Khi So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ta thấy

I. So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tưbản chủ nghĩa:1. Giống nhau:- Nhằm mục đích tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.- Tăng thời gian lao động thặng dư của công nhân, không chỉ đủ nuôi sống mình mà cịntạo ra phần thặng dư.- Nhà tư bản sử dụng để bóc lột cơng nhân nhằm tạo giá trị thặng dư.- Dựa trên cơ sở thời gian lao động thặng dư được kéo dài- Đòi hỏi độ dài ngày lao động nhất định, cường độ lao động và năng suất lao động nhấtđịnh.2. Khác nhau:Phương pháp sản xuất giá trị thặng dưPhương pháp sản xuất giá trị thặng dưtuyệt đốitương đốiĐược áp dụng phổ biến khi lao động tiến Được áp dụng phổ biến khi công nghiệp cơbộ cịn thấp, kỹ thuật chậm chạpkhí, kỹ thuật đã tiến bộNgày lao động phải dài hơn thời gian lao Thời gian lao động tất yếu giảm, năng suấtđộng tất yếu. Năng suất, giá trị, thời gian lao động tănglao động tất yếu khơng đổi.Bóc lột bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày Bóc lột bằng cách hạ thấp giá trị sức laolao động, tăng cường độ lao độngđộng, thông qua giảm giá trị tư liệu sinhhoạt và dịch vụ cần thiết cho người côngnhânII. Rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với nước ta hiện nay1.Ý nghĩa lý luận đối với nước ta hiện nay:-Nước ta có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khu vực kinh tế nhànước và tập thể, chúng ta cần vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kếthợp với thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sốngvật chất và tinh thần cho người lao động.- Gạt bỏ tính chất, mục đích của tư bản chủ nghĩa. Vận dụng các phương pháp vào cácdoanh nghiệp nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội; thúc đẩy pháttriển kỹ thuật mới, tiết kiệm chi phí sản xuất.- Giúp ích đối với q trình phát triển đất nước: Thúc đẩy tăng của cải phát triển kinh tế;tăng năng suất lao động xã hội; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ý thức rằngnước ta có xuất phát điểm thấp nên ra sức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vận dụng cácnguồn lực tạo đà phát triển mạnh.- Góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.2.Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện nay:- Học tập để quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế nước tasao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các thành phần kinh tế này đi vàoquỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. [Thông qua việc khai thác những luận điểm của Mác nói vềq trình sản xuất, thực hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùngnhững biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư].- Thông qua những sai lầm, bóc lột của chủ nghĩa tư bản để đạt được giá trị thặng dư,nước ta sửa chữa những sai lầm trong xây dựng kinh tế.- Làm rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngay trong thành phần kinh tế tư nhânở nước ta hiện nay [nhờ biết rõ về sự giàu có của nhà tư bản là kết quả của sự bóc lột giátrị thặng dư].- Hiểu rõ được bản chất của chủ nghĩa tư bản, nước ta sẽ có những chính sách đúng đắnđể phát triển kinh tế tư bản tư nhân.- Giúp doanh nghiệp vận dụng quy luật hợp lí để đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội.III. Bằng lý luận và dẫn chứng cụ thể làm rõ tác dụng của cơng nghiệp hóa, hiện đạihóa đối với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta: Nhìn lại quá trình dựng xây đất nước, ta nhận thấy cơng nghiệp hóa hiện đại hóađóng một vai trị to lớn và toàn diện đối với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954 và bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.Với chủ trương xác định cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm, mặc dùtrong điều kiện phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng sản xuất ởmiền Bắc đã tăng gấp nhiều lần về cơ sở vật chất-kỹ thuật.Trong suốt những năm xây dựng chế độ Chủ nghĩa xã hội, dù phải đối mặt với chiến tranhvà những tổn thất hay cả khi bị cấm vận lực lượng sản xuất vẫn phát triển vượt bậc; nướcta hồn thành hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, hàng trăm cơng trình lớn, trong đó cómột số cơng trình quan trọng từ dệt, xi măng, dầu khí, điện, cơ khí đến đường, thủy lợi vàgiao thơng. Ví dụ là các cơng trình thủy điện Trị An, Hịa Bình, nhiệt điện Phả Lại, cơngtrình thủy lợi Kẻ Gỗ, Dầu Tiếng, các nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, cầu lớnChương Dương, Thăng Long, kênh Hồng Ngự.Qua năm tháng, với những thành tựu của khoa học, công nghệ tư liệu sản xuất nước ta đãcó những phát triển đáng kể, đầu tiên là thay đổi những công cụ lao động trong lĩnh vựcnông nghiệp và công nghiệp. Cải biến từ những công cụ lao động đơn giản mang tính chấttiểu thủ cơng nghiệp sang những dây chuyền máy móc thiết bị hiện đại, tối tân. Sức laođộng của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động tríóc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng các chun mơn hóa ngày càng cao. TheoBáo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới [WIPO],chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng thứ 4 trong số các nước thuộc khối ASEAN.Theo số liệu thống kê năm 2015, có 9,99 triệu người lao động đã qua đào tạo, chiếm18,6% trên tổng số lao động trên cả nước, trong đó ở khu vực thành thị là 33,7%, gấp 3lần tỷ lệ này ở vùng nông thôn là 11,2%. Trong các năm gần đây, tỉ lệ lao động có trình độđại học của lực lượng lao động trực tiếp tăng lên khơng ngừng. Năm 2012, trung bình cảnước có 4,7%, năm 2013 là 5,8%, năm 2014 là 6,2%.IV.Để thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạngcông nghiệp lần thứ tư:  Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả- Về công nghiệp: Chú trọng phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnhtranh, tập trung sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đồng thời áp dụng-công nghệ mới. Phân bố không gian công nghiệp phù hợp với các vùng miền.Về nông nghiệp: đổi mới đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thứckhoa học công nghệ đến với người nông dân. Sử dụng công nghệ sinh học làm gia-tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.Về dịch vụ: Mở rộng và hiện đại hóa các dịch vụ tiềm năng như ngân hàng, bảohiểm, tài chính, logistic, dịch vụ về phần mềm công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗtrợ kinh doanh khác. Xây dựng thương hiệu dịch vụ và hàng hóa Việt Nam. Phát triển khoa học cơng nghệ và giáo dục - đào tạo, nâng cao khả năng sáng tạo vàtrình độ nguồn nhân lực: Đưa đầu tư của tồn xã hội phần lớn vào khoa học cơngnghệ, đổi mới phương thức quản lí khoa học cơng nghệ, thực hiện quyền tự chủ đầyđủ cho các tổ chức nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, gắn kết chặt chẽ khoa họccông nghệ với cuộc sống thực tiễn. Định hướng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoahọc công nghệ vào các ngành mũi nhọn của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 điện tử,tin học, trí tuệ nhân tạo, cơng nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nănglượng tái tạo,… Đẩy mạnh các hoạt động liên kết vùng kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới thể chế kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủnghĩa. Cải cách bộ máy và cách thức quản lý nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử,quản trị thơng minh. Khơng ngừng huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê NinTạp chí Mặt trận về “Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam”

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.Bạn đang xem: So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

a] Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.

Bạn đang xem: So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:



Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:



Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:



Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:



Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.

b] Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:



Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

• Giá trị thặng dư siêu ngạch

Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động [mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội].

Xem thêm: Bàn Về Lợi Ích Của Việc Tự Học Hay Chọn Lọc, Nghị Luận Xã Hội: Suy Nghĩ Về Vấn Đề Tự Học

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.

Video liên quan

Chủ Đề