh nhân, xem bệnh nhân tâm thần như người nhà của mình. Do người bệnh điều trị dài ngày, uống thuốc tâm thần nhiều nên giảm khả năng nhận thức và hoạt động hạn chế vì vậy khả năng giao tiếp với NVYT rất khó khăn. Một điều khó khăn trong khi giao tiếp là trong hoạt động khám bệnh và chăm sóc người bệnh, họ thường không mô tả được những triệu chứng bệnh cho các NVYT biết để xử trí và điều trị kịp thời. Chẳng hạn như bệnh nhân bị đau bụng có khi cũng không than phiền, có người bị thương tích mà không hề kêu đau. Thêm vào đó người bệnh thường không có thân nhân, hoặc gia đình không gần gũi để chăm sóc, nắm được tình hình sức khỏe nên NVYT ở đây chỉ có thể dựa vào lương tâm nghề nghiệp khi thăm khám mới không bỏ sót bệnh. Gia đình, bạn bè: Bản thân mỗi người NVYT khi quyết định nhận công việc ở bệnh viện tâm thần cũng bị gia đình, bạn bè can ngăn vì sợ khổ, sợ bị hành hung, sợ bị ảnh hưởng bệnh nghề nghiệp, công việc của nhân viên y tế ở
  • 42. thần nặng nhọc và chứa nhiều bất trắc hơn bất cứ chuyên khoa nào tại các bệnh viện khác. Với NVYT bệnh viện tâm thần, việc phục vụ các sinh hoạt cá nhân cho người bệnh không hề nhẹ nhàng như ở các chuyên khoa khác, mà tiêu tốn rất nhiều công sức. Với những lời nói nhỏ nhẹ, đôi khi to tiếng, quát tháo... không có cách nào không được các NVYT áp dụng với bệnh nhân. Nghề thầy thuốc là mơ ước của nhiều người, nhưng các NVYT chữa bệnh cho người bệnh tâm thần lại bị bạn bè nhìn với con mắt ái ngại. Thêm vào đó, làm việc nhiều năm tại bệnh viện tâm thần, không ít NVYT mắc bệnh…nghề nghiệp. Có người giọng nói “sang sảng” quát tháo, người đôi khi…thẫn thờ “bất bình thường”. Làm cái nghề luôn phải đối phó với những khó khăn và nhiều hy sinh nhưng có một động lực luôn thôi thúc họ đó là khi được nghe hai tiếng “cám ơn” của bệnh nhân. Tuy giản dị, nhưng hai tiếng cám ơn của người bệnh tâm thần thật chân thành, bởi nó xuất phát từ đáy lòng của những người bệnh khi họ ổn định và tỉnh táo. Do đó nó đã trở thành nguồn động viên những NVYT vượt qua mọi khó khăn, áp lực trong công việc hằng ngày. Y đức, tình người, sự tin tưởng vào tương lai phục hồi của người bệnh tâm thần đã được những NVYT chuyên khoa Tâm thần âm thầm từng bước khẳng định được mình trong xã hội ngày nay. Tính cách bệnh nhân: bệnh nhân là những người bị rối loạn về trí nhớ, nhân cách, cảm xúc, tư duy nhận thức và hành vi…Việc bệnh nhân hất cả bát cơm, bát cháo vào mặt, hay vớ được vật gì thì họ ném ngay vào người NVYT… là chuyện xảy ra hằng ngày mà bất cứ NVYT nào của bệnh viện tâm thần cũng có thể gặp. Khi những buổi thay đồ cho một người bệnh, có khi phải nói nhiều lần người bệnh mới chịu mặc cái quần, cái áo. Khó nhọc nhất là chuyện tắm, rửa cho người bệnh, việc thuyết phục bệnh nhân tự tắm cực kỳ khó khăn dù là với bệnh nhân nam hay bệnh nhân nữ, nên các NVYT phải tự tay tắm cho họ.
  • 43. 1 Việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp đã thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà tâm lý học ngoài nước và trong nước. GT rất cần thiết trong cuộc sống của con người. Con người không thể sống một mình và tách khỏi gia đình, bạn bè, người thân, cộng đồng mà phải gia nhập vào các mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc và tri giác lẫn nhau và ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau. GT có vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực mà các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu như: Lĩnh vực sư phạm, lĩnh vực quản lý, lĩnh vực đời sống…Tuy nhiên, ở lĩnh vực y tế GT vẫn chưa được các nhà khoa học nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu KNGT với người bệnh tâm thần, để có một cái nhìn tổng thể nhằm hướng đến chăm lo sức khỏe cho người bệnh tâm thần ngày càng tốt hơn. Xuất phát từ những yêu cầu ngày càng cao của hoạt động giao tiếp giữa NVYT với người bệnh trong việc khám, chữa bệnh, chúng tôi đã đi sâu nghiên cứu những kỹ năng giao tiếp cần thiết đối với người bệnh tâm thần như: KN thiết lập mối quan hệ, KN lắng nghe, KN tự chủ cảm xúc và hành vi, KN diễn đạt ngắn gọn dễ hiểu. Đây cũng là 4 tiêu chí để đánh giá KNGT, mỗi tiêu chí được cụ thể hóa bằng các biểu hiện cụ thể. Ngoài ra, luận văn đã nêu ra những yếu tố ảnh hưởng đến KNGT, như môi trường làm việc nguy hiểm và độc hại, môi trường làm việc quá chật chội, ồn ào, nóng bức.
  • 44. VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu Bệnh viện tâm thần trung ương 2 được xây dựng, thành lập đầu tiên năm 1915, với tên gọi là “nhà thương điên Biên Hòa”. Trong thời kỳ này nơi đây là trú xá của những người “điên” với nhiệm vụ quản lý người bệnh tránh gây rối cho xã hội. Giám đốc đầu tiên là bác sĩ C.Pusat, người Pháp, ông cùng đội ngũ trợ việc của mình ngoài việc giám sát, quản lý những người không may bị “điên” tập trung ở đây mà còn chăm sóc y tế cho họ. Đây là bước khởi đầu vô cùng quan trọng thay đổi quan niệm truyền kiếp về người “điên” bị ma quỷ ám gây nguy hiểm cho xã hội, nâng họ lên địa vị “người bệnh” và được chăm sóc y tế. Năm 2003, Bệnh viện được đổi tên thành Bệnh viện tâm thần trung ương 2, quy mô 840 giường bệnh, đồng thời Bộ y tế ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của bệnh viện với 2 nhiệm vụ chính là điều trị bệnh nhân tâm thần tuyến cuối và chỉ đạo tuyến chuyên khoa tâm thần cho các tỉnh phía Nam. Năm 2005, Bệnh viện được Bộ y tế xếp hạng là Bệnh viện chuyên khoa hạng I, và được nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Hàng năm, Bệnh viện khám, điều trị và phục hồi chức năng cho hàng ngàn lượt người bệnh tâm thần giúp người bệnh trở về cuộc sống bình thường góp phần ổn định an sinh xã hội và phát triển của cả nước. Bệnh viện đã kết hợp với các trường đại học, cao đẳng y đào tạo được hàng trăm cán bộ y, bác sĩ chuyên khoa tâm thần cho các tỉnh, thành phố phía Nam góp phần xây dựng và phát triển mạng lưới tâm thần cho cả nước. Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được của các thế hệ trước, đặc biệt được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ y tế, sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương tỉnh Đồng Nai, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc và toàn thể cán bộ nhân viên Bệnh viện Tâm thần trung ương 2 đã đoàn kết vượt qua khó khăn tiếp tục xây dựng và phát triển. Bệnh viện tâm thần trung ương 2, trong những năm qua đã đạt được nhiều danh hiệu cao quý cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất
  • 45. hiệu anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Bộ y tế công nhận Bệnh viện hạng I. Về đội ngũ cán bộ nhân viên hiện có 810 người, trong đó có 02 tiến sỹ, 19 bác sĩ chuyên khoa 2, 13 thạc sỹ, 58 bác sĩ chuyên khoa 1, bác sỹ đa khoa, 07 cử nhân điều dưỡng, 09 cao đẳng điều dưỡng, 236 điều dưỡng trung cấp, có 68 cán bộ có trình độ đại học - cao đẳng và 398 nhân viên phục vụ. Việc lực chọn khách thể và địa bàn nghiên cứu như vậy xuất phát từ các lý do sau: Địa bàn thành phố Biên Hòa là trung tâm phát triển kinh tế - chính trị - giáo dục của tỉnh Đồng Nai, trong khi đó Bệnh viện tâm thần trung ương 2 là Bệnh viện tuyến trung ương, Trực thuộc Bộ Y Tế, là cơ sở khám và điều trị bệnh không những cho nhân dân trong địa bàn tỉnh Đồng Nai mà còn tiếp nhận người bệnh ở các tỉnh lân cận như: Bình Dương, TPHCM, Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, đặc biệt là người bệnh đến từ các tỉnh miền Trung như: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Thuận và người bệnh đến từ các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long như : Kiên Giang, Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An… Điều này sẽ giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế một cách rộng rãi, khách quan và đầy đủ, vì người bệnh đến từ nhiều địa bàn khác nhau với nhiều dân tộc khác nhau, nhiều luồng văn hóa khác nhau, giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp khác nhau, vì vậy nhân viên y tế trong Bệnh viện cần phải có thái độ giao tiếp phù hợp để không ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe người bệnh trong quá trình họ đến khám bệnh và điều trị tại Bệnh viện. 2.2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài “Kỹ năng giao tiếp với người bệnh của nhân viên y tế Bệnh viện tâm thần trung ương 2” chúng tôi tổ chức nghiên cứu theo 2 giai đoạn: Nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực trạng.