Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam

Nguyên nhân của sự suy giảm đa dạng sinh học ngoài các yếu tố đến từ tự nhiên như thiên tai, bão, lũ, cháy rừng, hạn hán… thì còn một nguyên nhân quan trọng khác đó chính là hoạt động của con người như chặt phá và đốt rừng trên phạm vi lớn, thu hoạch quá mức các loài động vật và thực vật, thay đổi thói quen canh tác, sử dụng bừa bãi thuốc bảo vệ thực vật, can thiệp, cải tạo theo hướng chủ quan ở các vùng sinh thái, vùng đất ngập nước, các hoạt động đánh bắt cá mang tính huỷ diệt, ô nhiễm môi trường và phát triển đô thị…

Dân số loài người tăng nhanh và không đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đã đưa đến sự gia tăng các nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên và thay đổi các quá trình tự nhiên của hệ sinh thái dẫn đến việc khai thác quá mức các tài nguyên như gỗ, lâm sản, động vật hoang dã...

Việc săn bắn một số lượng lớn các loài thú là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra sự tuyệt chủng một số loài trên khắp thế giới và đặc biệt nghiêm trọng ở Châu Mỹ và Australia. Mặc dù vẫn còn rất nhiều tranh cãi nhưng rõ ràng trong hàng nghìn năm qua, con người đã gây ra những biến đổi quan trọng đối với sinh cảnh và động, thực vật bản địa.

Số lượng các loài bị tuyệt chủng được ghi nhận trong những thế kỷ vừa qua là nhỏ hơn rất nhiều so với sự dự đoán cho những thập kỷ sắp tới. Sự khác biệt này, một phần là do sự gia tăng tốc độ mất nơi cư trú trong những thập kỷ gần đây làm gia tăng sự tuyệt chủng loài và suy giảm đa dạng sinh học ở những nơi đó. Ở nhiều nước, chỉ còn tương đối ít các thảm thực vật tự nhiên chưa bị bàn tay con người chạm tới .

Việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành nơi canh tác hay chăn gia súc đã tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, nhiều nơi rừng đã thực sự biến mất trên một quy mô lớn.

Theo một số thống kê gần đây, năm 1990, rái cá đã biến mất ở Hà Lan và chỉ một năm sau đó nước Anh đã công bố loài dơi tai chuột bị tuyệt chủng. Trái đất nóng lên làm nhiệt độ nước biển tăng cao đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một số loài san hô.

Trong số 700 loài động vật có xương sống, không xương sống và thực vật có mạch được ghi nhận trên toàn thế giới từ thế kỷ 16, một số loài đã nằm dưới ngưỡng cần thiết để suy trì sự sống sót lâu dài bởi môi trường sống của chúng đã bị tàn phá. Chúng có thể vẫn tồn tại trong vài thập kỷ nữa nhưng không có hy vọng phục hồi.


Các chủ đề được xem nhiều


HÃY ĐĂNG KÝ CÁC KÊNH YOUTUBE CỦA CHÚNG TÔI

  • Phát triển bền vững

Thứ tư, 10/11/2021 07:00 [GMT+7]

Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm?

Your browser does not support the audio element. Miền BắcMiền Nam

Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản ảnh hưởng rất lớn đối với suy giảm đa dạng sinh học tại Việt Nam. Thực tế con người vừa phụ thuộc vừa phá hủy hệ sinh thái.

Đây là kết luận của Báo cáo “Đánh giá Đa dạng sinh học tại Việt Nam” được Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam [WWF Việt Nam] và Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học [Bộ TN&MT] vừa công bố.

Thực tiễn, con người đang hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ sinh thái để tồn tại. Thế nhưng, các hệ sinh thái này lại đang ngày ngày bị chúng ta xâm phạm không thương tiếc. Báo cáo cho thấy, 21% các loài thú, 6,5% các loài chim, 19% các loài bò sát, 24% các loài lưỡng cư, 38% các loài cá và 2,5% các loài thực vật có mạch đã bị đe dọa.

Trong gần 20 năm trở lại đây, các khu vực có rừng là sinh cảnh bị ảnh hưởng nhiều nhất với hơn 10.544 km2 diện tích đất rừng bị mất, chủ yếu do chuyển đổi thành đất rừng trồng và đất trồng cây ăn quả. Khoảng 2,8 triệu ha rừng tự nhiên cũng đã bị mất do chuyển đổi sang phát triển các loài cây trồng thương mại khác…

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bao gồm cả những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp như: Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, khai thác gỗ trái phép, buôn bán trái phép các loài hoang dã, các hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng thâm canh nông nghiệp, cũng như các hoạt động sản xuất kinh tế khác nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng gia tăng của con người.

Đi sâu vào vấn đề để thấy, sử dụng tập trung các hệ sinh thái thường đem lại lợi ích ngắn hạn hiệu quả nhất, nhưng cũng là nguyên nhân rơi vào tình trạng quá tải và dẫn tới những tổn thất ghê gớm về lâu dài.

Một quốc gia có thể có GDP cao nhờ việc tàn phá các khu rừng và “vắt kiệt” tài nguyên ngành ngư nghiệp để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đó là sự phát triển thiếu bền vững, về lâu dài, tài nguyên và sinh kế của người dân sẽ không còn. Nếu giá trị kinh tế đầy đủ của các hệ sinh thái được xem xét trong việc đưa ra quyết định của các nhà quản lý thì sự suy thoái sẽ giảm xuống rõ rệt và thậm chí còn được đẩy lùi.

Hệ lụy là suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái đang làm tổn hại đến nhiều người nghèo nhất. Đáng ngại hơn cả lại là nhân tố chính gây ra tình trạng đói nghèo, vì nó làm tăng sự lệ thuộc vào các dịch vụ hệ sinh thái. Điều này sẽ tăng thêm áp lực cho các hệ sinh thái, các nỗ lực giảm đói nghèo cũng như sự suy thoái hệ sinh thái.

Suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái khiến nhiều người lo lắng. [Ảnh minh họa]

Chính vì vậy, đẩy lùi sự suy thoái của các hệ sinh thái trong khi vẫn đòi hỏi chúng đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng của con người là một thách thức lớn. Những thay đổi trong chính sách có thể làm giảm đi nhiều hệ quả tiêu cực của áp lực gia tăng đối với hệ sinh thái. Tuy nhiên, những hoạt động tích cực mà con người đã xúc tiến dường như còn quá khiêm tốn. Và chắc chắn các hệ sinh thái đang bị hủy hoại nặng nề và các dịch vụ hệ sinh thái sẽ còn tiếp tục bị mất đi nếu chúng ta không có những chương trình hành động hữu hiệu.

Trái Đất - nơi cung cấp đầy đủ các điều kiện để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Chúng ta cần ăn, mặc, đi lại, giao tiếp… tất cả những nhu cầu đó được thỏa mãn bởi các thành phần của tự nhiên là đất, nước, rừng, không khí… Tuy nhiên, trong số 51 tỉ ha diện tích bề mặt, Trái Đất chỉ có thể cung cấp cho con người 18% diện tích có khả năng tạo năng suất sinh học để thỏa mãn những nhu cầu trên.

Rõ ràng, điều chúng ta cần là một chuẩn mực để đánh giá và định hướng nhu cầu sử dụng, điều này giúp chúng ta xác định được “điểm ngưỡng nhu cầu” - mức nhu cầu được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.

Còn nếu vẫn áp đặt tư duy phát triển nóng, tiếp tục bào mòn, bóp nghẹt hệ sinh thái - chính là chúng ta đang tự bào mòn đi chất lượng sống của chính mình.

Nguyễn Linh [T/h]

  • Liên Hợp Quốc kêu gọi đầu tư nhiều hơn cho việc bảo tồn các hệ sinh thái
  • Phục hồi cỏ biển giúp tái tạo nhanh chóng các chức năng của hệ sinh thái
  • Hệ sinh thái ngập mặn phi thường phát triển trong môi trường nước ngọt ở Mexico

Bạn đang đọc bài viết Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm?. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email:

  • đa dạng sinh học
  • suy giảm đa dạng sinh học
  • việt nam
  • hệ sinh thái
  • động thực vật

Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang rơi vào tình trạng đáng báo động. Bởi lẽ, để phục vụ cho nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường và ý thức kém của một số bộ phận người dân đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Vậy, suy giảm đa dạng sinh học là gì? Nguyên nhân, biện pháp hạn chế mất đa dạng sinh học? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên.

1. Suy giảm đa dạng sinh học là gì?

Để hiểu được suy giảm đa dạng sinh học thì tác giả sẽ giới thiệu cho bạn đọc biết về khái niệm về đa dạng sinh học.

Đa dạng sinh học là bao gồm nhiều dạng và cá thể của các loài cùng với những biến dị di truyền của thế giới sinh vật, cũng như nhiều dạng của các cấp độ tổ chức sinh giới nhất là dưới dạng hệ sinh thái ở mọi môi trường trái đất, khái niệm này cũng bao gồm cả những mức độ biến đổi trong thế giới tự nhiên mà đơn vị cấu thành là những sinh vật.

Theo đó, suy giảm đa dạng sinh học là sự suy giảm chất lượng và số lượng của các loài sinh vật, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên.

2. Suy giảm đa dạng sinh học trong tiếng Anh là gì?

Suy giảm đa dạng sinh học được dịch sang tiếng Anh như sau: Biodiversity decline

  • Nguyên nhân suy giảm: Causes of decline
  • Đa dạng sinh học: Biodiversity
  • Biện pháp: Solution

Biodiversity degradation is the deterioration of the quality and quantity of organisms, adversely affecting the lives of humans and nature.

3. Nguyên nhân, biện pháp hạn chế mất đa dạng sinh học:

Thứ nhất, nguyên nhân của sự suy giảm đa dạng sinh học     

Hiện nay, khi nhu cầu cuộc sống con người ngày càng nâng cao đã kéo theo nhiều vấn đề xảy ra, dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng đối với môi trường. Các nguồn tài nguyên sinh vật được phát triển qua nhiều thời kỳ và đến nay thì với mức độ khai thác không ngừng nghỉ để phục vụ cho môi trường sống thì việc khai thác, hoạt động chặt phá rừng đã diễn ra trên diện rộng với quy mô ngày càng nghiêm trọng. Các loại động vật và thực vật bị biến chủng và có xu hướng suy giảm số lượng và chất lượng khi con người sử dụng quá nhiều chất hóa học, thuốc trừ sâu, dẫn và tiêu nước này vào nguồn nước hoặc trực tiếp phun, bỏ vào nguồn nước hoặc các loại thực vật, chính vì điều này đã dẫn đến vấn đề nhiều loại sinh vật bị tiêu huye, ô nhiễm môi trường, không khí và nguồn nước ngày càng tăng, nhiều vùng đất màu mỡ, phát triển đa dạng sinhh học đã bị con người chuyển hóa thành các đô thị và đất nông nghiệp.

     Khi vấn đề suy giảm đa dạng sinh học được xác định các nguyên nhân trực tiếp, để đối phó lại thường có các hành động phòng vệ và ngăn cản, chẳng hạn như việc ban hành luật, hạn chế hoạt động khai thác cây rừng, khai hoang đất để làm nương rẫy, chấm dứt việc khai thác các nguồn tài nguyên, công bố các khu bảo tồn bổ sung. Những phản ứng này là cần thiết trong những trường hợp quá tràn lan việc khai thác quá mức. Nhưng hiếm khi những hành động này đủ để thay đổi những nguyên nhân kinh tế, xã hội đang đe doạ đa dạng sinh học.

Mức độ khai thác của con người đối với thiên nhiên đang ngày càng mạnh mẽ, hầu như trong tất cả các môi trường, nếu thấy có cơ hội, tiềm năng phát triển thì con người sẽ đầu tư công sức, tiền bạc vào để khai thác được tối đa lợi ích từ thiên nhiên, vì ai cũng cho rằng lợi ích từ thiên nhiên là miễn phí, là “của trời cho loài người” chính vì vậy phải khai thác hết mình để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Cũng chính vì nhiều người suy nghĩ như vậy mà hiện tưởng chặt phá rừng, khai thác cây gỗ tại các khu rừng cấm đang diễn ra ngày càng nhiều. Tất cả đều phụ thuộc vào ý thức của mỗi người về trách nhiệm và khả năng nhận thức của bản thân đối với môi trường.

Xem thêm: Suy thoái rừng là gì? Thực trang, nguyên nhân và giải pháp?

     Sự hình thành sự khai thác quá mức bao gồm các nhu cầu về hàng hoá như gỗ, động vật hoang dã, sợi, nông sản, thủy sản, khoáng sản…ngày càng gia tăng. Mỗi một loại sinh vật đều đem lại những giá trị thiết thực cho đời sống con người, chính vì con người đang tìm cách khám phá và khai thác ngày càng nhiều lợi ích đó. Dân số loài người tăng, thậm chí không đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển, đã đưa đến sự gia tăng các nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên và các quá trình của hệ sinh thái.

Các chính sách định cư khuyến khích việc di chuyển những lao động hiện đang thất nghiệp lên vùng biên giới. Các khoản nợ đã buộc chính phủ khuyến khích việc sản xuất các hàng hoá có thể trao đổi ở nước ngoài. Nhiều vấn đề đang đặt nặng lên trách nhiệm của nhà nước, giải quyết tình trạng thất nghiệp, chất lượng đời sống nâng cao, vấn đề an sinh xã hội được hiện đại hơn…Đây chính là những vấn đề đã thúc đẩy các nhà cầm quyền tìm cách tháo gỡ, tạo ra những giá trị thực tế, kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài vào cùng khai thác tài nguyên của nước ta, để từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết vấn đề công ăn việc làm,… Sự phân chia sở hữu đất không hợp lý đã không khuyến khích người nông dân đầu tư vào việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh vật có giá trị, đã gây ra những vụ sạt lỡ đất do không có rừng đầu nguồn phòng hộ, ô nhiễm môi trường đất kéo dài….

Tại nhiều quốc gia, chính sách năng lượng đã đưa đến nhiều việc làm không hiệu quả, thêm vào đó là ảnh hưởng của ô nhiễm không khí và những nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều vấn đề mà thế giới cùng nhau trải qua vì những hậu quả nghiêm trọng do việc sử dụng, khai thác tài nguyên quá mức đó chính là ô nhiệm không khí, nhiều sương mù bao phủ nhiều thành phố gây ra các bệnh về đường hô hấp, ung thư da, nhiều trận bão, sóng thần cao vài chục mét đã bao phủ nhiều thành phố lớn tại Singapo, động đất, núi lửa diễn ra thường xuyên tại Nhật Bản…Và một vấn đề đang khiến cả thế giới lo lắng và đe dọa đến loài người đó chính là dịch bệnh Covid đang biến chủng thành nhiều loại khác nhau, gây ra nhiều cái chết thương tâm,…

 Như vậy, trên thực tế con người không hoàn toàn là nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm số lượng, tuyệt chủng của các loài nhưng với hàng nghìn năm qua đã gây ra những biến đổi quan trọng sinh cảnh với nhiều dộng và thực vật bản địa. Hậu quả để lại ngày càng nhiều, nhiều vấn đề phát sinh xảy ra trực tiếp đến con người.  Và theo như nghiên cứu thì hấu hết các chuyên gia, nhà khoa học đều cho rằng tác động của con người chính là yếu tố tác động trực tiếp đến việc mất đa dạng sinh học

Ngoài ra, sự suy giảm đa dạng sinh học 1 phần do cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội khiến cho môi trường chưa thể cung ứng được nhu cầu của những loài sinh vật này, tạo ra nhiều vấn đề phản ứng ngược lại với môi trường và sự đa dạng sinh học. Bên cạnh đó tìm hiểu về nguyên nhân mất đa dạng sinh học là gì trên thế giới chính là việc phổ cập toàn cầu Châu Âu các giống vật nuôi hay cây trồng gia tăng đã khiến cho các dịch bệnh gia tăng và đồng thời làm suy giảm thực vật động vật trên các đảo và thêm mối đe dọa với các loài trên lục địa, bên cạnh đó việc người Châu Âu đặt trên đến các hòn đảo vô hình chung lảm ảnh hưởng đến tính nhạy cảm của các loài động thực vật với minh chứng là các loài chim hay loài bò sát đã biến mất và sự hủy diệt của những loài chim hồng tước biết bay.

Thứ hai, biện pháp hạn chế mất đa dạng sinh học

Khi những con số đang diễn ra trước mắt và sự suy giảm đa dạng của môi trường sinh học hiện nay đã một phần nào làm thức tỉnh được nhận thức của con người. Hậu quả xảy ra là vô cùng nghiêm trọng nếu như con người không ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với môi trường.

Đặc biệt, khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống. Tình hình hiện nay cho thấy việc khôi phục bảo vệ các hệ sinh thái, nguồn tài nguyên rừng, sự màu mỡ của đất đai, sự đa dạng loài và đa dạng di truyền để bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế hoặc phần nào ngăn chặn sự tàn phá, khai thác ngày càng nghiêm trọng của con người từ đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Xem thêm: Hành vi tham nhũng là gì? Nguyên nhân, biểu hiện và hậu quả?

Theo như nhu cầu thực tế thì con người cần phải nâng cao ý thức của bản thân đối với môi trường, nhận thực được trách nhiệm của bản thân là gìn giữ môi trường sống trong phạm vi mình sinh sống, làm việc, hạn chế những hành động thiếu ý thức do việc khai thác cũng như xả rác bừa bãi, sử dụng những chất hóa học có độc tính cao, tác động mạnh vào môi trường sống…

Bên cạnh đó, sự quản lý, cũng như ban hành những chính sách của Đảng và Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Bởi nhà nước sử dụng quyền lực của mình tạo ra những hành lang pháp lý nghiêm khắc hơn, chặt chẽ mang tính sâu rộng và lâu dài hơn. Đối với từng lĩnh vực cần gia tăng số lượng quản lý trong quá trình khai thác, sử lý của các doanh nghiệp, cá nhân về việc khai thác rừng, phải lên kế hoạch và phương hướng xử lý khôi phục tài nguyên rừng sau khi khai thác, tăng cường công tác giám sát và nâng cao đội ngũ cán bộ kiểm lâm, thời xuyên túc trực để hạn chế và phát hiện xử lý nghiêm khắc những vụ trộm rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn…

Đối với vấn đề an sinh xã hội, cần tăng cường và nâng cao ý thức của người dân trong xử lý nước thải ra tại các hộ gia đình, khu công nghiệp, xí nghiệp, nhà máy sản xuất,…Tăng cường công tác quản lý và xử lý nghiêm các trường hợp chưa xử lý nước thải đã dẫn ra ôi trường nước trực tiếp, làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, sông hồ,…

Các chuyên gia cũng cho rằng cần có những cơ chế chính sách hợp lý cho những người tham gia bảo vệ rừng cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, trình độ chuyên ngành và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân về tầm quan trọng của rừng ngập mặn.

Xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm, các chủ rừng, cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm để phá rừng, cháy rừng; rà soát, kiểm kê, thu hồi toàn bộ diện tích đất rừng bị chặt phá, lấn chiếm; sử dụng sai mục đích, hoặc chuyển mục đích sử dụng trái quy định của pháp luật để phục hồi rừng, đặc biệt tại các công ty, doanh nghiệp lâm nghiệp.

Video liên quan

Chủ Đề