Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bài này viết về phim về nhân vật trong truyện tranh Marvel. Đối với nhân vật này, xem Black Panther (truyện tranh).

Black Panther:
Chiến binh Báo Đen

Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022

Áp phích của phim chiếu rạp tại Việt Nam

Đạo diễnRyan Coogler
Sản xuấtKevin Feige
Tác giả

  • Ryan Coogler
  • Joe Robert Cole

Dựa trênBlack Panther
của Stan Lee
Diễn viên

  • Chadwick Boseman
  • Michael B. Jordan
  • Lupita Nyong'o
  • Danai Gurira
  • Martin Freeman
  • Daniel Kaluuya
  • Letitia Wright
  • Winston Duke
  • Angela Bassett
  • Forest Whitaker
  • Andy Serkis

Âm nhạcLudwig Göransson
Quay phimRachel Morrison
Dựng phim

  • Michael P. Shawver
  • Claudia Castello

Hãng sản xuất

Marvel Studios

Phát hànhWalt Disney Studios
Motion Pictures

Công chiếu

  • 29 tháng 1 năm 2018 (Dolby Theatre)
  • 16 tháng 2 năm 2018 (Mỹ)
  • 23 tháng 2 năm 2018 (Việt Nam)

Độ dài

134 phút[1]
Quốc gia
Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022
 
Hoa Kỳ
Ngôn ngữTiếng Anh
Kinh phí200 triệu đô la Mỹ[2][3]
Doanh thu1.347 tỷ đô la Mỹ[4]

Black Panther: Chiến binh Báo Đen (tựa gốc tiếng Anh: Black Panther) là một phim của điện ảnh Hoa Kỳ dựa trên nhân vật siêu anh hùng cùng tên của hãng Marvel Comics, sản xuất bởi Marvel Studios và phân phối bởi Walt Disney Studios Motion Pictures. Đây là bộ phim thứ 18 trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU), đồng thời đánh dấu bộ phim siêu anh hùng da màu đầu tiên.

Bộ phim được đạo diễn bởi Ryan Coogler, với kịch bản của Joe Robert Cole, có sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm: Chadwick Boseman, Michael B. Jordan, Lupita Nyong'o, Danai Gurira, Martin Freeman, Daniel Kaluuya, Letitia Wright, Winston Duke, Angela Bassett, Forest Whitaker và Andy Serkis. Trong phim, T'Challa trở về quê nhà thừa kế ngai vàng Wakanda, nhưng phát hiện quyền lực của mình bị thách thức bởi một kẻ thù lâu năm trong một cuộc xung đột có quy mô toàn cầu.

Black Panther: Chiến binh Báo Đen ra mắt tại Los Angeles vào ngày 29 tháng 1 năm 2018 và được lên lịch ra rạp tại Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 2 năm 2018 dưới định dạng IMAX và 3D. Phim cũng phá kỷ lục để trở thành phim siêu anh hùng có lượng đặt vé sớm cao nhất mọi thời đại theo trang web Fandango. Phim khởi chiếu tại Việt Nam ngày 23 tháng 2 năm 2018. Phim nhận được rất nhiều đánh giá phê bình rất tích cực, với lời khen dành cho đạo diễn, thiết kế phục trang, các pha hành động và diễn xuất của dàn diễn viên; một số nhà phê bình còn coi đây là một trong những phim hay nhất của MCU và ghi nhận ảnh hưởng văn hóa của phim. Đặc biệt, phim này đạt 7 đề cử Giải Oscar năm 2019 và nhận 3 giải trong số đó, một điều chưa từng thấy đối với những phim siêu anh hùng được chuyển thể từ truyện tranh.

Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Từ nhiều thế kỉ trước, đã xảy ra cuộc chiến tranh năm tộc người châu Phi gần thiên thạch có chứa Vibranium. Đã có một chiến binh nuốt phải Tâm Hình Thảo bị ảnh hưởng bởi kim loại trên và nhận được sức mạnh siêu nhiên, trở thành Chiến binh Báo Đen đầu tiên và trở thành vua. Ông đã thống nhất các bộ tộc trừ tộc Jabari, tạo nên quốc gia mang tên Wakanda. Người Wakanda dùng Vibranium đã phát triển công nghệ, đồng thời tự cô lập mình với thế giới như một "Thế giới thứ ba".

Trong khi làm việc tại Oakland, California vào cuối thế kỉ XX, hoàng tử N'Jobu nhận ra chính sách tự cô lập khỏi thế giới chỉ mang đến tác động tiêu cực cho Wakanda và quyết định dùng vũ khí Vibranium để giúp đỡ những người châu Phi khác đang bị áp bức. N'Jobu bắt tay với một tay buôn bán chợ đen là Ulysses Klaue để xâm nhập vào Wakanda và lấy đi một lượng lớn Vibranium.

Năm 1992, khi biết được việc làm của em trai mình, nhà vua T'Chaka đã tìm đến N'Jobu. Trước sự đe dọa sẽ giết Zuri, người bạn trung thành của mình, T'Chaka đã miễn cưỡng giết N'Jobu, đồng thời bỏ rơi Erik, con trai của N'Jobu nhằm che đậy người dân Wakanda khỏi sự thật.

Sau sự kiện trong Captain America: Nội chiến siêu anh hùng,[5] T'Chaka chết dưới tay của Helmut Zemo, người con là T'Challa đã trở về Wakanda để tiếp tục điều hành đất nước. Sau khi làm việc với Okoye, thủ lĩnh của Đội quân Dora Milaje và người yêu cũ của mình là Nakia nhằm kí kết một hiệp định bí mật tại khu rừng Sambisa, Nigeria; anh được đoàn tụ với mẹ là nữ hoàng Ramonda và em gái, công chúa Shuri, đồng thời biết được rằng M'Baku, thủ lĩnh của bộ lạc Jabari đang thách đấu cho ngai vàng. Trận đấu diễn ra và T'Challa đã giành chiến thắng, giữ được ngôi vua mới.

Cũng trong thời điểm đó, Klaue và Erik Stevens (biệt danh là Killmonger) trộm Vibranium ở Bảo tàng London. Khi biết tin này, W'Baki, một người bạn của T'Challa đã mất đi người thân bởi những thương vụ trên đã thúc giục nhà vua phải đòi lại công bằng cho mình. T'Challa, Okoye và Nakia lên kế hoạch tập kích Klaue tại một sòng bài ở Busan, Hàn Quốc, nơi mà hắn sẽ bán khối Vibranium đã trộm cho một người mua không rõ danh tính. Kế hoạch đổ bể khi T'Challa nhận ra người mua là đặc vụ CIA Everett Ross, người mà trước đó T'Challa đã nhờ tiếp quản Zemo. Okoye mất kiên nhẫn làm lộ vỏ bọc, dẫn đến một vụ đấu súng xảy ra.

T'Challa, Shuri (lái chiếc Lexus điều khiển từ xa ở Wakanda dưới định dạng 3 chiều), Ross, Nakia và Okoye đuổi theo Klaue dọc theo thành phố. Sau khi bắt được Klaue, T'Challa định giết hắn. Nhưng để ý rằng người nước ngoài đang quay phim mình, anh lựa chọn bắt giam hắn tại nhà tù của CIA. Ngày hôm sau, khi đang bị tra hỏi, Klaue được cứu bởi Stevens. Thấy Ross bị thương nặng vì đỡ đạn thay Nakia, T'Challa quyết định đưa ông ta về Wakanda để chữa trị.

Sau khi phản bội và giết Klaue vì hắn giết bạn gái của mình, Killmonger mang xác Klaue tới Wakanda và thách đấu T'Challa nhằm giành lấy ngai vàng. Hắn giết Zuri sau khi bắt ông này khai ra nguyên nhân của vụ án năm xưa cho mọi người biết, rồi hắn đánh bại và đẩy T'challa xuống thác nước, khiến mọi người tin anh đã chết. Nuốt Tâm Hình Thảo xong, hắn ra lệnh đốt số còn lại, nhưng Nakia lấy trộm được một quả. Được sự ủng hộ của W'Kabi và bộ lạc Biên giới, để thực hiện kế hoạch của cha, Killmonger đã chuẩn bị vận chuyển vũ khí của Wakanda đi khắp thế giới, tới những thành phố lớn như New York, London và Hong Kong.

Khi chạy trốn đến bộ lạc Jabari, Nakia, Shuri, Ross và Hoàng hậu Ramonda biết được T'Challa đã được bộ lạc Jabari tìm thấy trong tình trạng nguy kịch. Sau khi uống Tâm Hình Thảo cuối cùng được đưa bởi Nakia, T'Challa đã phục hồi và quay trở lại Wakanda cho trận tái đấu với đối thủ nay cũng có một bộ giáp Vibranium cho mình. Shuri, Nakia và Okoye cùng với đội quân Dora Milaje và Jabari chiến đấu với W'Kabi và bộ lạc Biên giới. Ross lái một chiếc phi thuyền để bắn hạ những chiếc máy bay chở Vibranium trước khi nó có thể rời khỏi đất nước.

T'Challa và Killmonger khi giao chiến đã rơi xuống hố thiên thạch Vibranium, nơi mà họ sử dụng sóng siêu thanh để làm phương tiện vận chuyển, nhưng cũng đồng thời khiến bộ giáp của hai người trở nên vô dụng. Khi thấy giáp của Killmonger bị vô hiệu hóa, T'Challa đã đâm người em họ của mình bằng chính con dao găm của hắn. T'Challa sau đó muốn chữa trị cho Killmonger nhưng hắn từ chối, vì nếu còn sống, hắn sẽ bị cầm tù và hắn muốn chết như một người tự do. Sau đó, hắn rút dao găm khỏi ngực, chấp nhận cái chết.

Thấy hậu quả tai hại bởi chính sách tự cô lập của các đời vua trước, T'Challa đã thiết lập một Trung tâm Cứu trợ Nhân đạo ở Oakland, California tại khu căn hộ mà chính chú ruột của anh, N'Jobu đã bị giết. Anh chỉ định Shuri và Nakia để điều hành Trung Tâm Cứu trợ nhân đạo, đồng thời tiết lộ danh tính của mình với những đứa trẻ gần đó.

Ở cảnh mid-credit, T'Challa xuất hiện trước Liên Hợp Quốc tại toà nhà ở Vienna, tuyên bố sẽ chia sẻ tài nguyên Vbranium với thế giới, kết thúc sự tự cô lập. Trong cảnh after-credit, Bucky Barnes tỉnh dậy ở Wakanda. Với biệt danh Sói Trắng, anh đã thoát khỏi sự kiểm soát của HYDRA nhờ công nghệ của Shuri.

Diễn viên[sửa | sửa mã nguồn]

Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022
Từ trái sang phải: Nhà sản xuất Kevin Feige, đạo diễn Ryan Coogler và các diễn viên Lupita Nyong'o, Michael B. Jordan, Danai Gurira, Chadwick Boseman trong buổi giới thiệu phim tại San Diego Comic-Con tháng 7 năm 2016.
  • Chadwick Boseman vai T'Challa / Báo Đen: Quốc vương của một quốc gia châu Phi - Wakanda,[6][7][8] người đã tăng cường sức mạnh của mình bằng cách uống Tâm Hình Thảo (Heart-Shaped Herb) - một loại thực vật chỉ có tại Wakanda kết hợp bộ giáp Báo Đen có khả năng chống đạn.[9] Trong Captain America: Nội chiến siêu anh hùng, cha của T'Challa là T'Chaka chết trong 1 vụ đánh bom và T'Challa lên ngôi ngay khi còn chịu tang.[6][10] Đối với giọng Wakanda của mình, Boseman đã làm việc với cùng một huấn luyện viên phương ngữ mà anh ấy có trong Message from the King (2016), và làm việc với Marrese Crump để giữ vững phong độ giữa Civil War và Black Panther. Để chuẩn bị cho vai diễn này, Boseman đã đến thăm Nam Phi hai lần; xem xét Shaka Zulu, Patrice Lumumba, các bài phát biểu của Nelson Mandela, và các bài hát của Fela Kuti; nói chuyện với một Yoruba Babalawo; được đào tạo các môn võ Dambe, Capoeira Angola, và gậy chiến đấu Zulu; và thực hiện xét nghiệm ADN để hiểu rõ hơn về tổ tiên gốc Phi của mình. Anh đã ký hợp đồng năm phim với Marvel. Ashton Tyler đóng vai T'Challa lúc nhỏ.
  • Michael B. Jordan vai N'Jadaka / Erik Killmonger: Một người rất thèm muốn ngai vàng của Wakanda và trả thù T'Challa vì T'Chaka đã giết bố của hắn là N'Jobu, em ruột của T'Chaka.[11] Jordan đã muốn đóng một vai phản diện trong "một thời gian", và ví mối quan hệ của Killmonger và T'Challa với các nhân vật X-Men là Magneto và Giáo sư X. Anh nói thêm rằng Killmonger là người có chiến lược, chu đáo, kiên nhẫn và "được đào tạo thành chữ T". Các dấu vết bộ lạc gập ghềnh, mang tính nghi lễ của Killmonger trên ngực và thân của anh ta giống với hình xăm sẹo của bộ tộc Mursi và Surma, và bao gồm 90 khuôn silicon được điêu khắc riêng biệt, mất hai tiếng rưỡi để áp dụng. Jordan sẽ phải ngồi trong phòng tắm hơi trong hai giờ vào cuối ngày để tháo chân giả. Kiểu tóc dreadlocks của Killmonger là kiểu tóc hiện đại thay cho mái tóc dài của nhân vật trong truyện tranh. Để chuẩn bị cho vai diễn này, Jordan đã nghiên cứu Malcolm X , Marcus Garvey , Huey P. Newton , Fred Hampton , và Tupac Shakur. Ông cũng trích dẫn vai diễn Joker của Heath Ledger trong The Dark Knight (2008) như một ảnh hưởng. Corey Calliet, người trước đây đã làm việc với Jordan trong Creed (2015), từng là huấn luyện viên của anh ấy. Seth Carr đóng vai Stevens lúc nhỏ.
  • Lupita Nyong'o vai Nakia: người tình cũ của T'Challa và cũng là điệp viên tài năng của Wakanda.[10][11] Nyong'o gọi Nakia là "sự chuyển thể" so với nguyên tác truyện tranh của cô. Cô bắt đầu bộ phim đấu tranh cho những phụ nữ bị bắt làm nô lệ ở Nigeria. Nyong'o được đào tạo các môn võ judo, jujitsu, silat và võ thuật Philippines.
  • Danai Gurira vai Okoye: thủ lĩnh của đội quân Dora Milaje của Wakanda và là vệ sỹ của T'Challa, vốn có lòng trung thành tuyệt đối với mọi vua Wakanda đương nhiệm, bất kể người đó là ai. Đạo diễn Ryan Coogler chọn Gurira dựa trên diễn xuất của cô trong Mother of George (2013), thay vì vai diễn nổi tiếng Michonne của cô trong loạt phim truyền hình The Walking Dead mà Coogler chưa từng xem. Gurira nói rằng các kỹ năng chiến đấu mà cô học được khi chơi Michonne bổ sung cho các kỹ năng của Okoye,  nhưng lưu ý rằng Dora Milaje là mộtdịch vụ bí mật , bao gồm thông tin cũng như chiến đấu. Cô giải thích rằng mặc dù nhân vật là người khắc kỷ, "cô ấy cũng có một khiếu hài hước bất ngờ. Cô ấy có một trái tim, nhưng vì đất nước và nhân dân của cô ấy." Đầu của Gurira được cạo lại mỗi ngày để thực hiện các hình xăm trên đầu, mất từ ​​hai tiếng rưỡi đến ba tiếng rưỡi.
  • Letitia Wright vai Shuri: em gái của T'Challa và là thiên tài công nghệ vượt trội hơn Tony Stark và Bruce Banner.[10] Wright mô tả Shuri là người đổi mới về tinh thần và trí tuệ, muốn đưa Wakanda đến "một nơi mới", và cảm thấy cô ấy là một hình mẫu tốt cho các cô gái trẻ Da đen.
  • Angela Bassett vai Hoàng hậu Ramonda: mẹ của T'Challa và Shuri.[11] Ramonda phục vụ như một cố vấn cho T'Challa về việc nếu không thì anh ấy đã quay sang cha mình. Bassett đội một bộ tóc giả màu bạc, dài đến thắt lưng cho vai diễn được làm từ 120 sợi tóc cuộn bằng tay thành những chiếc âu phục. Calliet cũng từng là huấn luyện viên của Bassett trước và trong khi quay phim, tạo ra các mạch luyện tập ngắt quãng cường độ cao và giúp xây dựng chế độ ăn kiêng của cô ấy.
  • Martin Freeman vai Everett Ross: 1 đặc vụ CIA, về sau thân thiết với T'Challa.[10] Anh ấy nói thêm rằng nhân vật đi vào một "cuộc hành trình khai sáng đến Wakanda" trong phim. Freeman và các nhà làm phim đã tìm cách miêu tả Ross như một đặc vụ có khả năng thay vì chỉ là cứu trợ hài hước như trong truyện tranh.
  • Forest Whitaker vai Zuri: Bạn của vua T'Chaka.[11] Coogler gọi Zuri là một nhân vật tôn giáo và tâm linh, ám chỉ tâm linh của Wakanda trong truyện tranh, và so sánh anh ta với Obi-Wan Kenobi trong loạt phim Chiến tranh giữa các vì sao. Zuri cũng là người "trói buộc chính" T'Chaka cho T'Challa. Denzel Whitaker, người không liên quan đến Forest, đóng vai Zuri thời trẻ.
  • Daniel Kaluuya vai W'Kabi:[11] Người bạn tâm giao của T'Challa và người bạn thân nhất của anh ta, người đứng đầu bộ phận an ninh của Bộ lạc Biên giới, đóng vai trò là tuyến phòng thủ đầu tiên của Wakanda.
  • Andy Serkis vai Ulysses Klaue: Một tay buôn vũ khí chợ đen, buôn lậu và xã hội đen Nam Phi, liên minh với Killmonger.[10][11] Klaue sử dụng một phân đoạn thiết bị khai thác tiên tiến của Wakandan làm súng thần công ngắt âm dùng để thay thế cánh tay trái của anh ta, cánh tay bị mất trong Avengers: Age of Ultron (2015). Boseman mô tả Klaue là mối đe dọa đối với Wakanda, một trong số ít những người bên ngoài xâm nhập vào đất nước, và là người có quyền truy cập vibranium. Ông đã so sánh nhân vật này với Osama bin Laden. Serkis nói thêm rằng ngoài mong muốn của mình đối với vibranium, Klaue còn bị thúc đẩy bởi một mối quan hệ cá nhân chống lại T'Challa, và "để phơi bày những gì anh ta nghĩ là đạo đức giả của Wakanda".

Ngoài ra, John Kani và Florence Kasumba đảm nhận các vai T'Chaka và Ayo tương ứng của họ từ Captain America: Civil War. Atandwa Kani, con trai của Kani, đóng vai T'Chaka thời trẻ, và Sterling K. Brown đóng vai anh trai N'Jobu, cha của Killmonger. Các trưởng lão Wakanda trong phim bao gồm Isaach de Bankolé cho Bộ lạc Sông, Connie Chiume cho Bộ lạc Khai thác, ​​Dorothy Steel cho Bộ lạc Thương gia, và Danny Sapani cho Bộ lạc Biên giới. Sydelle Noel xuất hiện trong vai Xoliswa, một thành viên của đội Dora Milaje. Marija Abney, Janeshia Adams-Ginyard, Maria Hippolyte, Marie Mouroum, Jénel Stevens, Zola Williams, Christine Hollingsworth và Shaunette Renée Wilson cũng đóng vai Doras. Nabiyah Be ban đầu được thông báo rằng cô ấy đang đóng vai tội phạm Tilda Johnson, nhưng nhân vật của cô ấy chỉ được đặt tên là Linda trong bộ phim cuối cùng do Gabrielle Dennis được chọn vào vai Johnson trong mùa thứ hai của Luke Cage. Diễn viên hài Trevor Noah lồng tiếng cho Griot, AI của tàu Wakandan, Stan Lee, người đồng sáng tạo Black Panther, có vai khách mời trong một sòng bạc Hàn Quốc, và Sebastian Stan xuất hiện không được ghi nhận trong cảnh post-credit tái hiện vai diễn Bucky Barnes của anh.

Sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm 1992, Wesley Snipes công khai ý định làm một bộ phim về Black Panther,[12] và bắt đầu thực hiện nó vào tháng 8.[13] Snipes muốn làm nổi bật lên vẻ uy nghi của Châu Phi, điều mà ông thấy ít được miêu tả trong các bộ phim của Hollywood. Nguyên văn ông nói, "Tôi nghĩ Black Panther nói chuyện với tôi là vì tôi là người quý tộc, và ông là bức chân dung tương phản đại diện và miêu tả về người châu Phi, lịch sử châu Phi và những vương quốc vĩ đại của châu Phi." Ông đã bắt đầu công việc làm phim vào tháng 8. Tháng 7 kế tiếp, Snipes lên kế hoạch bắt đầu The Black Panther sau khi đóng trong Demolition Man (1993),[14] và tháng tiếp theo ông bày tỏ sự quan tâm đến việc tiếp tục làm phim.[15] Tháng 1 năm 1994, Snipes có cuộc đàm phán với Columbia Pictures để đóng Black Panther,[16] và nhà đồng sáng lập Black Panther Stan Lee cũng gia nhập phim vào tháng 3;[17] phim sau đó bước đầu phát triển vào tháng 5.[18] Snipes có thảo luận với một vài biên kịch và đạo diễn về dự án, bao gồm Mario Van Peebles và John Singleton.[19] Khi bộ phim không tiến triển vào tháng 1 năm 1996, Stan Lee giải thích rằng ông không hài lòng với kịch bản cho dự án.[20]

Tiền kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1 năm 2016, Coogler được xác nhận làm đạo diễn phim,[21] và giải thích rằng ông lớn lên cùng với đọc truyện tranh,[22][23] vì vậy Black Panther "chỉ mang tính cá nhân đối với tôi như hai bộ phim cuối cùng mà tôi có thể làm. Tôi cảm thấy thật may mắn khi có thể làm về thứ mà tôi yêu thích một lần nữa."[23][24] Đồng ý đạo diễn phim sau khi bị Feige "thèm khát" trong nhiều tháng, Coogler khẳng định ông mang những cộng tác viên từ những bộ phim trước của ông để làm việc trong Black Panther để phân biệt phim so với những bộ phim khác của MCU mà thường "được quay, soạn nhạc và biên tập bởi những người cùng nhà". Những người ông mang về cộng tác cùng trong Black Panther có nhà quay phim của Fruitvale Station (2013) là Rachel Morrison,[25] cũng như nhà thiết kế sản xuất Hannah Beachler và nhà soạn nhạc Ludwig Göransson; tất cả đều từng làm việc cùng Coogler trong Fruitvale Station và Creed.[25][26] Coogler cho rằng Black Panther sẽ vừa khác biệt vừa khớp với mạch chuyện chung của MCU.[22]

Quay phim[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối tháng 6 năm 2017, Sydelle Noel tiết lộ vừa được tuyển vai Xoliswa trong phim, một thành viên của Dora Milaje. Tháng 7 năm 2017, Moore nói Black Panther sẽ là một sự kết hợp giữa The Godfather và những bộ phim về James Bond.

Hiệu ứng kỹ xảo trong phim tạo ra bởi Industrial Light & Magic (ILM), Digital Domain, Double Negative, Luma Pictures, Mammal Studios, Method Studios, Rise Visual Effects Studios, Scanline VFX và Trixter.

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Ludwig Göransson được thuê sáng tác cho phần nhạc nền phim vào tháng 4 năm 2017. Sau khi đọc kịch bản, Ludwig Göransson quyết định đến châu Phi để nghiên cứu cho bộ phim.[27] Göransson đã tới Senegal và Nam Phi, ban đầu đi du lịch xung quanh cùng với nhạc sĩ Baaba Maal,[27][28] sau đó dành vài tuần để thu âm từ các nhạc sĩ địa phương để hình thành phần "cơ bản" cho nhạc phim của mình.[29][30]

Kendrick Lamar sản xuất nhạc phim tuyển tập, mang tên Black Panther: The Album, bên cạnh nhà sáng lập Top Dawg Entertainment Anthony Tiffith. Coogler chọn Lamar vào dự án vì "chủ đề nghệ thuật của tôi phù hợp với những gì chúng tôi khám phá trong phim".[31] Ba đĩa đơn từ album được phát hành từ tháng 1 đến tháng 2, "All the Stars",[31] "King's Dead",[32] và "Pray for Me".[33] Black Panther: The Album được phát hành vào ngày 9 tháng 2 năm 2018.[34]

Công chiếu[sửa | sửa mã nguồn]

Phim có buổi ra mắt toàn cầu tại nhà hát Dolby Theatre ở Los Angeles vào ngày 29 tháng 1 năm 2018.[35] Trước khi buổi chiếu ra mắt bắt đầu, Coogler đã nhận một sự hoan nghênh nồng nhiệt trước khi ông công bố dàn diễn viên của phim.[36] Phim được công chiếu tại Anh Quốc, Hồng Kông và Đài Loan vào ngày 13 tháng 2 năm 2018,[37] tại Hàn Quốc vào ngày 14 tháng 2 năm 2018,[38] tại Mỹ vào ngày 16 tháng 2 năm 2018,[39] và tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 2 năm 2018,[40][41][42] dưới định dạng 3D và IMAX.[43][44] Bộ phim cũng sẽ được "phát hành xuyên quốc gia" tại châu Phi, lần đầu tiên với một bộ phim của Disney.[37][45]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Black Panther, British Board of Film Classification, lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2018, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018
  2. ^ Setoodeh, Ramin (ngày 5 tháng 2 năm 2018). “Chadwick Boseman and Ryan Coogler on How 'Black Panther' Makes History”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2018.
  3. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “'Black Panther' Goes From Tentpole To Cultural Milestone: No. 2 In 2018 Most Valuable Blockbuster Tournament”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  4. ^ Black Panther tại Box Office Mojo
  5. ^ Anderson, Jenna (ngày 18 tháng 5 năm 2017). “New Black Panther Synopsis Revealed”. ComicBook.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
  6. ^ a b Topel, Fred (ngày 10 tháng 8 năm 2016). “Exclusive: 'Black Panther' Screenwriter on Wakanda's Rise Within the Marvel Universe [TCA 2016]”. /Film. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2016.
  7. ^ Siegel, Lucas (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Marvel Announces Black Panther, Captain Marvel, Inhumans, Avengers: Infinity War Films, Cap & Thor 3 Subtitles”. Newsarama. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2014.
  8. ^ Strom, Marc (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Chadwick Boseman to Star in Marvel's Black Panther”. Marvel.com. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2014.
  9. ^ Donn, Emily (ngày 9 tháng 6 năm 2017). “Black Panther Director Explains T'Challa's Powers”. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  10. ^ a b c d e Trumbore, David (ngày 24 tháng 1 năm 2018). “'Black Panther': 90 Things to Know about the MCU's Game-Changing Movie”. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
  11. ^ a b c d e f Breznican, Anthony (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “How Black Panther aims to be the superhero version of The Godfather and 007”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
  12. ^ Carr, Jay (ngày 21 tháng 6 năm 1992). “Can penguin cones be far behind?”. Boston Globe.
  13. ^ Carr, Jay (ngày 30 tháng 8 năm 1992). “Tolkin to sit in director's chair”. Boston Globe.
  14. ^ Valentine, Evan (ngày 22 tháng 11 năm 2014). “Everything You Need to Know About Black Panther: An Introduction to the Marvel Cinematic Universe's New Addition”. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  15. ^ Persall, Steve (ngày 3 tháng 8 năm 1993). “Future is bright for Snipes”. St. Petersburg Times.
  16. ^ Brodie, John (ngày 5 tháng 1 năm 1994). “Hollywood Pours Its Heroes into Tights”. Chicago Sun-Times.
  17. ^ Pitts, Jr., Leonard (ngày 27 tháng 3 năm 1994). “A comics milestone from the action-filled universe of superheroes come new characters, and a new diversity”. The Miami Herald. tr. J1.
  18. ^ Lovece, Frank (ngày 15 tháng 5 năm 1994). “Off the drawing board”. Newsday.
  19. ^ Parker, Ryan; Couch, Aaron (ngày 29 tháng 1 năm 2018). “Wesley Snipes Reveals Untold Story Behind His 'Black Panther' Film”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2018.
  20. ^ Nye, Doug (ngày 28 tháng 1 năm 1996). “Stan Lee hopes New World deal pumps life into his creations”. The State.
  21. ^ Strom, Marc (ngày 11 tháng 1 năm 2016). “Ryan Coogler to Direct Marvel's 'Black Panther'”. Marvel.com. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
  22. ^ a b Solomon, Dan (ngày 16 tháng 5 năm 2016). “How 'Creed' Auteur Ryan Coogler Punches Through The Hollywood Mold”. Fast Company. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  23. ^ a b Wilding, Josh (ngày 13 tháng 1 năm 2016). “Exclusive: Creed director Ryan Coogler talks for the first time about helming Marvel's Black Panther”. HeyUGuys.com. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  24. ^ White, Brett (ngày 13 tháng 1 năm 2016). “Coogler Calls 'Black Panther' A 'Personal' Project”. Comic Book Resources. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  25. ^ a b Valentini, Valentina (ngày 30 tháng 11 năm 2016). “'Moonlight,' 'Black Panther' Production Designer on Big Break With Ryan Coogler”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  26. ^ Buchanan, Kyle (ngày 18 tháng 4 năm 2017). “You're Not Ready for Black Panther's Stunning New Spin on Superhero Movies”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
  27. ^ a b Pearce, Sheldon (ngày 7 tháng 2 năm 2018). “How Black Panther Composer Ludwig Göransson Found the Sound of Wakanda”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  28. ^ Hrishikesh Hirway (ngày 14 tháng 3 năm 2018). “Ludwig Göransson – 'Killmonger'”. Song Exploder (Podcast). Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2018.
  29. ^ Flook, Ray (ngày 21 tháng 7 năm 2017). “Musical Anatomy of a Superhero: The Best SDCC Panel That I Didn't Intend To See”. Bleeding Cool. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  30. ^ Genius (ngày 16 tháng 2 năm 2018). The Making Of "Wakanda" With Ludwig Göransson Presented By Marvel Studio's Black Panther. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018 – qua YouTube.
  31. ^ a b Foutch, Haleigh (ngày 4 tháng 1 năm 2018). “Kendrick Lamar Will Produce and Curate Marvel's 'Black Panther' Soundtrack”. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018.
  32. ^ Legaspi, Althea (ngày 11 tháng 1 năm 2018). “Kendrick Lamar, Future, James Blake Team on Jay Rock's 'King's Dead'”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
  33. ^ Madden, Sidney (ngày 2 tháng 2 năm 2018). “Kendrick Lamar and the Weeknd Team Up For 'Pray For Me'”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
  34. ^ Moniuszko, Sara (ngày 15 tháng 1 năm 2018). “Everything we know about the Marvel superhero film 'Black Panther'”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2018.
  35. ^ Rahman, Abid (ngày 29 tháng 1 năm 2018). “'Black Panther': First Reactions From the Premiere”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2018.
  36. ^ Couch, Aaron (ngày 30 tháng 1 năm 2018). “'Black Panther' Premiere Began With a Standing Ovation”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  37. ^ a b McNary, Dave (ngày 12 tháng 2 năm 2018). “'Black Panther' Heading Toward Massive $170 Million-Plus Opening”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2018.
  38. ^ Lee, Hyo-won (ngày 4 tháng 2 năm 2018). “'Black Panther' Team Kick Off Global Press Tour in South Korea: 'Not Just a Popcorn Movie'”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018.
  39. ^ Strom, Marc (ngày 8 tháng 10 năm 2015). “Marvel Studios Phase 3 Update”. Marvel.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015.
  40. ^ “Black Panther - Siêu anh hùng da màu đầu tiên của dòng phim siêu anh hùng”. Vtv.vn. Truy cập ngày 9 Tháng 2 năm 2018.
  41. ^ “Black Panther kỷ lục về vé bán sớm”. Báo Sài Gòn giải phóng. Truy cập ngày 9 Tháng 2 năm 2018.
  42. ^ “CHIẾN BINH BÁO ĐEN (2D)”. Trung tâm chiếu phim quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 9 Tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 9 Tháng 2 năm 2018.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  43. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 14 tháng 2 năm 2018). “Before 'Black Panther' Pounces To Potential $180M+, 'Fifty Shades Freed' Will Pop at Valentine's Day B.O.”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2018.
  44. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 20 tháng 2 năm 2018). “'Black Panther' Goes Wild: At $242M Superhero Owns 2nd Best 4-Day Opening & Defeats 'Last Jedi' – Update”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  45. ^ Johnson, Jason (ngày 25 tháng 9 năm 2017). “Best Part of Congressional Black Caucus Week? Exclusive Footage of Marvel's Black Panther”. The Root. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chiến binh báo đen trên Internet Movie Database
  • Chiến binh báo đen tại Box Office Mojo
  • Chiến binh báo đen tại Rotten Tomatoes
  • Chiến binh báo đen tại Metacritic
  • Marvel Studios' Black Panther - Official Trailer trên YouTube Marvel Entertainment xuất bản 16 thg 10, 2017

Bản mẫu:Black Panther

Bản mẫu:Ryan Coogler

NBA đã công bố danh sách đầy đủ của 75 cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử của nó. Chúng tôi sẽ tập trung vào TEN Who Matter nhất - những người chơi hoặc huấn luyện cho nhượng quyền thương mại Golden State Warriors. Danh sách này chứa một số cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử Chiến binh, cũng như một vài người chơi rất tốt trước khi họ tham gia với các Chiến binh. Tất nhiên chúng tôi sẽ tuyên bố quyền khoe khoang cho tất cả họ, bất kể họ đã làm gì cho Dubs.

Nhưng ai là chiến binh vĩ đại nhất của NBA 75 Ten? Đó là lý do tại sao chúng tôi ở đây. Để xếp hạng những điều này.

1. Steph Curry: Curry là một MVP hai lần, một nhà vô địch NBA ba lần và là game bắn súng vĩ đại nhất trong lịch sử NBA. Đó không phải là một cường điệu khi nói rằng Trung tâm Chase có lẽ sẽ không tồn tại nếu các Chiến binh không soạn thảo Curry vào năm 2009. Anh ấy lần đầu tiên trong danh sách ghi điểm mọi thời đại của nhượng quyền Ray Allen cho vị trí hàng đầu), và là thành viên duy nhất của danh sách NBA 75 để tổ chức một chương trình trò chơi golf thu nhỏ thành công.Curry is a two-time MVP, a three-time NBA champion, and the greatest shooter in NBA history. It’s not an exaggeration to say that the Chase Center probably wouldn’t exist had the Warriors not drafted Curry in 2009. He’s first in the franchise’s all-time scoring list, second in the all-time three-pointers list (and bearing down on Ray Allen for the top spot), and the only member of the NBA 75 list to host a successful miniature golf game show.

2. Wilt Chamberlain: Wilt the Stilt đã dành sáu năm đầu tiên trong sự nghiệp của mình với Philadelphia và sau đó là các chiến binh San Francisco, đưa ra những con số ngoạn mục và giành được cả tân binh của năm và giải thưởng đầu tiên trong bốn giải MVP của anh ấy. Đối với sự nghiệp chiến binh của mình, Chamberlain ghi trung bình 41,5 điểm và 25,1 rebound. Trong mùa giải 1961-62, Wilt đã có một trận đấu 100 điểm, ghi được 50,4 điểm mỗi trận và thậm chí trung bình hơn 48 phút một trận đấu cho mùa giải. Ông cũng là thành viên duy nhất của danh sách 20.000 NBA. Wilt the Stilt spent the first six years of his career with the Philadelphia and then San Francisco Warriors, putting up spectacular numbers and winning both Rookie of the Year and the first of his four MVP awards his first season. For his Warriors career, Chamberlain averaged 41.5 points and 25.1 rebounds. In the 1961-62 season, Wilt had a 100-point game, scored 50.4 points per game, and even averaged more than 48 minutes a game for the season. He’s also the sole member of the NBA 20,000 list.

3. Rick Barry: Hall of Famer Rick Barry có hai lần với các Chiến binh. Ở tuổi 22, Barry đã dẫn đầu giải đấu ghi bàn và đưa các Chiến binh đến trận chung kết. Sau đó, anh ta nhảy đến ABA, giành được một danh hiệu với Oakland Oaks, và trở lại với các Chiến binh vào năm 1972. Ba năm sau, anh ta là trận chung kết MVP khi các Chiến binh giành được danh hiệu năm 1975. Barry đã thực hiện tám đội All-Star với Golden State (và bốn trong ABA) và sau đó anh hùng bảo vệ Joe Lacob trong lễ nghỉ hưu của Chris Mullin, Jersey Jersey.: Hall of Famer Rick Barry had two stints with the Warriors. At the age of 22, Barry led the league in scoring and took the Warriors to the Finals. Then he jumped to the ABA, won a title with the Oakland Oaks, and returned to the Warriors in 1972. Three years later, he was Finals MVP when the Warriors won the 1975 title. Barry made eight All-Star teams with Golden State (and four in the ABA) and later heroically defended Joe Lacob during Chris Mullin’s jersey retirement ceremony.

4. Paul Arizin: Hall of Famer Paul Arizin đã chơi toàn bộ sự nghiệp của mình với các Chiến binh Philadelphia, làm cho đội All-Star trong tất cả mười mùa của anh ấy. Ngay lập tức, Paul Pitchin, Paul Paul đã dẫn đầu giải đấu trong việc ghi bàn trong năm 1951-52 và giành được MVP tại trò chơi All-Star. Sau hai năm trong Thủy quân lục chiến, Arizin trở lại và giành được một danh hiệu vào năm 1955-56. Anh ấy vẫn là một cầu thủ xuất sắc trong mùa giải cuối cùng của anh ấy, trung bình 21,9 điểm mỗi trận, nhưng anh ấy đã nghỉ hưu thay vì theo dõi các Chiến binh khi họ chuyển đến San Francisco. Hall of Famer Paul Arizin played his entire career with the Philadelphia Warriors, making the All-Star team in all ten of his seasons. “Pitchin’ Paul” led the league in scoring in the 1951-52 and won MVP at the All-Star Game. After two years in the Marine Corps, Arizin returned and won a title in 1955-56. He was still an excellent player in his final season, averaging 21.9 points per game, but he retired rather than follow the Warriors when they moved to San Francisco.

5. Nate Thurmond: Các Chiến binh đã phác thảo Hall of Famer Nate Thurmond vào năm 1963, và đội đã đến trận chung kết năm tân binh của anh ấy. Và khi Wilt Chamberlain được giao dịch vào mùa giải tiếp theo, Thurmond đã trở thành một người phục hồi thống trị (biệt danh là Chủ tịch của Hội đồng quản trị) và đã thành viên đầu tiên trong số bảy đội All-Star của mình. Cả Wilt Chamberlain và Kareem Abdul-Jabbar cho biết Thurmond là trung tâm khó khăn nhất của họ để thi đấu. Anh ta cũng lập kỷ lục NBA với 18 rebound trong một phần tư, đạt được cú đúp đầu tiên của NBA vào năm 1974, và sau đó bắt đầu BBQ BBQ của Big Nate, chuỗi nhà hàng của riêng anh ta.The Warriors drafted Hall of Famer Nate Thurmond in 1963, and the team went to the Finals his rookie year. And when Wilt Chamberlain was traded the next season, Thurmond became a dominant rebounder (nicknamed “Chairman of the Boards”) and made the first of his seven All-Star teams. Both Wilt Chamberlain and Kareem Abdul-Jabbar said Thurmond was their toughest center to play against. He also set the NBA record with 18 rebounds in a quarter, achieved the NBA’s first quadruple-double in 1974, and later started Big Nate’s BBQ, his own chain of restaurants.

Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022
Đầu bếp thịt nướng tốt nhất của tất cả các cầu thủ vĩ đại nhất của NBA. Ảnh của NBA Photos/NBAE qua Getty Images

6. Kevin Durant: KD là một chiến binh chỉ trong ba mùa, nhưng những đội đó là một trong những người vĩ đại nhất trong lịch sử NBA. Durant đã hợp tác với phần còn lại của Hamptons Five Five để tham gia vòng playoff vào năm 2017, khi Durant giành chiến thắng MVP Chung kết, và sau đó cào và vuốt ve vòng playoff vào năm 2018, khi Durant giành chiến thắng trong trận chung kết MVP. Anh ấy đã đi đúng hướng với ba than bùn cùng với đội của mình trước khi một chấn thương Achilles đưa anh ấy ra ngoài, nhưng nỗ lực trở lại anh hùng của anh ấy trong Game 5 sẽ không bao giờ bị người hâm mộ Dubs quên.KD was a Warrior for just three seasons, but those teams were some of the greatest in NBA history. Durant teamed with the rest of the “Hamptons Five” to roll through the playoffs in 2017, when Durant won Finals MVP, and then scratch and claw their way through the playoffs in 2018, when Durant won Finals MVP again. He was on track to three-peat along with his team before an Achilles injury took him out, but his heroic comeback effort in Game 5 will never be forgotten by Dubs fans.

7. Bill Sharman: Bill Sharman, một Hall of Famer vừa là cầu thủ vừa là huấn luyện viên, chỉ dành hai mùa để huấn luyện các Chiến binh, nhưng họ là những người đáng nhớ. Anh đã dẫn dắt các Chiến binh vào trận chung kết vào năm 1966-67 và trận chung kết hội nghị vào năm sau. Nhưng anh ấy cũng đã thay đổi huấn luyện NBA mãi mãi với các Chiến binh khi anh ấy phát minh ra buổi bắn buổi sáng. Anh ta cũng giành được bốn chiếc nhẫn với tư cách là một cầu thủ, một với tư cách là một huấn luyện viên và năm người là giám đốc điều hành của Lakers, nhưng không ai trong số họ xảy ra với các Chiến binh nên họ không tính.Bill Sharman, a Hall of Famer as both a player and a coach, spent just two seasons coaching the Warriors, but they were memorable ones. He led the Warriors to the Finals in 1966-67 and the conference finals the next year. But he also changed NBA coaching forever with the Warriors when he invented the morning shootaround. He also won four rings as a player, one as a coach, and five as a Lakers executive, but none of those happened with the Warriors so they don’t count.

8. Jerry Lucas: Hầu hết các lý do Jerry Lucas thực hiện danh sách NBA 75 đã xảy ra trước hoặc sau khi anh ta gia nhập Warriors, trong một giao dịch với Cincinnati vào năm 1969. Lucas đủ tốt để thành lập đội All-Star thứ 7 của mình vào năm 1970-71, và trung bình 17,5 điểm và 15,2 rebound cho sự nghiệp chiến binh ngắn ngủi của mình. Sau đó, anh ta đã giành được một danh hiệu với Knicks sau khi các Chiến binh trao đổi anh ta cho Cazzie Russell, người khởi hành cho Lakers trong cơ quan miễn phí đã đưa các Chiến binh chọn dự thảo trở thành người chơi tiếp theo trong danh sách này.Most of the reasons Jerry Lucas made the NBA 75 list happened before or after he joined the Warriors, in a trade with Cincinnati in 1969. Lucas was good enough to make his 7th All-Star team in 1970-71, and averaged 17.5 points and 15.2 rebounds for his brief Warriors career. Then he won a title with the Knicks after the Warriors traded him for Cazzie Russell, whose departure for the Lakers in free agency got the Warriors the draft pick who became the next player on this list.

Top 5 chiến binh bang vàng mọi thời đại năm 2022
Jerry Lucas, NBA All-Star và chuyên gia bộ nhớ. Đặt số: x15431 TK1 F25

9. Thật không may, tất cả đã xảy ra sau khi Golden State trao đổi giáo xứ và một dự thảo lựa chọn đã trở thành Kevin McHale cho Boston cho số 1 chọn Joe Barry Carroll. Giáo xứ đã trung bình 13,8 điểm và 9,5 rebound cho các Chiến binh, những người đang từ chối từ độ cao cao của danh hiệu ‘75, nhưng vẫn nói rằng giáo xứ nói rằng ông đã đi từ tòa án đến căn hộ. Không phải là anh ấy đã sai.Robert “The Chief” Parish started his 21-year career with the Warriors in 1976, a career that included nine All-Star appearances and four championships. Unfortunately, that all happened after Golden State traded Parish and a draft pick that became Kevin McHale to Boston for No. 1 pick Joe Barry Carroll. Parish averaged a pedestrian 13.8 points and 9.5 rebounds for the Warriors, who were declining from the lofty heights of the ‘75 title, but it still stings that Parish said he went “from the penitentiary to the penthouse.” Not that he was wrong.

10. Dave Cowens: Dave Cowens là một MVP và là nhà vô địch NBA hai lần với tư cách là cầu thủ của Celtics, nhưng là một huấn luyện viên của Chiến binh, anh ấy đã đánh hơi mức độ thành công đó. Cowens đã chủ trì các chiến binh 2000-01 và đã đi 17-65, đó là những tổn thất nhất trong lịch sử nhượng quyền. Anh ấy đã bị sa thải 23 trận vào mùa giải 2001-2 và không bao giờ làm huấn luyện viên trưởng NBA nữa.Dave Cowens was an MVP and a two-time NBA champion as a player for the Celtics, but as a Warriors coach, he didn’t sniff that level of success. Cowens presided over the 2000-01 Warriors and went 17-65, which is the most losses in franchise history. He was fired 23 games into the 2001-2 season and never worked as an NBA head coach again.

Ai là chiến binh Golden State vĩ đại nhất mọi thời đại?

1. Stephen Curry. Stephen Curry không chỉ là game bắn súng vĩ đại nhất trong lịch sử nhượng quyền (và có khả năng giải đấu), mà còn là chiến binh vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay. Kể từ khi được Golden State soạn thảo thứ bảy trong NBA Draft 2009, anh đã giành được hai MVP, bốn chức vô địch và anh được ghi tên vào đội All-Star tám lần.Stephen Curry. Stephen Curry is not only the greatest shooter in franchise (and potentially league) history, but also the greatest Warrior ever. Since being drafted seventh overall by Golden State in the 2009 NBA Draft, he has won two MVPs, four championships, and he's been named to the All-Star team eight times.

Ai là cầu thủ bóng rổ NBA vĩ đại nhất mọi thời đại?

1. Michael Jordan.Michael Jordan được biết đến rộng rãi như là cầu thủ vĩ đại nhất của trò chơi và vì lý do chính đáng.Michael Jordan. Michael Jordan is widely known as the game's greatest player—and for good reason.

Cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Chiến binh là ai?

Stephen Curry.7089 ..
Rick Barry* 6466 ..
Chris Mullin* 6150 ..
Paul Arizin* 5628 ..
Jeff Mullins.5183 ..
Nate Thurmond* 5029 ..
Klay Thompson.4867 ..
Purvis ngắn.4830 ..

Tại sao Golden State Warriors là tốt nhất?

Các chiến binh cũng nằm trong top năm của gần như mọi thể loại thống kê.Họ dẫn đầu giải đấu trong các hỗ trợ, điểm, tỷ lệ mục tiêu hiện trường, rebound, xếp hạng phòng thủ và xếp hạng ròng điều chỉnh, trong khi họ có hành vi phạm tội tốt thứ ba.Trong quá khứ, đã có một số cho và nhận với các Chiến binh.They lead the league in assists, points, field goal percentage, rebounds, defensive rating and adjusted net rating, while they have the third-best offense. In the past, there has been some give and take with the Warriors.