Nhàn xét về món ăn và cũng cách sinh hoạt của nhân vật trữ tình trong bài thơ Nhàn

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài số 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại cho dân tộc hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm đó là: Bạch vân am thi tập (chữ Hán khoảng 700 bài) và Bạch vân quốc ngữ thi (chữ Nôm khoảng 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ si, thú thanh nhàn đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là bài thơ Nôm trích từ Bạch vân quốc ngữ thi. 

Một mai, môt cuốc, môt cần câu

Thơ thẩn dầu ai, vui thú nào 

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ 

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẻ uống,

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Bài Nhàn trong Bạch vân quốc ngữ thi thuộc về chủ đề triết lí xã hội, mà tập trung nhất là triết lí Nhàn có người đã từng cho rằng tư tưởng Nhàn, triết lí Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung và Bạch vân quốc ngữ thi nói riêng. Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một cứu cánh mà là một phương thức tư duy một triết lí. Cho nên Nhàn là khái niệm chữ không phải là tâm trạng.

Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực.

Yếu tố tích cực của chữ Nhàn là ở chỗ: Nhàn là sông theo lẽ tự nhiên, sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản.

Chúng ta sẽ thấy rất rõ những điều trên qua việc đi sâu phân tích bài thơ Nhàn của ông trong Bạch vân quốc ngữ thi.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng liên tiếp số từ một nhằm mục đích nhấn mạnh hoàn cảnh sống của ông khi cáo quan về quê. Với những dụng cụ quen thuộc, một mai, một cuốc, một cần câu và có thể là cả một con người, một cuộc đời ở đó. Số từ một biểu hiện sự cô đơn, một mình của Nguyễn Bỉnh Khiêm chốn quê nghèo, ông làm bạn cùng với những vật dụng quen thuộc của nhà nông là mai đào đất, xắn đất, cuốc lật đất, đi kèm phía sau là một cần câu để nhằm chỉ ra rằng sau những lúc làm lụng vất vả, ông vẫn giữ được các thú chơi tao nhã, thanh đạm của người Việt Nam đó là đi câu cá. Số từ một thể hiện sự cô đơn, trong một câu thơ nhà thơ đã sử dụng tơi ba số từ một nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, trống vắng của một con người mang đầy chí lớn đang phải sống cuộc đời ẩn dật. Nhưng đứng sau ba số từ một cũng lại là một loạt các danh từ mai, cuối, cần câu, chắc gì sau ba từ một đứng trước… không có một từ một đứng sau. Chắc gì sau ba danh từ đó không có thểm một danh từ ẩn sau đó. Đó là một cuộc đời, một con người chính các công việc của nhà nông ấy, tuy vất vả nhưng lại rất ấm áp và gần gũi. Để rồi chỉ có gần gũi, vui bên thú chơi câu cá tao nhã, thanh đạnt mới làm cho nhân vật trữ tình của chúng ta phải thơ thẩn mà không cần bận tâm đến người khác nói gì, nghĩ gì, làm gì. Chỉ cần những điều khiển ta được vui vẻ, được hoà hợp được.

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nhịp thơ của câu đầu 2/2/3 thể hiện sự khẳng định, quyết tâm có thể cả sự thách thức.

Một mai / một cuốc / một cần câu

Nhịp thơ đã tạo cho câu thơ có sức chuyển mạnh mẽ, không chỉ là lời nói khẳng định thông thường những gì mình trải qua mà táe giả qua đó muốn khẳng định sự quyết tâm vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc đời đầy xô bồ, đổi thay. Và từ đó thấy rằng nhân vật trữ tình rất yêu quí, gắn bó thanh đạm mà gần gũi, ấm áp tình người. Cũng chính vì thế mà có sự chuyển nhịp ở câu sau:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nhịp thơ 4/3 là sự chậm lại của cảm xúc tâm trạng và nó đem lại một hơi ấm, niềm vui cho nhân vật trữ tình đến đây đã tìm thấy phương thức sống của cuộc đời mình. Với ước muốn sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản, yên vui, vì thế nhà thơ của chúng ta đã rời xa chốn lao xao để về nơi vắng vẻ.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ 

Người không, người đến chốn lao xao. 

Tự nhận mình là dại, tác giả dại vì đã rời xa chốn phồn hoa đô hội, lấp lánh trở về sống ẩn nấp, vất vả nơi vùng quê nghèo. Nhưng có phải vì thê mà dại chăng? Và thế nào là khôn, không là đến sống ở nơi sung sướng, đầy đủ lụa là gấm vóc, ấm êm, cung phụng lẽ vì thế mà mới không. Và khôn, dại như thê nào mà tìm đến ở chôn lao xao và nơi vắng vẻ.

Đặt câu thơ trong hoàn cảnh sống của tác giả, chúng ta sẽ thấy quan niệm về nơi vắng vẻ và chôn lao xao hay quan niệm dại và khôn. Nơi vắng vẻ ở đây chính là cuộc sống đạm bạc với thôn quê còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Chỉ có người dám coi thường danh lợi, coi thường vật chất, coi của cải chỉ là phù phiếm mới có thể dại mà đến ở nơi vắng vẻ. Còn chốn lao xao chính là nơi tấp nập ngựa xe, nơi sung sướng và đầy đủ, là cuộc sống hoàn toàn đối lập với nơi vắng vẻ và nơi đó chỉ đành cho những ai biết khôn, những ai coi danh lợi, vật chất là cuộc sống thì mới sống và muốn sống ở đó. Tác giả đã sử dụng hai từ láy vắng vẻ và lao xao để miêu tả hai chốn ở khác nhau. Vắng vẻ từ láy tạo nên đậm nét sức bình dị, yên bình của thôn quê. Còn từ láy lao xao nó như có cả tiếng reo vui, tiếng náo nhiệt và tấp nập của chốn đô thành. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vè là thôn quê, yên lành, còn chốn lao xao là vùng kinh đô đầy náo nhiệt. Nhưng còn không là thế nào và dại là ra sao? Chon nơi vắng vẻ là để tránh xa cuộc sống xô bồ của cuộc đời đầy bon chen, toan tính và không ít hiểm nguy. Và khi tránh xa những điều đó thì tác giả dại hay khôn. Còn khôn sống ở nơi đô thị tránh xa sự yên bình, thanh sạch khi đó là khôn hay dại khi bước chân vào chốn xô bồ. Nguyễn Binh Khiêm đã dùng biện pháp nghệ thuật sóng đôi ở hai câu thơ này để diễn tả sự đối lập, tương phản, thậm chí là trái ngược hoàn toàn tới xung khắc của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự lựa chọn.

Ta dai / ta tìm nơi vắng vẻ 

Người khôn / người đến chốn lao xao.

Ta đối với người, dại đối với khôn, ta tìm đối với người đến (thể hiện sự lựa chọn qua hai từ tìm và đển) nơi vắng vẻ đối với chốn lao xao. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Bởi nghệ thuật đối, bởi ý nghĩa tư tưởng của hai câu muốn nói đến. Hai câu thơ đối xứng nhau rất chuẩn cả về từ và cả về dấu thanh tạo nên sự khác biệt và đối lập nhằm khẳng định một lần nữa cách sống và cách lựa chọn của tác giả?

Xem thêm:  Bình giảng bài ca dao: Bây giờ mận mới hỏi đào…

Hai câu tiếp theo miêu tả cuộc sống của Nguyễn Bình Khiêm nơi thôn quê nghèo thanh đạm với những sản vật riêng chỉ có nơi thôn quê.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá 

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Mặc dù sống ở nơi thôn quê còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng ở đó lại cos các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn rất tầm thường nhưng lại ngon vô cùng. Chỉ có măng trúc và giá thôi, mà nào thức nấy, những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Thế nhưng khi ăn chúng ta sơ cảm nhận được vị ngon của nó nhờ vào sự hoà hợp, cảm thông của tấm lòng với tấm lòng. Bởi vì đã không ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng:

Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng.

Hay:  

Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách

Qua hai câu thơ thứ 5 và 6 này, chúng ta thấy cuộc sống của tác giả nơi thôn quê thaajt đạm bạc mà thanh nhàn. Đạm bạc hỏi món ăn chỉ măng và giá nhưng thanh nhàn, hoà hợp với thiên nhiên.

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Chỉ có vùng nông thôn người ta nói có thể được vùng vẫy, thoải mãi thả hồn mình vào trong thiên nhiên hoà mình với thiên nhiên để cảm hết niềm hạnh phúc, thú vui lạc quan ở đời.

Nếu mới đọc qua chúng ta chỉ thấy đó là hai câu thơ tả cuộc sống nơi thôn quê của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng chiều sâu trong đó lý tưởng sống cùa ông, là khát vọng được sống hoà hợp với thiên nhiên. Được ăn những món ăn mà chỉ do thiên nhiên hoà quyện với thiên nhiên mới khiến ta mở rộng lòng mình, vùng vẫy ôm thiên nhiên vào lòng và cũng chính thiên nhiên ôm ta vào lòng nâng dậy sức sống và khơi mát tâm hồn. Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn ta thanh thản, ấm áp mà thôi. Là nếu cần đánh đổi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ sẵn sàng đánh đối phú quí để được tận hưởng cuộc sống này, tận hưởng các nhàn.

Để rẻ công danh muốn được nhàn.

Dường như bất kì thi nhân nào cũng không tránh được một thú vui, không thể thiếu của cuộc đời đó là rượu và Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tránh khỏi niềm đam mê với các thú vui ấy:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống 

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Đây là hai câu thơ có lấy điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say và nằm dưới gốc cây hoè ngủ. Ông ta mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh phú quí, vinh huấn. Nhưng khi tỉnh dậy thì đó chỉ là giấc mộng, thấy cành hoè phía nam chỉ có một tấc kiến mà phơi. Điển tích này để chỉ phú quí chỉ là giấc chiêm bao.

Chính vì quan điểm này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không màng đến danh lợi bởi danh lợi, phú quí chỉ là phù phiếm và chỉ như một giấc mộng rồi sẽ qua đi.

Để rẻ công danh muốn được nhàn.

Hay:

Thấy dặm thanh vân lại bước chen Được nhàn ta sá dường thân nhàn. 

Chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bình Khiêm đôi lập với tất cả chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn than chức không phải là nhàn tâm. Dù nhàn nhưng vẫn lo âu việc nước việc đời.

Hai câu kết tác giả muốn khẳng định rằng tiền bạc của cải chỉ là phù phiếm, nó sẽ nhanh chóng tan biến theo bước đường thời gian, vì vậy mà phương châm sống đừng chỉ lúc nào cũng mong về tiền tài, danh vọng.

Tuy rằng chữ nhàn có những hạn chế như: nhiều yếu tố nhàn rỗi, nhàn tâm, yên phận khá đậm nét. Mà đặc biệt một nhà nho ưu thời mẫu tục như Nguyễn Bỉnh Khiêm mà lại chủ trương nhàn tâm, chủ trương vô sự ngáy pho pho trước cảnh đất nước loạn lạc, nhân dân cực khổ lầm than. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm hi vọng với những vần thơ triết lí này của mình có thể giữ trọn được tâm hồn và nhân cách để cuộc sống con người được hài hoà, hợp với lẽ của tự nhiên và xã hội cũng đi đến…

Nhàn là một triết lí sống để bảo toàn nhân phẩm trước sự đua chen danh lợi, trước sự băng hoại về đạo đức:

Có thuở được thời mèo đuổi chuột 

Đến khi thất thế kiến tha bò.

Và:

Hoa càng khoe nở hoa càng rữa 

Nước chứa cho đầy nước ắt vơi. 

Toàn bộ bài thơ nhàn là một lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là triết lí sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Binh Khiêm. Tuy có lúc nó có mang yếu tốt tiêu cực nhưng nó lại là triết lí sống giúp con người ta sống đẹp hơn, đúng hơn với đời.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài số 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bào thơ Nôm trong “Bạch Vân am tập ” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”

Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phan Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết:

“Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành khôngcần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà cóývị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mảng thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉlệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của “ôngTiên giữa cõi trần ” này.

“Nhàn ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, đó là những vần thơ “giản di mà linh hoạt, khôngmàu mè mà có ý vị”

“Một mai, một cuốc, một cần cáu,

Thơ thẩn, nào ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắngvẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măngtrúc, đôngăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao ”,

Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,”

Thơ thẩn, nào ai vui thú nào Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chí có “một” mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng “Một mai, một cuốc, một cần câu ” ấy vui vầy giữa “chốn nước non ”, thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có “một” nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào cũng mặc, riêng “ta ” cứ thơ thẩn, nhởn nhơ ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế “thơ thẩn ” ấy. Cách sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của ức Trai trong thế kỉ XV sau khi đã thoát vòng danh lợi:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then ”,

              (Thuật hứng – 24)

Hai câu 3, 4 trong phần thực đối nhau: “Ta dại” đối với “người khôn”, “ta tìm” đối với “người đến”, “nơi vắngvẻ” đối với “chốn lao xao”. Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai cách sống, hai nhân cách trong cuộc đời. “Nơi vắng vẻ” với Nguyễn Bỉnh Khiêm là quê tổ đất cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Lí Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi “hằng mến” đối với Tuyết Giang phu tử:

Xem thêm:  Bình giảng bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi

“Ba gian am quán, lòng hằng mến,

Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.

Thanh vắng thú quê giàu mấy nả,

Dữ lành miệng thế mặc chê khen”

“Chốn lao xao” theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bọn cơ hội vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành “sức mạnh của cán cân cônglí”:

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”

             (Thơ nôm, bài số 5)

Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ “ta”, “người”, chúng ta cảm thấy ánh mắt của nhà thơ nheo lại với nụ cười mỉm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn, người đến chốn lao xao”

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh đục tìm trong, đã thoát “chốn lao xao ” đầy bụi trần:

“Thu ăn măng trúc, đôngăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ”

Trúc và giá còn thơm ngon hơn cao lương mĩ vị “chốn lao xao”.Tắm hồ sen về mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân cư sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen ” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen,

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

               (Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ởtrên đã nói “ta tìm nơi vắngvẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao” thì với “tư” lại “nhìn xem phủ quý tựa chiêm bao”.Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao ”

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng “.Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp chữ “nhắp ” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hòe An, được côngdanh phú quỷ rất mực vinh hiển. Sau bừng mất tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng… Chúng tôi không nghĩ như thế. Một là, Thuần Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉlà “giấc Nam Kha ” mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quỷ tựa chiêm bao ”

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khá nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuần Vu Phần là một con người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, caokhiết nên mới có tâm thế “nhìn xem phủ quỷ tựa chiêm bao? ” Con người ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là “cố trí ”, là “tương thức”:

“Trăng thanh gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cố tri”

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi thường phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu, một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn:

“Hoa trúc tay tự giồng

Gậy, dép bén mùi hoa

Chén, cốc ánh sắc hồng

Rửa nghiên cá nuốt mực

Phatrà, chim lánh khói… ”

       (Ngụ hứng ở quán Trung Tân)

“Nhàn” là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thểhiện một tàm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có lối sống nhàn tuyệt đẹp.

Hình ảnh Tuyết Giang phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn.

Học bài “Nhàn ” để chúng ta hiểu rõ hơn cám hứngthế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại.

Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đỗ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống “Nhàn ” mà có được!

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài số 3

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao nhất thời phong kiến, làm quan dưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranh chấp giữa các tập đoàn phong kiến Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn kéo dài, ông bèn cáo quan về ẩn cư trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong, Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học trò, do đó được người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài “Nhàn”.

Trong hai câu đề, nhà thơ nêu lên cảnh lao động tự cung, tự cấp:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dù ai vui thú nào”

Mai là công cụ để đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá. Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong thái khoan thai của nhà Nho. Dù có lao động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyện với cuộc sống mà mình đã lựa chọn. “Thơ thẩn” là sống ung dung, không bận tâm đến sự đời đen bạc.

Hai câu tiếp theo so sánh hai cách sống:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao”

“Ta” đây là Nguyễn Bỉnh Khiêm và những người cùng chí hướng như ông. “Người” đây là đám vua chúa, quan lại đương thời. “Nơi vắng vẻ” là cuộc sống giữa thiên nhiên, xa cách xã hội ồn ào, lộn xộn, do đó không phải bon chen, cầu cạnh nên tâm hồn được thoải mái. “Chốn lao xao” là chốn triều đình, chốn cửa quyền có lâu đài, bổng lộc hậu hĩ nhưng phải cạnh tranh quyết liệt. Ngày xưa, Nguyễn Trãi đã nói về sự nguy hiểm của chốn này:

“Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh”

Vậy là “khôn” mà thành “dại”; “dại” mà thành “khôn”. Thể bình đối tạo nên ấn tượng về sự tương phản sâu sắc giữa “ta” và “người”. Đọc đến đây, ai cũng có cảm tưởng như cụ Trạng Trình đang mỉm một nụ cười châm biếm những người gọi là “khôn”. Nối tiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm, về sau Lê Hữu Trác – tác giả Thượng Kinh ký sự – cũng không ra làm quan, sống ở quê nhà và tự gọi là Lãn Ông – tức ông già lười nhác, lười nhác về mặt công danh.

Hai câu luận nói về sinh hoạt của tác giả:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Như vậy là nhà thơ đã có một cuộc sống nền nếp, ổn định mùa nào thức ấy, mùa nào thú ấy. Măng trúc và giá xét cho cùng chỉ là những món ăn đạm bạc. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tỏ ra mãn nguyện về cuộc sống như thế vì nó hợp với người quân tử: cầu đạo, bất cầu thực. Trong bài “Hàn Nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ cũng nói:

Xem thêm:  Bàn về việc học văn của các bạn trẻ hiện nay

“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch,

người quân tử ăn chẳng cầu no”

Nhà Nho hướng về một cuộc sống tinh thần cao đẹp mà coi thường sự thiếu thốn về vật chất. Thanh đạm mà thanh cao.

Hai câu kết khái quát lên một tầm cao triết lí về cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Nhà thơ lấy điển tích Thuần Vu Phần, một viên tướng đời Đường, vì chán công danh, xin từ chức, về nhà uống rượu làm khuây. Một lần say, ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao được làm phò mã, có cuộc đời rất phú quý. Tỉnh dậy thì ra đang nằm cạnh tổ kiến bên gốc cây hòe! Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giống như Thuần Vu Phần, coi phú quý chỉ là chuyện chiêm bao, chuyện hão huyền, vô nghĩa, không đeo đuổi nó và an tâm với cuộc sống bên bến Tuyết Giang.

“Nhàn” là bài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, phần lớn là thuần Việt. Hình ảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ. Nó đánh dấu một bước tiến của thơ Nôm Đường luật ở nước ta trong thế kỉ XVI.

Bài thơ có nội dung sâu sắc. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ XVI đang chìm trong khủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sống trong cảnh nhàn để giữ cho tâm hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vì đó là một nét đẹp của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao “Như nhật trung thiên” vằng vặc.

Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thiên về nhận xét, phân tích, khái quát – lối thơ của những nhà tư tưởng lớn.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài số 4

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) không chỉ là một nhà nho uyên thâm lỗi lạc, có nhiều đóng góp cho triều đình, nhưng do thời cuộc rối ren, ông không chấp nhận chốn quan trường thị phi, về sống ẩn dật tại quê nhà. Ông để lại cho nhân loại một số lượng tác phẩm lớn, bài thơ Nhàn cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong cảnh ẩn dật.

Giữa cảnh đất nước rối ren, nhân dân lầm than cơ cực, triều đình thì mục nát, một nhà yêu nước như ông phải sống nhàn nhã, ẩn dật vô công rồi nghề. Tả lại cảnh nhàn hạ của mình mà giọng điệu của ông thật chua cay.

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai  vui thú nào”

Đọc câu thơ, thoạt nghe người đọc có cảm tưởng nhà thơ đang có cuộc sống ung dung tự tại. Câu đầu, nhịp điệu trong hai câu thơ thể hiện sự thong thả, ung dung. Nhà thơ dùng một số từ “một” lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ sinh hoạt: “Một mai, một cuốc, một cần câu”. Cuộc sống của nhàn nhã của nhà thơ thật bình dị, đơn giản nhưng ông vẫn thấy vui. Ông không quan tâm đến xung quanh, mặc cho thế sự cuộc đời có thế nào, đối với ông cuộc sống của ông lúc này thật đáng sống. Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo”, vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến cái vui của ẩn sĩ.           

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Đối với ông “Nơi vắng vẻ” chính là nơi thôn quê yên tĩnh nơi ông đang sống còn “chốn lao xao” là nơi thành thị, chốn quan trường đầy rẫy những thị phi. Trong cuộc sống của con người, người khôn sẽ chọn ở nơi đông đúc, theo thói vụ lợi, giành giật, bon chen vinh hoa, phú quý, lợi ích vật chất để được hưởng cái hay, cái tốt đẹp ở đời. Chỉ có những con người dại dột mới xa lánh lợi lộc, tìm chốn thanh cao, vắng vẻ, sống an nhàn để tu tâm dưỡng tính. Nhưng nhà thơ đi ngược lại với quan niệm bình thường đó, ông tự nhận mình là kẻ khờ dại, ngu dốt, giữ chốn triều đình hưởng lộc vua mà không sống lại chọn vùng quê nghèo để sống cho qua ngày.

Đối lập giữa “nơi vắng vẻ” với “chốn lao xao”, tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật, xa lánh chốn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa, nhấn mạnh phương châm sống của bản thân. Khôn kia là cái khôn của kẻ tiểu trí còn cái dại này là cái dại của bậc đại trí. Tại sao lại như vậy? Vì nắm được thời thế, vì không muốn bụi bặm của xã hội nhiễu phương vấy bẩn. Hai câu thơ 3, 4 còn thể hiện sự kiên định lối sống, có một chút mỉa mai thói đời, thói người đời và bộc lộ cái cao ngạo của kẻ sĩ.

Cảnh sinh hoạt nơi làng quê thanh bình như một thú chơi tao nhã của nhà thơ, mỗi mùa, mỗi dịp lại có những thú vui khác nhau.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Đó là những cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hòa nhập cùng thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Đáng chú ý, thán phục hơn là lối sống hòa nhập cùng thiên nhiên cỏ cây hoa lá, lối sống tuân theo lẽ tự nhiên – mùa nào thức nấy, quê mùa, chất phác.

Không phải tác giả miêu tả lại cảnh sống của mình là chỉ để miêu tả, trong cách miêu tả ấy mang một nỗi niềm sâu kín trong tâm trạng của nhà thơ. Trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh cuộc bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hòa mình với thiên nhiên vũ trụ và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch. Giá trị nghệ thuật của hai câu này là ở sức gợi của nó, gợi cái ung dung, điềm nhiên, đạm bạc mà thanh cao; nhẹ nhàng, từ tốn mà kiên nghị của một con người. Một trong những câu thơ như lời nói thường nhật mà hay hiếm có trong thi ca.

Suy ngẫm lại cuộc sống hiện tại của mình, tác giả dường như chứa chất một nỗi buồn khó tả, nỗi buồn ấy không biết chia sẻ cùng ai, tác giả chỉ biết dùng những thú vui tầm thường tao nhã để quên đi những gì đang diễn ra trước mắt mình.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Hai câu thơ trên được tác giả dựa theo điển tích Trung Hoa nói về cái hư ảo, không thực chất, qua nhanh, có cũng như không, có đấy mà tan ngay đấy của giàu sang phú quý. Nhưng dù sao vẫn có chút ngậm ngùi thân thế. Nguyễn Bỉnh Khiêm biết rõ lẽ thường này và coi thường, xem nhẹ giàu sang phú quý chứ không có chút ngậm ngùi vì vinh hoa qua như chớp mắt. Ta thấy ông ung dung tự tại mang rượu đến gốc cây nằm uống, nhưng không ngủ để giác mơ kia, mà tỉnh táo nhìn nó – sự phú quý đi qua như giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đứng cao hơn một bậc trong sự đối diện với phú quý. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt tới, ở trên tầm cao trong vắt.

Là một nhà Nho có tài, có lòng yêu nước thương dân muốn cống hiến sức lực của mình để giúp dân giúp nước, nhưng ông lại không đứng ra để giúp mà chọn cách sống ẩn dật. Bởi lẽ ông đã chán với cuộc sống chốn quan trường với quan tham, vua nhu nhược, ông chọn cách sống ẩn dật để giữ tâm hồn mình được thanh cao, trong sạch. Bài thơ là nỗi niềm tâm sự của nhà thơ với dân với nước, là sự cay đắng đến tận cùng của tác giả về thế thời của đất nước.

Thanh Bình tổng hợp


Page 2

Prev Article Next Article

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài số 1

Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.

Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”.

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòa lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

“Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.

Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài số 2

Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chĩ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.

Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.

Bài thơ mở đầu bẵng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó:

Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường.

Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.

Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.

Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu, Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:

Hòe lục đùn đùn tản rợp giương.  

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.

Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?! Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.

Xem thêm:  Bình giảng bài ca dao khăn thương nhớ ai

Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng hỏi cầm ve lầu tịch dương.

Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

Cỏ cậy, hoa lá, con người đẩy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất Chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài số 3

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô”, danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia thành nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) vv… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” không có nhan đề. “Cảnh tình mùa hè” là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kính cảnh giới” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. “Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến v.v… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỉ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.

1. Thuở ngày trường

Câu 1 (lục ngôn) nói lên cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào”, vòng “danh lợi” nữa, mà đã đuợc vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường’ là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.

2. Cảnh làng quê xưa

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.

Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương”.

Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “giương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp giương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.

Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hoè” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân học đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông,… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:

“Lại có hoa hòe chen bóng lục”
                      (Cảnh hè – ức Trai)

“Có thuở ngày hè trương tán lục, Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”.

                      (Hoè – ức Trai)

“Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng, Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè”.

                      (Vịnh cảnh mùa hè – Hồng Đức quốc âm thi tập)

“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây, Choi chói hoa vàng đưa gió Đùn đùn tán lục gương mây”.

                      (Màn hoè – Lê Thánh Tông)

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: ‘Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. ‘Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:

“Ngoài hiên lửa lựu tiếng thè be”
                      (Mùa hè)

‘Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, “lửa lựu luống thè be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỉ từ “Quốc âm thi tập” đến ‘Truyện Kiều” vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau truốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.

Câu 4 nói về sen: “Hồng liên tri đã tịn mùi hương”. ‘Tịn” (tận) là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịn mùi hựơng” tức là đã cuối hè (tháng 6 âm lịch): không phải là cuối xuân đầu hè nữa.

Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng ( hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:

‘Tả lòng thanh vị núc nác. Vun đất ải lánh mỏng tơi”

                      (Ngôn chi – số 9)

“Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen”.

                      (Thuật hứng – số 24)

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) – Văn mẫu lớp 10

Sau khi tả hoè màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dan dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hoà nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve vang lớn rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiêng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngồi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để tặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu ( lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:

“Dẳng dỏi cầm ve // lầu lịch dương”

Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:

‘Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc, Cành kia dắng dỏi gày cơm ve”.

                      (Vịnh cảnh mùa hè)

Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.

3. Ước mong hồn hậu

Hai câu kết diễn tả ước mong của nhà thơ:

“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

“Dẽ có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có…”. Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc của dân tộc. Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:

“Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ, Lẩn thẩn làm chi áng mận đào”

                      (Mạn thuật – số 13)

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngàv cuồn cuộn nước triều đông”.

                      (Thuật hứng – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê. đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài số 4

Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học trung đại của Việt Nam, trong quá trình sáng tác của mình, ông đã để lại cho hậu thế rất nhiều những tác phẩm thơ văn hay, có nhiều giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như thẫm mĩ. Bên cạnh những áng văn chính luận xuất sắc có thể kể đến như “Bình ngô đại cáo”, “Tái dụ vương thông thư”…thì Nguyễn Trãi còn rất nhiều những tác phẩm thơ văn viết về cảnh sắc của thiên nhiên,đất trời. Đặc biệt là sau khi ông đã từ quan và trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn, Chí Linh, một trong số đó có thể kể đến, đó chính là bài thơ “Cảnh ngày hè” hay còn được gọi với tên khác, đó chính là “Bảo kính cảnh giới số 43”.

Nếu tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi, ta có thể thấy sau khi về ở ẩn, nhà thơ thường có xu hướng sáng tác những bài thơ về cảnh sắc của thiên nhiên, đất trời, về cuộc sống dân dã, bình dị mà không kém phần tươi đẹp nơi nhà thơ ở ẩn. Ta cũng thấy được ở con người này một sự tài năng hơn người, khi sáng tác những áng văn chính luận thì sắc bén, chặt chẽ, với giọng điệu oai hùng, đanh thép. Thì khi viết về cảnh vật thiên nhiên của đất trời thì lại vô cùng tha thiết, tràn đầy cảm xúc, những bức tranh thơ mà Nguyễn Trãi vẽ ra trong các tác phẩm của mình có sức lôi cuốn đặc biệt đối với độc giả bởi nó quá sức chân thật, sống động.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bài thơ viết về cảnh sắc thiên nhiên ngày hè nơi mà tác giả ở ẩn. Bài thơ không chỉ cho người đọc thưởng ngoạn cảnh đẹp tươi mát, rực rỡ của ngày hè mà còn góp phần thể hiện được tâm thế, cảm xúc đầy tha thiết của nhà thơ trước cảnh đẹp ấy. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã tự khắc họa tư thế ung dung tự tại của chính mình, từ đó làm tiền đề cho mọi sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm trước cảnh sắc thiên nhiên:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

“Rồi” chỉ trạng thái tự do, ung dung tự tại của nhà thơ, đó chính là thời gian nhà thơ vô cùng thảnh thơi, tự tại khi không còn phải lo chuyện chính sự, nhà thơ có thể toàn tâm toàn ý cho việc ngắm cảnh, lòng thanh bạch không một chút bụi trần. Đó chính là tâm thế của những nhà Nho khi đã lui khỏi chốn quan trường mà về ở ẩn nơi thôn dã. Và trong bức tranh thơ này, hình ảnh của chính tác giả hiện lên đầy thư thái “Rồi bóng mát thuở ngày trường”, đó là một ngày bình thường, giữa nơi thiên nhiên hoang dã, nhà thơ Nguyễn Trãi đã ngồi “hóng mát”, đón nhận những luồng không khí mát mẻ, tươi mới chứ không phải cái nóng nực, bức bối đầy bát nháo của chốn quan trường đầy thị phi.

Trong tâm thế đầy tự do, tự tại ấy Nguyễn Trãi có điều kiện thưởng ngoạn, cảm nhận và thu vào tầm mắt của mình toàn bộ những cảnh vật đẹp đẽ nhất khi thiên nhiên vào hè, đó chính là “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”, những chiếc lá hòe xanh mướt, tươi tốt đã thu hút ánh nhìn của nhà thơ. Ở đây nhà thơ đã đặc biệt sử dụng từ “đùn đùn” vừa diễn tả được sự um tùm, tươi tốt của tán lá, vừa diễn tả được sự vận động nhanh chóng của những chiếc lá hòe khi chúng cùng nhau đâm chồi, làm cho tán lá tỏa ra rộng lớn và bao phủ khắp một vùng không gian “tán rợp giương”. Không chỉ có sắc xanh lục của tán lá mà bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi còn được điểm tô bởi màu sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu:

“ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Trong khung cảnh ngày hè, những bông hoa thạch lựu còn điểm xuyết cho không gian đầy tươi đẹp ấy sắc đỏ rực của những bông hoa “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”, đó chính là những bông hoa rực rỡ ở trước hiên nhà, tuy không trực tiếp miêu tả hình dáng, màu sắc và độ bung nở của hoa thạch lựu, nhưng trong cách sử dụng từ “phun” người đọc còn cảm nhận của sự lan tỏa về màu sắc hoa thạch lựu ra không gian, làm cho không gian ngày hè, rực rỡ hơn tươi đẹp hơn bởi màu sắc tươi sáng, bắt mắt này. Ngay sự xuất hiện của hình ảnh hoa thạch lựu đã gợi ngay liên tưởng cho ta đến những ngày hè, bởi hoa thạch lựu là loại hoa chỉ đơm hoa, kết trái vào ngày hè. Có thể nói Nguyễn Trãi đã rất khéo léo trong việc sử dụng và lựa chọn những cảnh vật tiêu biểu, đậm sắc để đưa vào bức tranh ngày hè của mình.

Không gian, cảnh sắc ngày hè không chỉ được gợi ra bởi sắc xanh của lá hòe, màu đỏ rực, tươi thắm của những bông hoa thạch lựu mà còn được diễn tả chân thực qua hương sen mà nhà văn cảm nhận được “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, đó chính là hương thơm của những đóa hoa sen nơi ao, hồ. Hoa sen cũng không được nhà thơ miêu tả rõ nét, cụ thể về màu sắc hay hình dáng mà chỉ được biểu hiện, nhận biết qua mùi hương của mình. “Tiễn” là động từ diễn tả sự vận động của mùi hương thơm mát, dịu ngọt đó. Hương sen không chỉ tỏa ngát nơi ao nhà mà còn được khuếch trương, lan tỏa vào không gian, làm dịu mát tâm hồn, đem đến cảm giác dễ chịu, thoải mái cho người cảm nhận.

Xem thêm:  Thuyết minh về món canh chua cá lóc

Ta có thể thấy nhà thơ Nguyễn Trãi rất tinh tế trong việc lựa chọn đối tượng miêu tả, bởi ta có thể thấy nhà thơ không miêu tả trọn vẹn, cụ thể một cảnh vật nào mà chỉ chọn những nét đặc trưng nhất của cảnh vật ấy, mang lại hiệu quả cao về thẩm mĩ cũng như cảm nhận thị giác. Cũng trong bốn câu thơ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên ngày hè này, Nguyễn Trãi không chỉ gợi mở cho người đọc về ấn tượng thị giác mà còn cả xúc giác, thính giác, gợi ra sự liên tưởng độc đáo của người đọc, làm cho người đọc có cảm tưởng như mình được tận mắt nhìn, cảm nhận mọi thứ trực tiếp vậy.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cảnh đẹp của ngày hè còn được Nguyễn Trãi gắn liền với nhịp sống lao động bình thường của người ngư dân nơi thôn dã. “Lao xao” diễn tả được âm thanh huyên náo, vừa diễn tả được nhịp độ lao động của những người dân nơi đây, đó là sự tấp nập, nhộn nhịp và diễn tả được không khí khẩn trương của công việc. Đây là không gian thân quen, gần gũi của những làng làm nghề đánh bắt cá. Và trong không gian nhộn nhịp, khẩn trương ấy là tiếng “cầm ve” vang lên tha thiết, rộn rã. Đây cũng là âm thanh quen thuộc mà ta thường bắt gặp trong những ngày hè.

“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nếu các câu thơ đầu nhà thơ Nguyễn Trãi chú trọng và tỉ mỉ khi vẽ những nét đặc trưng tươi đẹp của cảnh ngày hè thì hai câu thơ cuối bài lại thể hiện được tư tưởng nhập thế của Nguyễn Trãi, dù đã ở ẩn nơi thôn dã nhưng ông vẫn mang những nỗi niềm, những khát khao rất trần thế, ông mong muốn cho người dân khắp nơi của cả nước không còn cảnh lầm than mà “dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó là một cuộc sống no ấm, đủ đầy mà nhà thơ ước vọng. Và thể hiện sự chân thành trong mong ước của mình, nhà thơ đã sử dụng điển tích của Trung Quốc “Rẽ có ngu cầm đàn một tiếng”. “Ngu cầm” ở đây là chỉ đàn của vua Ngu Thuấn, vì khi tiếng đàn ấy cất lên thì cuộc sống của người dân vô cùng no ấm, hạnh phúc. Qua câu thơ nhà thơ cũng thể hiện được sự nhân văn, tấm lòng nhân nghĩa của mình với nhân dân, dù có lui về ở ẩn nhưng nỗi niềm, mong mỏi ấy chưa bao giờ thôi khắc khoải trong tâm trí của nhà thơ.

Như vậy, bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi đã vẽ ra một bức tranh ngày hè thật chân thực, sinh động không chỉ bằng hình ảnh mà cả âm thanh, màu sắc, không chỉ gợi liên tưởng về cảm nhận thị giác mà cả khứu giác, thính giác. Bên cạnh đó, bài thơ cũng sáng rực lên bởi những mong ước đầy nhân nghĩa của nhà thơ khi mong muốn người dân sẽ có cuộc sống đủ đầy, no ấm. Đây là khát vọng của nhà thơ có tầm vóc về tư tưởng nhân nghĩa, là con người nhập thế luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho dân, cho nước.

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài số 5

Cảnh ngày hè là bài thơ đặc trưng nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ phác họa lên một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc. Thể hiện tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của nhà thơ. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động…

Rất nhiều tác phẩm thể hiện tài năng đa dạng, phong phú của Nguyễn Trãi, trong đó tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập là tập thơ đáng chú ý. Được sáng tác không liên tục từ thời trẻ, hồi chưa đỗ đạt, lưu lạc cho đến lúc ông làm quan to, công thành danh toại và khi về già bị biếm trích, ở ẩn Côn Sơn… Có thể nói rằng tập thơ mang chứa không biết bao nhiêu nỗi lòng, tâm sự của Nguyễn Trãi. Dẫu vậy, khép lại Quốc âm thi tập nổi bật hơn cả, đó vẫn là một tình yêu nồng đượm tha thiết với thiên nhiên, đất nước thể hiện triết lý sống mà suốt đời tác giả luôn theo đuổi.

Ông luôn coi trọng đến sự ấm no, hạnh phúc của người dân, tâm niệm của ông được thể hiện trog từng câu chữ. Điểm đáng chú ý ở bài thơ trước hết thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong việc sử dụng và cách tân thể thơ thất ngôn bát cú Trung Quốc. Việc giữ lại số lượng câu chữ của thể thơ này nhưng xen thơ sáu chữ ở câu một và câu tám thể hiện sự sáng tạo, ý thức trân trọng đối với ngôn ngữ và văn hóa dân tộc,chính là tấm lòng với đất nước, quê hương. Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”, người dân lầm than khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong “nền thái bình muôn thuở”. Đáng tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả chí hướng và tài năng của mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được trọng dụng, đã lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay đắng, bất công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình ra giúp đời giúp nước

Mở đầu, như thường lệ của kết cấu thể thơ thất ngôn bát cú, Nguyễn Trãi giới thiệu tâm cảnh sáng tác của mình:

“Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”

Trong cảnh đất nước đang rơi vào cảnh lầm than, mục nát, một vị quan chính trong triều như Nguyễn Trãi lại nhàn hạ, rảnh rỗi đến lạ thường. Rõ ràng với con người ông, bài thơ chắc chắn ra đời trong hoàn cảnh đau đớn nhất của Nguyễn Trãi, hoàn cảnh của một giai đoạn mà Nguyễn Trãi bắt buộc phải cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn. Khác với Nguyễn Du về sau, Nguyễn Trãi là con người sinh ra để hành động. Thế mà lúc này, con người hành động ấy phải nói:

“Rỗi, hóng mát thuở ngày trường… ”

Chỉ bằng một câu thơ đơn giản, nhà thơ đã bày tở được tâm trạng bế tắc, một tâm tư trĩu nặng với dân với nước của ông.Thế nhưng nhìn ở khía cạnh tinh thần, Nguyễn Trãi không phải là kẻ bi quan, yếm thế. Nghị lực, niềm tin đã được mài dũa từ thời kì nếm mật, nằm gai đã giúp ông vượt lên hoàn cảnh, số phận. Ông vẫn nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Vẻ đẹp của người dân đáng lẽ là sung túc, ấm no hơn nữa trong buổi thái bình. Vẻ đẹp ấy giúp chúng ta khẳng định rằng, ông không chỉ là một nhà quân sự, một bậc khai quốc công thần, ông còn là một nghệ sĩ lớn. Người nghệ sĩ ấy đã vượt lên những nỗi buồn để tái dựng một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, đầy những thức vị điển hình. Hình ảnh cây hòe tán rợp trương, hình ảnh lửa lựu lập lòe đơm bông (Kiều). Trong:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

Một loài hoa đẹp sen hồng, tiêu biểu của mùa hè, tỏa hương…được chú ý trong tâm trạng phẫn uất của tác giả, tất cả tạo nên một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, thể hiện khả năng cảm nhận thấu đáo của người nghệ sĩ khi họa bút. Ở đây, khi họa bút rất nhiều giác quan được vận dụng. Từ thị giác (sắc màu, hình ảnh) đến khứu giác (hương hoa), thính giác (âm thanh):

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Tất cả làm nên một khúc cầm đầy những cung bậc về một mùa hè trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Thế nhưng, riêng đối với nhân cách của Nguyễn Trãi, sẽ rất phiến diện khi ta chỉ dừng lại ở đó trong Cảnh tình mùa hè. Vượt lên trên tất cả là tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha của ông. Cảnh đẹp đã mở ra trong lòng Nguyễn Trãi một nỗi day dứt, một ước vọng:

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Ông coi thiên nhiên, con người là những người bạn, mang lại niềm vui cho ông, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng,

Ông ao ước tất cả mọi người dân trên đất nước đều có cuộc sống ấm lo hạnh phúc. Nguyễn Trãi không nói tiếp nhưng ta hiểu được nỗi lòng của ông trong chữ lẽ có. Đáng lẽ điều ấy sẽ là hiện thực nếu triều đình nhà Lê bấy giờ cùng một mối đồng tâm. Đằng này, việc tranh giành quyền lợi, ham quyền cố vị, lục đục… của họ đã khiến điều ấy – sự ấm no, sung túc của người dân – còn rất mờ mịt. Cảm động, nhân văn biết bao tấm lòng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng nhân dân, dân vi bản (lấy dân làm gốc) ấy canh cánh mãi bên lòng ông, theo đuổi ông trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc. Tấm lòng ấy hiện hữu cả khi Nguyễn Trãi là kẻ thưởng ngoạn thiên nhiên. Đọc hết Cảnh tình mùa hè không nghi ngờ gì nữa khi khẳng định rằng: Nguyễn Trãi không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa, ông còn là một nhân cách lớn của kẻ suốt đời vì dân vì nước.

Nguyễn Trãi đã sống cách chúng ta qua nhiều thế kỉ nhưng những gì ông để lại thì có ý nghĩa cho đến mãi mãi về sau. Qua bài thơ “ Cảnh ngày hè”, tấm lòng của ông đối với dân với nước được bộc lộ thật chân thành và cao cả, ông đúng là một trong những anh hùng vĩ đại của dân tộc.

Thanh Bình tổng hợp

Prev Article Next Article