Tại sao chỉ có nhà nước mới làm việc quản lý xã hội

Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật

  • doc
  • 9 trang
Tại sao Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?
BÀI LÀM
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra
đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là phương tiện, công cụ
quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự
phát triển xã hội. Bên cạnh tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo, các quy định của
tổ chức xã hội, dư luận xã hội, các quy ước của cộng đồng dân cư…thì pháp luật là
công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước, giữa Nhà nước và pháp luật luôn có
mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn
gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp,
mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm
mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước
gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển
tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích
chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với
giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ,
bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ
không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát
triển khách quan của thời đại.
Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với
chủ trương "đức trị", Nho giáo đã "đạo đức hoá chính trị và đề cao, thậm chí đến mức
tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng
an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh
hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế,
tiêu cực và bảo thủ. Đối lập với chủ trương "đức trị" là tư tưởng “pháp trị”. Thực tế

cho thấy, đã từng có những vị vua dùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương
"pháp trị", họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội
đi vào cuộc sống có quy tắc, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả
tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính
chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các
thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình.
Do đó, xã hội phải được quản lý bằng pháp luật, trên phương diện lý luận
cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ
các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người
phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng
nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn
trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí
và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sở dĩ Nhà nước phải thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật, bởi lẽ, trong cuộc sống vai trò của pháp luật được thể hiện ở
trên mọi phương diện và các khía cạnh của cuộc sống, cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật có vai trò quan trọng đối với các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước đều có những
điều khoản quy định quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo được các
quyền và lợi ích của công dân pháp luật còn có những điều khoản quy định mọi
hành vi xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý
nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
công dân mà còn quy định cả cơ chế pháp lý, các quy định pháp luật thủ tục để
thực hiện các quyền và lợi ích, hợp pháp của công dân, các quyền và lợi ích đó

được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các cuộc
cải cách, điều chỉnh pháp luật và cải cách bộ máy nhà nước đều hướng tới mục tiêu
là bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước
Là một cơ chế phức tạp, để thực hiện quyền lực nhà nước, bộ máy Nhà
nước luôn phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh những
quy định của hiến pháp mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được tổ chức và
hoạt động theo những văn bản pháp luật nhất định. Việc tổ chức bộ máy nhà nước
theo pháp luật sẽ đảm bảo được tínhchính xác, chặt chẽ, tính thống nhất cao trong
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời cũng thể hiện tầm quan trọng
của hoạt động quản lý nhà nước tạo ra sức mạnh tổng hợp, có tổ chức của bộ máy
nhà nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật cũng tránh
được hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc tuỳ tiện, lạm quyền, tạo ra một cơ
chế đồng bộ thực hiện có hiệu quả quyền lực nhân dân.
Pháp luật là một công cụ cực kỳ quan trọng trong tay nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội: tác động tới kinh tế và các yếu tố của các kiến trúc
thượng tầng xã hội. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật. Pháp luật là
công cụ quản lý xã hội của nhà nước, do nhà nước đặt ra nhưng trong xã hội văn
minh,nhà nước cũng phải tự hạn chế bởi pháp luật, chịu phục tùng, phải thi hành
pháp luật do chính mình đặt ra. Có như vậy mới bảo vệ được quyền của công
dân,tránh sự lạm quyền,bảo đảm sự công bằng và sự phát triển bình thường của
nhà nước.Pháp luật chỉ có thể hiện được trong đời sống khi có sự đảm bảo của nhà
nước ở đây một lần lữa ta càng thấy rõ nhà nước và pháp luật có quan hệ qua lại
hữu cơ với nhau, cùng phát sinh tồn và phát triển.
Thứ ba, pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân lao động chống lại các
giai cấp áp bức bóc lột.

Thể hiện ý trí nhà nước của nhân dân lao động, pháp luật là vũ khí chính
trị mà nhân dân dùng để chống lại các giai cấp áp bức bóc lột. Dựa vào pháp luật
nhân dân tiến hành trấn áp các lực lượng phản cách mạng, giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội ,ghi nhận và củng cố chính quyền nhân dân. Pháp luật là
phương tiện thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng ,nhà nước ,pháp luật cũng
là công cụ để cải tạo xã hội cũ trong các lĩnh vực kinh tế , chính trị , văn hoá-xã
hội…đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động .
Tóm lại, Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng đều thuộc thượng tầng
kiến trúc xã hội luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật là
phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội, tạo ra một trật tự xã hội phù hợp với ý chí
nhà nước, mang lại đời sống hạnh phúc cho nhân dân 1. Nhà nước ra đời có nhiệm
vụ quản lý xã hội, việc quản lý xã hội của nhà nước phải bằng pháp luật, chỉ có
việc quản lý xã hội bằng pháp luật thì mục đích việc quản lý mới đạt được và có
hiệu quả cao. Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có
một bộ máy quản lý, duy trì trật tự xã hội, vì sự tồn tại và phát triển của xã hội
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị và của toàn xã hội. Nhà
nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi tổ chức và
cá nhân trên lãnh thổ của mình. Với tư cách là tổ chức đại diện chính thức của toàn
xã hội, nhà nước ban hành pháp luật - một công cụ quản lý xã hội sắc bén, hiệu quả
và đòi hỏi sự tôn trọng, thực hiện nghiêm minh của mọi tổ chức và cá nhân trong
xã hội.
Dựa vào những thuộc tính của mình, pháp luật trở thành công cụ quản lý có
hiệu quả nhất trong các công cụ quản lý xã hội của nhà nước và là công cụ không
thể thay thế trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật còn là công cụ bảo vệ lợi ích của
nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân. Muốn bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội,
1

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

nhân dân, Nhà nước phải dựa trên căn cứ pháp lý và theo những trình tự thủ tục
luật định.
Trong xã hội hiện nay, Nhà nước phải thực hiện quản lý xã hội bằng pháp
luật bởi vì pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật
tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Sở dĩ cho rằng
pháp luật là công cụ quản lý xã hội quan trọng của Nhà nước bởi vì:
- Pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân chống lại các lực lượng thù địch,
phản cách mạng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng là công cụ để cải tạo xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội…định hướng cho xã hội phát triển, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
- Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Dưới hình thức pháp luật, đường lối chính sách của Đảng sẽ được
triển khai thực hiện nhanh, chính xác và có hiệu quả cao trên quy mô toàn xã hội
- Pháp luật là cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ chức và hoạt động. Nhà
nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, nó cần tới pháp luật để quy định thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước, xác định mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
với nhau, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và nhân dân bảo đảm tính
chặt chẽ, thống nhất, chính xác và tạo sức mạnh tổng hợp của bộ máy nhà nước.
- Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý hiệu quả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Pháp luật được sử dụng để phối hợp, quy tụ những hoạt động
cá nhân riêng rẽ trong xã hội nhằm đạt được những mục đích mong muốn, duy trì
đời sống cộng đồng xã hội. Có thể nói hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời
sống cộng đồng xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…đều được nhà nước
quản lý bằng pháp luật. Và chỉ quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng

đó của đời sống xã hội thì mục đích của việc quản lý mới đạt được và có hiệu quả
cao.
Thông qua pháp luật, Nhà nước đề ra các kế hoạch và chính sách phát triển
các lĩnh vực đời sống xã hội, xác định cơ cấu, tổ chức và hoạt động, các biện pháp
kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với lĩnh vực xã hội đó, đưa ra các biện pháp
hữu hiệu để xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Pháp luật có thể
thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự pháp triển và cũng có thể kìm hãm sự phát
triển của lĩnh vực hoạt động xã hội nào đó vì sự tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
nhân dân.
- Pháp luật thiết lập và bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện dân chủ xã hội.
Bằng pháp luật, Nhà nước quy định các quyền, tự do dân chủ của nhân dân. Thông
qua pháp luật Nhà nước xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, xác định
mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội khác, giữa Nhà nước với nhân
dân. Pháp luật còn góp phần giải quyết những tranh chấp, điều hòa lợi ích giữa
Trung ương và địa phương, giữa các vùng, miền, giữa các lực lượng, các nhóm xã
hội khác nhau. Dựa vào pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Pháp luật là phương tiện giáo dục con người mới. Trong xã hội, pháp luật
là một trong những phương tiện để giáo dục con người mới năng động, sáng tạo,
có niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xâu dựng và
bảo vệ tổ quốc. Bằng những quy định của mình, pháp luật giáo dục cán bộ, nhân
dân trách nhiệm của người dân, ý thức sống, làm việc theo Hiếp pháp, pháp luật,
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, tôn
trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng. Pháp luật còn giáo dục công dân yêu lao
động, yêu Tổ quốc, có tình thần quốc tế chân chính, đoàn kết, hữu nghị vì hòa bình

và tiến bộ xã hội... Ý nghĩa giáo dục to lớn của pháp luật còn thể hiện ở việc pháp
luật quy định những biện pháp khen thưởng và trừng phạt phù hợp với các hành vi
pháp luật của tổ chức và cá nhân trong xã hội.
- Pháp luật tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành những
quan hệ mới trong xã hội. Pháp luật luôn hướng tới việc thúc đẩy hình thành những
quan hệ xã hội mới thể hiện sự bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người lao động trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn là cơ sở pháp lý để đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của
đất nước mình.
- Pháp luật là công cụ bảo vệ hữu hiệu quyền công dân, quyền con người,
bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ công lý. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo
pháp luật. Pháp luật còn có tác dụng ngăn ngừa, xử lý các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống xã hội vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
- Pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát
triển vì xã hội công bằng, hạnh phúc, văn minh, tốt đẹp hơn. Đồng thời, hạn chế và
loại trừ những quy định không tiến bộ, bất cập của những công cụ đó với xã hội.
Như vậy, có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý, giữ gìn trật
tự xã hội, để giải quyết các xung đột trong xã hội, là phương tiện để cải biến xã
hội.
Bên cạnh đó, trong những công cụ quản lý xã hội thì pháp luật được xem là
một trong những công cụ quản lý xã hội hiệu quả nhất hiện nay, bởi vì so với
những công cụ xã hội khác, pháp luật có những ưu thế cơ bản sau đây [2]:

2

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

- Thứ nhất, pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Việc ban
hành pháp luật của Nhà nước được tiến hành thông qua nhữn trình tự thủ tục chặt
chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức và các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt chẽ,
chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Thứ hai, pháp luật do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước và
nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhân dân thông qua nhà nước để nâng ý chí
của mình lên thành ý chí của nhà nước dưới dạng quy tắc xử sự chung do chính
quyền nên được Nhà nước và nhân dân tự giác thực hiện. Ngoài ra, pháp luật có
những chế tài nghiêm khắc để đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh như phạt
tiền, phạt tù, tù chung thân, tử hình…với sự đảm bảo của Nhà nước pháp luật được
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
- Thứ ba, pháp luật chủ yếu bao gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện
trong những hình thức xác định, có kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt ra không
phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những
trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Do đó, pháp luật có tính khái quát cao, là
khuôn mẫu để các tổ chức, cá nhân thực hiện.
- Thứ tư, pháp luật mang tính bắt buộc chung, không phải chỉ áp dụng cho
một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho toàn xã hội, tất cả các tổ chức và cá nhân
liên quan.
- Thứ năm, pháp luật có phạm vi rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội đều
được pháp luật điều chỉnh.
- Thứ sáu, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức, tạo sự thống
nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

Mặc dù, pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của Nhà nước.
Song, pháp luật không phải là công cụ quản lý xã hội vạn năng mà pháp luật cũng
có những hạn chế của mình. Chẳng hạn, ngoài tính khách quan thì pháp luật còn
mang tính chủ quan, nghĩa là nó phụ thuộc vào ý chí của những người có thẩm
quyền trong quy trình ban hành pháp luật. Tính khái quát cao của pháp luật đôi khi
không sát với trường hợp cụ thể. Pháp luật còn bị ràng buộc bởi cơ chế điều chỉnh
pháp luật phức tạp, đôi khi phiền hà, cứng nhắc.
Tóm lại, trong đời sống pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội, pháp luật
không chỉ là một công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội hữu hiệu, mà
còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh hoá đời sống xã hội và
góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện
nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan
nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh.

Tải về bản full

Vai trò của Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội

Ngày phát hành: 12/11/2020 Lượt xem 23597


Một số quan niệm, khái niệm chung về quản lý phát triển xã hội

Quản lý phát triển xã hội chủ yếu là hoạt động quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, ngoài nhà nước còn có các tổ chức phi nhà nước cũng tham gia quản lý phát triển xã hội trong việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, các chính sách và pháp luật của nhà nước, qua đó bảo đảm cho mọi người dân cũng như toàn bộ đời sống xã hội phát triển một cách bình thường, không để làm nảy sinh các vấn đề lớn về xã hội.

Sự phát triển xã hội là thuộc về tất cả mọi người, do mọi người trong xã hội tự quyết định và không phải là của riêng một ai; do đó, khi bàn luận về quản lý phát triển xã hội, cần hướng tới lợi ích chung của đại đa số người dân. Do đó, quản lý phát triển xã hội cần luôn gắn với yêu cầu bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng nói riêng, cũng như tiến bộ xã hội nói chung.

Ở cấp quốc gia, quản lý phát triển là trách nhiệm chủ yếu của nhà nước. Trong quản lý phát triển, hầu hết nhà nước trên thế giới quản lý các hoạt động xã hội một cách dân chủ, công khai, minh bạch. Quản lý phát triển xã hội là công việc rất khó khăn, cực kỳ phức tạp và cần phải quản lý có phương pháp, nghệ thuật thì mới đem lại hiệu quả và thành công cho nhà nước. Như vậy, quản lý phát triển xã hội là nội dung quan trọng và là nhiệm vụ chủ yếu của quản lý xã hội ở một quốc gia.

Còn đối tượng quản lý phát triển xã hội là các thiết chế xã hội và các hoạt động của các thiết chế đó. Trong thực tế, đối tượng của quản lý phát triển xã hội chính là các thiết chế xã hội và các hoạt động của các thiết chế đó. Ngay cả thiết chế xã hội thấp nhất ở cơ sở cũng ít khi quản lý con người cá nhân, mà chỉ tập trung vào quản lý hoạt động của cá nhân với trách nhiệm cao nhất là đưa ra cảnh báo bởi các quy định của pháp luật. Thực tiễn cũng cho thấy, quản lý phát triển xã hội có hiệu quả sẽ góp phần mang lại tự do cho con người[1].

Quan niệm, khái niệm và thực trạng về quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời gian qua

Theo một số nhà khoa học ở nước ta thì : “Quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước và các tổ chức phi nhà nước trong việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, các chính sách và pháp luật, nhằm đảm bảo cho toàn bộ đời sống xã hội phát triển bình thường, không làm nảy sinh các vấn đề xã hội”. Ngoài ra, họ còn cho rằng, quản lý phát triển xã hội là “Chìa khóa điều chỉnh sự vận hành toàn bộ hệ thống xã hội là đường lối, luật pháp và chính sách. Khi luật pháp nghiêm và công minh, quản lý tốt là quản lý để tuân thủ luật pháp; sự điều chỉnh được hạn chế tối đa. Khi luật pháp chưa hoàn thiện, thiếu công minh, ý thức pháp luật của dân chúng thấp, sự điều chỉnh cho hợp lý hoặc tối ưu là cần thiết; trường hợp này vai trò của người quản lý vô cùng quan trọng. “Lách luật” để phát triển cũng là một cách thức điều chỉnh đã từng tồn tại ở nhiều quốc gia”[2].

Một số nhà khoa học và chuyên gia khác lại cho rằng: “Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến các khách thể [con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội,…] nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững.”[3]

Trong thực tế, Nhà nước ta được Hiến pháp năm 2013 quy định rõ là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và là Nhà nước “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.

Quản lý xã hội của Nhà nước ta là một quá trình, với nghĩa rộng là bao hàm chủ yếu về quản lý giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học nói chung và một số lĩnh vực liên quan, ảnh hưởng cũng như tác động không nhỏ đến chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, dân tộc, tôn giáo của đất nước. Theo chiều hướng phát triển đất nước, quản lý xã hội của Nhà nước chính là quản lý phát triển xã hội, bảo đảm cho nước ta phát triển bền vững, bao trùm, với chất lượng tăng trưởng không chỉ về kinh tế, mà bao gồm cả xã hội, vì mục tiêu trên hết là cho con người và vì con người.

Cũng theo nhiều chuyên gia, nhà quản lý ở nước ta, Nhà nước đã và đang sử dụng các công cụ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bộ máy của mình để quản lý tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội, môi trường cũng như quản lý các nguồn tài nguyên quốc gia. Qua đó, Nhà nước quản lý phát triển xã hội, góp phần vào quản lý các hoạt động đối nội và các hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta, trong đó có quản lý các hoạt động xã hội và quản lý các hoạt động phát triển xã hội[4].

Thực trạng ở nước ta hiện nay cho thấy, Việt Nam được đánh giá là có sự ổn định chính trị và ổn định xã hội ở mức cao. Các quy định pháp luật của Nhà nước nói chung là tương đối đầy đủ để triển khai việc quản lý phát triển xã hội.

Tuy nhiên, hiệu lực của Nhà nước nói chung là chưa đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả trong thực tế việc quản lý phát triển xã hội. Nhà nước vẫn quản lý phát triển xã hội chủ yếu theo phương thức bao cấp trách nhiệm dân sự của công dân hay nói cách khác là vẫn đang hành chính hóa các quan hệ dân sự; vì vậy, có thể nói phương thức quản lý này là chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường và làm bộ máy quản lý hành chính của Nhà nước ta ngày càng cồng kềnh hơn[5].

Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh về những hạn chế và yếu kém của Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội:

“Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”[6].

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ :“ Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng tầm; chưa kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế, quản lý xã hội còn nhiều bất cập; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội; tiêu cực xã hội, mâu thuẫn xã hội… gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Chưa có giải pháp để xử lý hữu hiệu những vấn đề về kiểm soát thu nhập, phân hóa giàu – nghèo, gia tăng bất bình đẳng, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội phát sinh; giảm nghèo còn chưa bền vững…”[7]

Thực tế cho thấy, ngay trong nửa cuối năm 2020, nhất là dưới tác động của đại dịch Covid-19 và bão lũ ở miền Trung, việc quản lý phát triển xã hội ở nước ta đã bộc lộ rõ hơn những yếu kém, hạn chế trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, trật tự an toàn, an ninh và an sinh xã hội, lao động và việc làm, bảo trợ xã hội,…[8]

Có thể thấy ngay một trong những nguyên nhân chủ quan và là nguyên nhân chủ yếu về công tác quản lý phát triển xã hội của Nhà nước ta còn những hạn chế, yếu kém trong thời gian qua là do việc chậm tiến hành phân cấp, cũng như chưa phân chia rõ ràng quyền lực và trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương. Hơn nữa, sự phân chia hay tập trung quyền lực và trách nhiệm giải trình ở một số cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thống nhất và cụ thể hoá, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả trong quản lý phát triển xã hội của Nhà nước còn thấp.

Một số đề xuất, kiến nghị

[1] Cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, thể chế hoá và cụ thể hơn chức năng xã hội của Nhà nước để Nhà nước thực sự là chủ thể đặc biệt quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước, bảo đảm sớm hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

[2] Để quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, trước hết Nhà nước ta cần có cơ chế, các quy định pháp luật để xây dựng và hoàn thiện các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công và cạnh tranh bình đẳng với nhau, qua đó mang lại lợi ích lớn nhất cho người dân, đặc biệt là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận; khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công cho xã hội, trước hết là các dịch vụ ở đô thị, dần tiến tới là dịch vụ ở nông thôn mà chủ yếu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ và kỹ thuật, cũng như hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ thông tin thị trường, khuyến nông, khuyến ngư,…

Trong thời gian tới, trên cơ sở hoàn thiện các quy định pháp luật, Nhà nước chỉ nên tập trung vào thực hiện vai trò, chức năng giám sát hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công.

[3] Để quản lý phát triển xã hội có chất lượng hơn, Nhà nước cần có một tổ chức đánh giá chất lượng độc lập, để bảo đảm đánh giá khách quan và kiểm soát đối với cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng giám sát hoạt động các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công.

Ngoài ra, quá trình quản lý phát triển xã hội của Nhà nước chỉ có thể bảo đảm chất lượng khi mà Nhà nước tạo điều kiện rộng rãi cho các tổ chức cũng như mọi thành viên trong xã hội tham gia chủ động và tích cực vào phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

[4] Trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta, Nhà nước cần tập trung đẩy nhanh việc tiến hành phân cấp, cũng như phân chia rõ ràng hơn quyền lực và trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương.

Tuy nhiên, việc phân chia hay tập trung quyền lực và trách nhiệm phải bảo đảm sự thống nhất, tạo hiệu lực và hiệu quả cao cho phát triển, đồng thời tránh được việc phân tán, lãng phí nguồn lực, hay buông lỏng quản lý.

[5] Trong thời gian tới, hoạt động quản lý phát triển xã hội ở nước ta cần được Nhà nước triển khai rộng rãi hơn thông qua việc sử dụng, ứng dụng công nghệ hiện đại./.

Nguyễn Hồng Sơn

Hội đồng Lý luận TW


[1] Bộ Khoa học và Công nghệ, Chương trình KX.01/06-10, PGS. TSKH. Võ Đại Lược [Chủ biên], Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011

[2] GS. TS Nguyễn Đăng Thuấn [chủ biên], Mô hình quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay, Chuyên đề số 10, Hà Nội - 2018.

[3] GS. TS. Phùng Hữu Phú - PGS. TSKH. Nguyễn Văn Đặng - PGS. TS Nguyễn Viết Thông, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2016, tr260.

[4] PGS. TS. Ngô Doãn Vịnh, Giải thích thuật ngữ trong nghiên cứu phát triển [Bối cảnh và điều kiện của Việt Nam], Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2013, tr54.

[5] Bộ Khoa học và Công nghệ, Chương trình KX.01/06-10, PGS. TSKH. Võ Đại Lược [Chủ biên], Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam [2016], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. CTQG. Tr. 132-139

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam [tháng 4-2020], Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tr. 16.

[8] Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đản khóa XII về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2020; phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, ngày 22-10-2020; tr.3.

Video liên quan

Chủ Đề