Trong bài tập đọc Mùa thảo quả, tác giả Ma Văn Kháng đã so sánh thảo quả với sự vật nào dưới đây

Nội dung bài Mùa thảo quả

Nội dung bài Mùa thảo quả

Trả lời:

Bài đọc giới thiệu về cây thảo quả ở Đản Khao. Khi vào mùa, thảo quả chín tỏa hương thơm khắp nơi. Sức sống của cây rất mạnh mẽ, cây sinh sôi nhanh chóng, phủ kín núi rừng, trông vui mắt.

Ngoài ra, các em cùng tìm hiểu thêm các kiến thức hữu ích khác nhé!

1. Đọc văn Mùa thảo quả

Cách đọc:

- Đọc lưu loát và diễn cảm bài văn với giọng nhẹ nhàng, thể hiện cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của rừng thảo quả.

- Đọc rõ ràng, nghỉ hơi ở những câu ngắn: Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.

- Nhấn giọng vào những từ ngữ gợi tả vẻ đẹp hấp dẫn, hương thơm ngất ngây, sự phát triển nhanh đến bất ngờ của thảo quả: ngọt lựng, thơm nồng, đậm, ủ ấp, chín nục, ngây ngất kì lạ, mạnh mẽ, thoáng cái, đột ngột, rực lên, đỏ chon chót, chức quả, chứa nắng,….

Mùa Thảo Quả

Thảo quả trên rừng Đản Khao đã vào mùa.

Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn.

Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại ngây ngất kỳ lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia những hạt thảo quả gieo trên đất rừng, qua một năm, đã lớn cao tới bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy. Thoáng cái, dưới bóng râm của rừng già, thảo quả lan tỏa nơi tầng rừng thấp, vươn ngọn, xòe lá, lấn chiếm không gian.

Sự sống cứ tiếp tục trong âm thầm, hoa thảo quả nảy dưới gốc cây kín đáo và lặng lẽ. Ngày qua trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa khép miệng bắt đầu kết trái. Thảo quả chín dần. Dưới đáy rừng tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng.

Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo quả như những đốm lửa hồng, ngày qua ngày lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt.

[Ma Văn Kháng]

2. Đọc - hiểu Mùa thảo quả

Câu 1: Thảo quả báo hiệu vào mùa bằng cách nào? Cách dùng từ đặt câu ở đoạn đầu có gì đáng chú ý?

Thảo quả báo hiệu vào mùa bằng mùi thơm đặc biệt quyến rũ lan xa, cho gió thơm, cây cỏ thơm, từng nếp áo, nếp khăn của người đi rừng cũng thơm.

Các từ thơm lặp đi lặp lại có tác dụng nhấn mạnh mùi hương đặc biệt của thảo quả.

Câu 2 khá dài có các từ ngữ lướt thướt, quyến rũ, ngọt lựng, thơm nồng tạo cảm giác hương thơm lan tỏa kéo dài. Các câu ngắn như: gió thơm, cây thơm, đất trời thơm gợi tả một người đang hít vào để cảm nhận mùi thơm của thảo quả lan tỏa trong không gian.

Câu 2: Tìm những chi tiết cho thấy cây thảo quả phát triển rất nhanh?

Những chi tiết cho thấy cây thảo quả phát triển rất nhanh là: Qua một năm, hạt thảo quả đã thành cây, cao tới bụng người. Một năm sau nữa, mỗi thân lẻ đâm thêm hai nhánh mới. Thoáng cái, thảo quả đã thành từng nhóm lan tỏa, vươn ngọn xòe lá, lấn chiếm không gian.

Câu 3: Hoa thảo quả này ra ở đâu? Khi thảo quả chín, rừng có những nét đẹp gì?

Hoa thảo quả nảy dưới gốc cây. Khi thành quả chín, rừng rất đẹp. Dưới đáy rừng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng. Rừng say ngây ngất và ấm nóng. Thảo quả như những đốm lửa hồng, thắp nhiều ngọn mới, nhấp nháy.

3. Câu hỏi trắc nghiệm Mùa thảo quả

Câu 1. Con hãy ghép phần lí giải ở mảnh ghép màu xanh với từ ngữ tương ứng ở mảnh ghép màu nâu:

1. Thảo quả2. Đản Khao, Chin San3. Sầm uất

4. Tầng rừng thấp

a. Tầng rừng gồm các loại cây bụi và dây leo dưới đất [tầng rừng giữa gồm các loại cây có độ cao trung bình; tầng rừng cao gồm các loại cây to, thân cao vút, tán rộng]b. Cây thân cỏ, quả hình bầu dục, lúc chín màu đỏ, tỏa mùi thơm ngào ngạt, dùng làm thuốc hoặc gia vị.c. Tên những vùng đất thuộc tỉnh Lào Cai.Con hãy kéo miếng ghép màu xanh với miếng ghép màu nâu tương ứng để tạo thành đáp án đúng

d. Đông đúc, nhộn nhịp [ý trong bài là nhiều tới mức um tùm, rậm rạp].

Câu 2. Thảo quả báo hiệu vào mùa bằng dấu hiệu nào?

A. hương thơm

B. kích thước

C. màu sắc

D. người mua bán

Câu 3. Các từ hương và thơm được lặp lại nhiều lần có tác dụng gì? "Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn".

A. Không có tác dụng gì đặc biệt.

B. Nhấn mạnh vào hương thơm đặt biệt của thảo quả.

C. Để mọi người chú ý đến những thôn xóm Chin San.

D. Để mọi người chú ý đến mùi thơm của đất trời.

Câu 4. Con hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn thiện đoạn văn sau:

thơm nồng

lướt thướt

Đất trời thơm.

Gió tây ....[a]........ bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng,....[b]........ vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. .....[c]........

Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn.

a.

thơm nồng

lướt thướt

Đất trời thơm.

b.

thơm nồng

lướt thướt

Đất trời thơm

c.

thơm nồng

lướt thướt

Đất trời thơm

Câu 5. Hoa thảo quả nảy ra ở đâu?

A. Nảy trên các cành cây.

B. Nảy dưới gốc cây.

C. Nảy trên lá cây.

D. Nảy trên các ngọn cây.

Câu 6. Khi thảo quả chín, rừng có những nét đẹp gì?

Được chọn nhiều đáp án

1. Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng.

2. Rừng ngập hương thơm.

3. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng.

4. Rừng say ngây và ấm nóng.

5. Rừng ngập trong sắc vàng chói lóa và ấm nóng.

6. Thảo quả như những đốm lửa hồng, ngày qua ngày lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy vui mắt.

7. Rừng bỗng tràn đầy hương vị thoang thoảng, khoan khoái, dễ chịu của thảo quả.

Câu 7. Khi thảo quả chín, quả mang màu gì?

A. hồng

B. vàng

C. đỏ

D. xanh

Câu 8. Ý nghĩa bài văn Mùa thảo quả?

A. Bài văn Mùa thảo quả đã cho ta thấy được cuộc sống của người dân vùng Đan Khảo, Chin San vào mùa thảo quả.

B. Bài văn Mùa thảo quả đã cho ta thấy được vẻ đẹp, hương thơm đặc biệt, sự sinh sôi, phát triển nhanh đến bất ngờ của thảo quả.

C. Bài văn Mùa thảo quả đã cho ta thấy được thảo quả là một loài cây rất đặc biệt.

D. Bài văn Mùa thảo quả đã cho ta thấy được các thu hoạch thảo quả ra sao.

Đáp án

Câu

1

2

3

4

5

6

7

8

Đáp án

1-B

2-C

3-D

4-A

A

B

a. Lướt thướt

b. Thơm nồng

c. Đất trời thơm

B

1, 2,3, 4, 6

C

B

Giúp học sinh tìm hiểu vẻ đẹp của biện pháp Tu từ trong các bài tập đọc lớp 5

I.1. Lý do chọn đề tài.

Dạy Tiếng việt cho học sinh, nhất là học sinh tiểu học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đây là bậc học đầu tiên, đặt nền móng cho hình thành và phát triển về ngôn ngữ của trẻ sau này. Trong đó, khởi điểm cho môn học tiếng Việt là phân môn Tập đọc, phân môn này trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên của những người đi học.

Phân môn tập Đọc cũng giúp các em nâng dần kỹ năng đọc theo từng năm học của tiểu học. Từ biết đọc đúng, đọc rõ ràng, trôi chảy, lưu loát và diễn cảm và cao hơn là đọc hiểu văn bản. Đọc hiểu văn bản là một yêu cầu quan trọng trong việc giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp của giá trị nghệ thuật của văn bản. Việc hình thành và rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học cho học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng là niềm mong ước của mỗi thầy cô cũng như tất cả các bậc phụ huynh. Việc làm  này tạo nên sự say mê hứng thú cho các em khi học tập môn Tiếng việt để từng bước giúp các em có thể tìm hiểu được vẻ đẹp bài văn bao giờ cũng gian truân vất vả nhưng cũng hứa hẹn những điều hào hứng. Bước đầu tiên trên con đường đó là đọc bài văn, bước thứ hai là tìm xuất sứ hoàn cảnh sáng tác, bước thứ ba là tìm chủ đề hay “cái thần”của bài văn, rồi kiểm tra việc chọn như thế đã đúng hay chưa, ta cần căn cứ vào các từ ngữ, chi tiết nghệ thuật trong bài văn, bài thơ đó. Khi đó vẻ đẹp được hiện rõ ràng qua từ ngữ có lúc lại ẩn dấu đằng sau các chi tiết đó chính là các biện pháp tu từ mà tác giả đã thể hiện trong các bài văn, thơ.

Với nhiều năm kinh nghiệm trong giảng dạy lớp 5 ở tiểu học, tôi đã nghiên cứu rất kỹ về các biện pháp Tu từ được sử dụng trong các tác phẩm ở môn tập Đọc lớp 5. Có thể nói biện pháp Tu từ giúp cho bài văn thêm phần mạch lạc, rõ ràng, thu hút người đọc, người nghe, không gây cảm giác nhàm chán bằng cách nhấn mạnh những gì đang muốn nhắc tới. Hay có thể nói biện pháp Tu từ tô thêm vẻ đẹp cho tác phẩm.

Với ý nghĩa ý đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Giúp học sinh tìm hiểu vẻ đẹp của biện pháp Tu từ trong các bài tập đọc lớp 5” làm sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015.

  1. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

* Một số hình thức Tu từ thường gặp trong các bài tập đọc lớp 5:

– Phóng đại:Là cách nói cách sử dụng từ ngữ theo hướng cố tình nói quá sự thật nhằm làm nổi bật bản chất của đối tượng miêu tả gây ấn tượng đặc điểm mạnh mẽ qua đó người tiếp nhận sẽ hiểu được nội dung và tình cảm thực sự mà người nói muốn thể hiện:

VD:                      

“Người ta đi cấy lây công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm

[ca dao về lao động sản xuất] [TV 5- Tập 1]

Phóng đại ở đây góp phần thể hiện ý chí mạnh mẽ quyết tâm phấn đấu khắc phục mọi khó khăn của người nông dân lao động.

– So sánh tu từ: Là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc người nghe.

VD: “Dưới từng đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót bóng bẩy như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng.

Ma Văn Kháng [Mùa thảo quả, TV5- Tập 1]

Bức tranh tĩnh vật này trở nên sôi động nổi bật vì tác giả đã sử dụng hình thức so sánh tu từ.

– Phản ngữ : là biện pháp tu từ dùng những từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả và tăng cường sức biểu cảm cho thơ, văn.

VD:                Nước như ai nấu

                      Chết cả cá cờ

                      Cua ngoi lên bờ

                      Mẹ em xuống cấy

                                        Trần Đăng Khoa  [Hạt gạo làng ta, TV5-tập 1]

Phản ngữ ở đây nêu bật bản chất của đối tượng được miêu tả gây ấn tượng mạnh mẽ nêu rõ sự vất vả nhọc nhằn của người mẹ đã làm ra hạt gạo.[cua ngoi lên bờ >< đắng cay

Một hạt >< muôn phần

Từ đó nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng hạt gạo, biết tiết kiệm và nhất là phải quý trọng và biết ơn người nông dân, những người đã phải hàng ngày hàng giờ tưới lên đồng ruộng những cơn mưa mồ hôi để đồng lúa xanh hơn, bông lúa trĩu nặng hơn.

“Ơn trời mưa nắng phải thì

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.”

Sự lặp lại cấu trúc “nơi thì” đã tái hiện được phần nào không khí lao động khẩn trương, cần mẫn cho kịp thời vụ của người nông dân. Họ hăng say lao động bởi họ luôn tin tưởng:

“Công lênh chẳng quản bao lâu

Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.”

Công lênh nghĩa là công sức, người nông dân và tin tưởng, công sức lao động bỏ ra sẽ được trả bằng những hạt thóc vàng. Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên:

“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.”

Mỗi tấc đất là một tấc vàng, với bàn tay lao động cần cù, con người sẽ biến thành những mảnh đất khô cằn hoang hoá thành những đồng lúa chín vàng. Bài ca dao đã đưa ra một lời khuyên bổ ích cho con người phải chăm chỉ, phải cần cù lao động. Lòng yêu lao động của nhân dân ta đã được thể hiện rất rõ ràng trong bài ca dao này:

“Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.”

Sự lặp lại nhiều từ”trông” đã diễn tả được nỗi lo lo lắng trăm bề của người nông dân khi đưa cây lúa xuống đồng. Điều đó cũng thể hiện được nỗi vất vả của người nông dân khi làm ra hạt gạo. Thế nhưng, dù phải đứng trước bao nhiêu khó khăn vất vả, cả những bất trắc có thể xảy ra trong sản xuất, người nông dân vẫn kiên trì, cần cù làm lụng  và quết tâm vượt khó khăn.

Những nổi lo lắng của người lao động thì thực sự vơi đi khi tự tin rằng sức lao động của con người sẽ chiến thắng được thiên nhiên.

“Trông cho chân cứng đá mềm

Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng

Chân cứng đá mềm “là câu thành ngữ nói đến khả năng vượt qua mọi khó khăn của con người. Câu thành ngữ được đưa vào bài ca dao này với ý nghĩa khẳng định tinh thần kiên cường của người lao động. Để tìm ra hạt gạo, người nông dân phải đối diện với rất nhiều nỗi khó khăn, vất vả bao nỗi lo lắng về khí hậu và thời tiết nhưng họ vẫn quyết tâm, vẫn kiên cường để vượt lên sản xuất.

Lo lắng, để tránh được những tai hoạ do thiên nhiên gây ra va người nông dân chỉ thực sự yên lòng khi “trời yên biển lặng”. Bài ca dao một lần nữa khẳng định sự vất vả của người nông dân khi làm ra hạt gạo để nhắc nhở mọi người hãy nhớ đến những con người phải một nắng hai sương ấy. Đồng thời bài ca dao đã khẳng định và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, phẩm chất được ngợi ca ở đây là ý chí, là quết tâm sắt đá, là lòng yêu lao động của con người.

Bài: TRANH LÀNG HỒ

Bài văn gồm hai đoạn. Đoạn thứ nhất biểu hiện lòng khâm phục và biết ơn của tác giả đối với những người vẽ tranh, chủ yếu bằng một lời trau chuốt có sử dụng phương tiện hoán dụ: “lòng tôi thấm thía một nỗi biết ơn đối với những người nghệ sĩ tạo hình của nhân dân”, nếu so sánh với nói bình thường chẳng hạn : “Tôi biết ơn thật sâu sắc và chân thành những ngươì vẽ tranh dân gian”, thì mới thấy được giá trị gợi hình, gợi cảm của cách nói bóng bẩy dựa trên cơ sở sự gần nhau trong thực tế khách quan của các sự vật :lòng tôi- tôi, người hoạ sĩ- người hoạ sĩ tạo hình.”tôi biết ơn một cách chân thành sâu sắc” là cách nói trừu tượng, còn cách nói “lòng tôi thấm thía một nỗi biết ơn” là một sự diễn đạt vừa mang  tính cụ thể hình tượng vừa có khả năng diễn tả sâu sắc. Dùng “người hoạ sĩ tạo hình nhân dân” thay cho “người vẽ tranh dân gian” là dùng cách nói chuyển ngữ để nhấn mạnh ý nghĩa nghệ thuật cao của  tranh dân gian, để thể hiện trình độ nghệ thuật cao của những người vẽ ra nó. Đề tài tranh làng hồ thường lấy chủ đề trong cuộc sống hàng ngày ở làng quê Việt Nam. Nhưng tính chất phong phú, đa dạng của những  con, cây, người, vật, gần gũi trong sinh hoạt đã làm nên sức hấp dẫn của tranh dân gian. “Phải yêu quý cuộc đời trồng trọt, chăn nuôi lắm mới khắc được những tranh lợn ăn ráy có những xoáy âm dương rất có duyên, mới vẽ được những đàn gà con tưng bừng  như ca múa bên gà mẹ”. Câu trên là một câu suy tưởng khẳng định một cách ngắn gọn cái điều kiện “phải yêu mến cuộc đời trồng trọt, chăn nuôi lắm” vốn đưa đến một  hệ quả tốt  đẹp “mới khắc phục được những tranh lợn ráy và những xoáy âm dương rất có duyên, mới vẽ được những đàn gà con tưng bừng như ca múa bên gà mẹ”. Cách viết sóng đôi “mới khắc được…/ mới vẽ được…” trong thành phần câu chỉ hệ quả trên làm cho câu nói trở nên nhịp nhàng cân đối và phần này đã góp phần vào sự thể hiện lòng yêu thích và ý ca ngợi những bức tranh gà, lợn vui tươi sinh động làm cho bức tranh miêu tả thêm sống động.

Đoạn văn thứ hai là đoạn văn vừa kể vừa tả. Mỗi câu trong đoạn được chia ra thành hai phần cách nhau bằng dấu hai chấm:phần trước  là kể, phần sau là tả, tả để giải thích cho kể để cụ thể hoá phần vừa kể: “Kĩ thật tranh làng hồ đã đạt đến sự trang trí tinh tế: những bộ tranh Tố Nữ áo màu, quần hoa chanh, nền đen lĩnh của một thứ màu đen rất Việt Nam. Màu đen không pha bằng thuốc mà luyện bằng bột than của bột rơm nếp, than của cói chiếu, của lá tre mùa thu rụng, là những chất liệu gợi nhắc thiết tha đến đồng quê dất nước.. Cái màu tráng điệp lấy từ vỏ sò cũng là một sự sáng tạo góp vào kho tàng màu sắc của dân tộc trong hội hoạ. Điệp ngữ “tăng thên…tăng thêm…” trong những thành phần câu đẳng lập có tác dụng nhấn mạnh, nhiệt tình ca ngợi tác dụng của màu trắng điệp.

III.1. Kết luận:

Khác với những phân môn khác, phân môn tập đọc dùng phương tiện là các tác phẩm văn chương cụ thể là [là những bài văn, bài thơ] để giáo viên và học sinh cùng tìm hiểu. Thông qua việc học tập này các em sẽ làm quen tiếp xúc với các tác phẩm văn học và ngày càng cao hơn. Điều này tạo cơ sở để các em trau dồi năng lực cảm thụ văn học và cố gắng học giỏi môn tiếng việt.

Ơû mỗi bài văn, thơ đều mang giá trị biểu cảm khác nhau. Chính vì vậy việc tìm hiểu biện pháp tu từ trong mỗi bài tập đọc được sử dụng cũng ở mức độ khác nhau. Nên khi liệt kê các biện pháp  tu từ trong các bài tập đọc lớp 5 và rất thiết thực nhằm giúp học sinh hiểu rõ và hệ thống được một loạt các biện pháp tu từ được học và sử dụng.

Việc nghiên cứu các biện pháp tu từ không chỉ dành cho giáo viên mà học sinh cũng nắm rõ. Cụ thể là khi hướng dẫn học sinh tập đọc giáo viên phải kết hợp với việc hướng dẫn tìm hiểu bài để giúp học sinh nắm  bắt các giá trị nghệ thuật, những cảm xúc mà tác giả thể hiện bằng biện pháp tu từ.

Tóm lại, việc tìm vẻ đẹp của các biện pháp tu từ trong các bài tập đọc lớp 5 là yếu tố cốt lõi để học sinh cảm thụ hiểu sâu sắc hơn về các tác phẩm thơ, văn để giúp các em có cơ sở để tiếp tục học lên các bậc học tiếp theo.

Bấm vào đây để tải về

Video liên quan

Chủ Đề