Kề tóm tắt về chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan trong chiến dịch Hòa Bình

QĐND - Ngày 19-5-1952, liệt sĩ Cù Chính Lan là một trong số 7 người đầu tiên trên toàn quốc được Chính phủ tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ngày 10-8-1952, tại buổi Lễ tuyên dương công trạng, khi nghe đọc báo cáo chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan, từ trên Đoàn chủ tịch, Bác Hồ đề nghị toàn thể đứng dậy mặc niệm người con ưu tú của dân tộc.

Hoa của đất trời

Sáu mươi năm sau kể từ khi người Anh hùng hóa thân vì sự nghiệp cứu nước, chúng tôi về xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An-vùng “địa linh nhân kiệt” nổi tiếng “Bắc Hà Hành Thiện, Hoan Diễn Quỳnh Đôi”.

Kề tóm tắt về chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan trong chiến dịch Hòa Bình

Chị Cù Thị Mai và em trai Cù Chính Tuấn (con ông bà Lượng) chung tay làm giỗ kỵ Anh hùng liệt sĩ Cù Chính Lan.

Gần tròn 700 năm tuổi, Quỳnh Đôi nổi tiếng nghèo tiền nghèo gạo nhưng luôn tỷ phú về lòng yêu nước và chí hiếu học, đã sinh ra nhiều tên tuổi lớn làm rạng danh đất nước, trong đó có Anh hùng Cù Chính Lan. Dưới thời khoa bảng phong kiến, làng Quỳnh cung cấp cho đất nước 531 tú tài, 203 hương cống (cử nhân), 13 giải nguyên,4 phó bảng, 6 tiến sĩ, 2 hoàng giáp, 1 thám hoa, 1 bảng nhãn. Từ 1945 đến nay, Quỳnh Đôi ước có hơn 500 người tốt nghiệp đại học, 23 thạc sĩ, 33 tiến sĩ, 7 phó giáo sư, 3 giáo sư, 3 viện sĩ quốc tế.

Vào tới địa đầu xã Quỳnh Đôi đã gặp ‘’Nhà bia tưởng niệm nữ sĩ Hồ Xuân Hương” do Quỹ hợp tác phát triển văn hóa Thụy Điển - Việt Nam tài trợ. Đi tiếp gặp Nhà thờ Quỳnh Quận công Hồ Phi Tích, Khu mộ cụ Hồ Tùng Mậu, và chiếc am thờ vọng Anh hùng Cù Chính Lan. Điều ai cũng nhận biết là: Lịch sử làng Quỳnh với móng rộng sâu đến như thế, đương nhiên còn lưu giữ dấu ấn đậm đặc tuổi thơ của Cù Chính Lan, một thời ấu thơ vất vả khổ đau mà nuôi dưỡng hun đúc nên lòng yêu nước thương nòi, hun đúc nên cuộc đời bất tử.

Ngày ấy, vợ chồng cố nông Cù Khắc Nhượng - Hồ Thị Hạ nghèo của, giàu con. Cù Chính Lan sinh năm 1930 là con thứ ba và là con út. Năm bé Lan lên 4 tuổi đã mồ côi mẹ, thời gian sau ông Nhượng tục huyền cùng bà Hồ Thị Hoe và sinh hạ tiếp 4 người con nữa. Nhà nghèo đông con, bé Lan sớm theo anh trai đi làm thuê cuốc mướn cho địa chủ trong vùng để phụ giúp cha nuôi đàn em khác mẹ. Tuổi thơ làm thuê cuốc mướn đầy khổ đau, buồn tủi đã tạo cho bé Lan đức tính giàu lòng thương người, có ý chí tự lập, căm ghét cảnh áp bức bất công, và luôn nuôi chí được cầm súng đánh đuổi quân xâm lược, để Tổ quốc sớm được độc lập tự do, người dân làng Quỳnh sớm hết nghèo khổ, tủi nhục, lầm than, sớm được hưởng cuộc sống thanh bình no ấm. Năm 1946, quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Cù Chính Lan 16 tuổi đã xin gia nhập Vệ quốc đoàn.

Đức tính cần cù, chịu khó, chịu khổ, thương người cùng cảnh… được anh tiếp tục phát huy ở môi trường học tập, rèn luyện, chiến đấu, và trở thành giá trị cốt lõi hun đúc nên phẩm cách người anh hùng. Ngày 13-12-1951, ta mở trận tấn công cứ điểm Giang Mở (xã Bình Thanh, huyện Kỳ Sơn, cách thị xã Hòa Bình chừng 8km về phía Nam). Trong khi bộ đội ta chân đất đầu trần đang tập trung áp sát mục tiêu, bỗng những chiếc xe tăng địch lao đến ứng cứu. Hàng trăm đồng đội liệu có nhận ra nguy cơ dễ bị những khối thép hung dữ kia lao lên nghiến nát? Không do dự, với khẩu tiểu liên trong tay và quả lựu đạn bên hông, Tiểu đội trưởng Cù Chính Lan tách đội hình chạy bộ cắt đường, đuổi kịp chiếc xe tăng đi đầu. Nhanh như sóc, anh nhảy lên thành xe, cạy nắp tháp xe, thả lựu đạn đã rút chốt. Quả lựu đạn diệt gọn tốp địch bên trong, chiếc xe tăng bất động thành vật cản đường, những chiếc đi sau như rắn bị giập đầu không thể lên ứng cứu đồng bọn. Cứ điểm Giang Mở nhanh chóng bị ta tiêu diệt. Hai tuần sau - ngày 29-12-1951, anh cùng đồng đội đánh đồn Cô Tô. Trận này dù đã hai lần bị thương nhưng anh vẫn nén đau, tiếp tục phá mở những lớp rào gai, dọn đường cho đồng đội lên tiêu diệt địch. Lần thứ ba, anh bị thương nặng vẫn bám trụ trận địa, dốc hết tinh thần động viên anh em chiến đấu. Trận đánh kết thúc cũng là lúc Cù Chính Lan trút hơi thở cuối cùng giữa vòng tay đồng đội.

Được biết, trong lịch sử kháng chiến giữ nước của dân tộc Việt Nam, và cả trong lịch sử chiến tranh nhân loại, lần đầu tiên xuất hiện “cách đánh dùng lựu đạn diệt xe tăng” của Cù Chính Lan. Tấm gương mưu trí, quả cảm, sáng tạo của Cù Chính Lan lập tức được bộ đội ta noi theo áp dụng trên các chiến trường, khiến quân xâm lược ưu thế về vũ khí phải bạt vía kinh hồn. Về tương quan vũ khí, chiến công “lấy trứng chọi đá” của Cù Chính Lan là hy hữu, nhưng trong mọi cuộc giao chiến, yếu tố quyết định thắng lợi không hoàn toàn nghiêng về ưu thế của vũ khí. Cách đánh của Cù Chính Lan là sự vượt trội về lòng quả cảm, trí sáng tạo; là tất yếu của tinh thần xả thân cứu nước, là hành động phi thường - vũ khí siêu hạng của các chiến binh quả cảm, quyết đánh đuổi quân xâm lược để giữ nước giữ nhà.

60 năm và mãi mãi

Đã 60 năm trôi qua. Từ năm 1965, ngành Văn hóa tỉnh Hà Sơn Bình (cũ) sớm đề nghị ghi danh sự kiện anh hùng này. Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định công nhận khu di tích lịch sử Cù Chính Lan là Di tích quốc gia, năm 1994 khởi công xây dựng Khu di tích, dựng Tượng đài Anh hùng diệt xe tăng.

Những giá trị vật thể của người anh hùng đang được lưu giữ trong các bảo tàng, được “hóa thạch” trong các Tượng đài chiến thắng. Tên tuổi Anh hùng Cù Chính Lan được chọn đặt làm tên của Trường THCS phường Chăm Mát, thành phố Hòa Bình, Trường THCS xã Ia Chía, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Tại phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội có một tuyến phố mang tên Cù Chính Lan. Phố này nguyên là doanh trại bộ đội, năm 1997 hình thành khu dân cư đông đúc, năm 1998 thành lập đơn vị hành chính mới lấy tên là phố Cù Chính Lan.

Kề tóm tắt về chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan trong chiến dịch Hòa Bình

Một góc làng Quỳnh ngày nay.

Về lại làng Quỳnh rộng sâu lịch sử, nơi hun đúc nên chiến công lẫy lừng của người anh hùng đánh xe tăng trên đường số 6, chúng tôi trăn trở với những điều hiện hữu: Trước khi hóa thân vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Anh hùng Cù Chính Lan mới 21 tuổi đời, chưa kịp có vợ con. Sau ngày anh hy sinh, thân nhân gia đình chưa biết mộ phần anh yên nghỉ nơi đâu. Theo tập tục cổ truyền, cũng vì không biết phần mộ còn hay mất nên thân nhân gia đình đành lập am thờ anh tại làng Quỳnh để hương hồn người anh hùng trường tồn với quê hương.

Việc thờ phụng Cù Chính Lan tại quê do ông Cù Chính Lượng là anh trai liệt sĩ đảm nhiệm. Từ ngày ông Lượng mất, nhiều năm nay việc thờ phụng do bà Hồ Thị Lượng (vợ ông Lượng). Bà Lượng đã ngoài 80 tuổi, nhà ở xóm 6 xã Quỳnh Đôi. Ngoài 80 tuổi, không biết bà Lượng còn trụ được bao lâu trong ngôi nhà cấp bốn cũng sức tàn lực kiệt như tấm thân già của bà. Gian giữa ngôi nhà dành thờ tổ tiên, phối thờ hai cụ Cù Khắc Nhượng - Hồ Thị Hạ, thờ ông Cù Chính Lượng là con trai trưởng của hai cụ, ở tít trên cao phía đầu hồi nhà thờ Cù Chính Lan. Nhiều năm rồi, bà Lượng tuổi già sức yếu không thể trèo lên ghế cao để khói hương sưởi ấm anh linh liệt sĩ.

Vợ chồng bà Lượng sinh hạ được 3 gái, 3 trai, các con của bà đều lập gia đình ra ở riêng, gia cảnh đều khó khăn chật vật. Hai người con trai ở gần bà, hằng ngày, các con các cháu qua lại đỡ đần bà đồng tiền, bát gạo, giúp bà dọn dẹp cửa nhà. Anh Cù Chính Tuấn 40 tuổi, con trai trưởng của bà, người nay mai sẽ thay mẹ phụng thờ người chú liệt sĩ anh hùng. Ngôi nhà ngói của bà Lượng đã bị thời gian hủy hoại xuống cấp, nó minh chứng cho nỗi cơ cực của một gia đình bần cố nông nửa đầu thế kỷ 20 tại làng Quỳnh, đến nay “truyền thống nghèo” vẫn chưa dứt ra khỏi các thế hệ anh em, cháu chắt của người anh hùng.

Liệt sĩ Cù Chính Lan không người kế tự, kỵ giỗ luôn được cháu chắt duy trì tổ chức chu toàn bằng tâm nguyện, bằng đồng tiền eo hẹp của người nghèo. Hằng năm, đến ngày kỵ giỗ, các cháu chắt lại đông đủ tụ về ngôi nhà đơn sơ ấy, người góp con gà, kẻ góp cân nếp, gói bánh, bó hoa, đĩa quả… Họ chung tay cùng bà Lượng sửa soạn mâm cỗ, bày biện hương đăng sưởi ấm linh hồn người chú, người cậu, người ông… đã hy sinh quả cảm, được tôn vinh Anh hùng khi họ chưa có mặt trên đời. Bà Hồ Thị Lượng bùi ngùi:

- Nhà báo hỏi ước nguyện cuối đời của tui? Nhiều đêm, tui nằm nghĩ hoàn cảnh của chú mà đẫm nước mắt. Chú ấy đã nổi tiếng, nhưng đến nay, thân nhân gia đình vẫn không biết mồ mả chú nằm ở mô để đến thăm nom. Vợ chồng tui có 6 đứa con thì đều giàu lòng nghèo của, nhưng ngày giỗ kỵ của chú, chúng nó luôn chu tất làm tròn bổn phận với người đã khuất. Tui nay ở mai đi nỏ biết mô mà lần, mong các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các tập thể, cá nhân trong ngoài tỉnh giúp cho các cháu có một căn nhà kín đáo để làm nơi phụng thờ, để mưa nắng không tới được chỗ đặt di ảnh Anh hùng liệt sĩ Cù Chính Lan như bấy lâu nay.

Vinh, tháng 7-2011

Bài và ảnh: Mai Huyền - Hồ Thủy