Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được không vì sao

Từ “kinh tế” trong bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” là cách nói tắt của kinh bang tế thế, có ý nghĩa là trị nước cứu đời.
    Ngày nay, chúng ta không còn dùng từ “kinh tế” theo nghĩa như vậy nữa mà dùng theo nghĩa:  toàn bộ hoạt động của con người trong lao động sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng của cải, vật chất làm ra.
* Nhận xét: Nghĩa của từ không bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian. Có những nghĩa cũ bị mất đi và những nghĩa mới được hình thành.

Câu 2 trang 55, 56 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc kĩ các câu sau (trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du), chú ý những từ in đậm:

a) – Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.      Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

-     Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

b) – Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.

– Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người.

   Tra từ điển tiếng Việt (chẳng hạn Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, 2002) để biết nghĩa của từ xuân, từ tay trong các câu trên và cho biết nghĩa nào là nghĩa gốc, nghĩa nào là nghĩa chuyển. Trong trường hợp có nghĩa chuyển thì nghĩa chuyển đó được hình thành theo phương thức chuyển nghĩa nào?
 

Trả lời:

a. xuân1: mùa mở đầu một năm, chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên. (nghĩa gốc)    xuân2: tuổi trẻ (nghĩa chuyển) – chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ b. tay1: một bộ phận của cơ thể người dùng để cầm, nắm (nghĩa gốc) 

     tay2: người giỏi một lĩnh vực nào đó (nghĩa chuyển) – chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ (lấy bộ phận để chỉ toàn thể)

Ghi nhớ:

- Cùng với sự phát triển của xã hội, từ vựng của ngôn ngữ cũng không ngừng phát triển. Một trong những cách phát triển từ vựng tiếng Việt là phát triển nghĩa của từ ngữ trên cơ sở nghĩa gốc của chúng.

- Có hai phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ: phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ.

 

II. Luyện tập:
Câu 1 trang 56 SGK Ngữ văn 9 tập 1:  Từ chân trong các câu sau là từ nhiều nghĩa. Hãy xác định:

- Ở câu nào, từ chân dùng với nghĩa gốc.
- Ở câu nào, từ chân được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ.
- Ở câu nào, từ chân được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức hoán dụ.

a.      Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
                                        (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b. Năm em học sinh lớp 9A có chân trong đội tuyển của trường đi dự "Hội khoẻ Phù Đổng".

c.     Dù ai nói nga nói nghiêng,
Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân.                                               (Ca dao)d.      Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.


                                         (Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Trả lời:

a. Từ chân dùng với nghĩa gốc.
b. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức hoán dụ.
c. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức ẩn dụ.
d. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức ẩn dụ.

 

Câu 2 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Từ điển tiếng Việt (Sđd) định nghĩa từ trà như sau:

Trà: búp hoặc lá cây chè đã sao, đã chế biến, để pha nước uống. Pha trà. Ấm trà ngon. Hết tuần trà.

     Dựa vào định nghĩa trên, hãy nêu nhận xét về nghĩa của từ trà trong những cách dùng như: trà a-ti-sô, trà hà thủ ô, trà sâm, trà linh chi, trà tâm sen, trà khổ qua (mướp đắng).
 

Trả lời:
Từ trà trong các cách dùng như trà a-ti-sô, trà hà thủ ô... được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ (sản phẩm từ thực vật, được chế biến thành dạng khô, dùng để pha uống)

 

Câu 3 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Từ điển tiếng Việt (Sđd) nêu nghĩa gốc của từ đồng hồ như sau:

   Đồng hồ: dụng cụ đo giờ phút một cách chính xác. Đồng hồ đeo tay. Đồng hồ báo thức.

   Dựa vào những cách dùng như:  đồng hồ điện, đồng hồ nước, đồng hồ xăng,… hãy nêu nghĩa chuyển của từ đồng hồ.
Trả lời:

Từ đồng hồ trong các cách dùng như đồng hồ điện, đồng hồ nước.... được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ (chỉ những khí cụ dùng để đo có bề ngoài giống đồng hồ)

 

Câu 4 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1:  Hãy tìm ví dụ để chứng minh rằng các từ hội chứng, ngân hàng, sốt, vua là những từ nhiều nghĩa
Trả lời:a. Lạm phát, thất nghiệp là hội chứng của tình trạng suy thoái kinh tế.b. ngân hàng máu, ngân hàng đề thi, ngân hàng gen...c. sốt đất, cơn sốt hàng điện tử...

d. vua bóng đá, vua nhạc rốc...

 

Câu 5 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc hai câu thơ sau:

 Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

                                      (Viễn Phương, Viếng lăng Bác)

    Từ mặt trời trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép tu từ vựng nào? Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được không? Vì sao?
 

Trả lời:
Trong hai câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng – Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, từ “mặt trời” trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép ẩn dụ tu từ. Tác giả gọi Bác Hồ là “mặt trời” dựa trên mối quan hệ tương đồng giữa hai đối tượng được hình thành theo cảm nhận của nhà thơ. Đây không phải là hiện tượng phát triển nghĩa của từ, bởi vì sự chuyển nghĩa của từ “mặt trời” chỉ có tính chất lâm thời, nó không làm cho từ có thêm nghĩa mới và không thể đưa vào để giải thích trong từ điển.

Từ “kinh tế” trong bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” là cách nói tắt của kinh bang tế thế, có ý nghĩa là trị nước cứu đời.
    Ngày nay, chúng ta không còn dùng từ “kinh tế” theo nghĩa như vậy nữa mà dùng theo nghĩa:  toàn bộ hoạt động của con người trong lao động sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng của cải, vật chất làm ra.
* Nhận xét: Nghĩa của từ không bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian. Có những nghĩa cũ bị mất đi và những nghĩa mới được hình thành.

Câu 2 trang 55, 56 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc kĩ các câu sau (trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du), chú ý những từ in đậm:

a) – Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.      Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

-     Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

b) – Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.

– Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người.

   Tra từ điển tiếng Việt (chẳng hạn Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, 2002) để biết nghĩa của từ xuân, từ tay trong các câu trên và cho biết nghĩa nào là nghĩa gốc, nghĩa nào là nghĩa chuyển. Trong trường hợp có nghĩa chuyển thì nghĩa chuyển đó được hình thành theo phương thức chuyển nghĩa nào?
 

Trả lời:

a. xuân1: mùa mở đầu một năm, chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên. (nghĩa gốc)    xuân2: tuổi trẻ (nghĩa chuyển) – chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ b. tay1: một bộ phận của cơ thể người dùng để cầm, nắm (nghĩa gốc) 

     tay2: người giỏi một lĩnh vực nào đó (nghĩa chuyển) – chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ (lấy bộ phận để chỉ toàn thể)

Ghi nhớ:

- Cùng với sự phát triển của xã hội, từ vựng của ngôn ngữ cũng không ngừng phát triển. Một trong những cách phát triển từ vựng tiếng Việt là phát triển nghĩa của từ ngữ trên cơ sở nghĩa gốc của chúng.

- Có hai phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ: phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ.

 

II. Luyện tập:
Câu 1 trang 56 SGK Ngữ văn 9 tập 1:  Từ chân trong các câu sau là từ nhiều nghĩa. Hãy xác định:

- Ở câu nào, từ chân dùng với nghĩa gốc.
- Ở câu nào, từ chân được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ.
- Ở câu nào, từ chân được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức hoán dụ.

a.      Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
                                        (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b. Năm em học sinh lớp 9A có chân trong đội tuyển của trường đi dự "Hội khoẻ Phù Đổng".

c.     Dù ai nói nga nói nghiêng,
Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân.                                               (Ca dao)d.      Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.


                                         (Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Trả lời:

a. Từ chân dùng với nghĩa gốc.
b. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức hoán dụ.
c. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức ẩn dụ.
d. Từ chân dùng với nghĩa chuyển – phương thức ẩn dụ.

 

Câu 2 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Từ điển tiếng Việt (Sđd) định nghĩa từ trà như sau:

Trà: búp hoặc lá cây chè đã sao, đã chế biến, để pha nước uống. Pha trà. Ấm trà ngon. Hết tuần trà.

     Dựa vào định nghĩa trên, hãy nêu nhận xét về nghĩa của từ trà trong những cách dùng như: trà a-ti-sô, trà hà thủ ô, trà sâm, trà linh chi, trà tâm sen, trà khổ qua (mướp đắng).
 

Trả lời:
Từ trà trong các cách dùng như trà a-ti-sô, trà hà thủ ô... được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ (sản phẩm từ thực vật, được chế biến thành dạng khô, dùng để pha uống)

 

Câu 3 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Từ điển tiếng Việt (Sđd) nêu nghĩa gốc của từ đồng hồ như sau:

   Đồng hồ: dụng cụ đo giờ phút một cách chính xác. Đồng hồ đeo tay. Đồng hồ báo thức.

   Dựa vào những cách dùng như:  đồng hồ điện, đồng hồ nước, đồng hồ xăng,… hãy nêu nghĩa chuyển của từ đồng hồ.
Trả lời:

Từ đồng hồ trong các cách dùng như đồng hồ điện, đồng hồ nước.... được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ (chỉ những khí cụ dùng để đo có bề ngoài giống đồng hồ)

 

Câu 4 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1:  Hãy tìm ví dụ để chứng minh rằng các từ hội chứng, ngân hàng, sốt, vua là những từ nhiều nghĩa
Trả lời:a. Lạm phát, thất nghiệp là hội chứng của tình trạng suy thoái kinh tế.b. ngân hàng máu, ngân hàng đề thi, ngân hàng gen...c. sốt đất, cơn sốt hàng điện tử...

d. vua bóng đá, vua nhạc rốc...

 

Câu 5 trang 57 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc hai câu thơ sau:

 Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

                                      (Viễn Phương, Viếng lăng Bác)

    Từ mặt trời trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép tu từ vựng nào? Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được không? Vì sao?
 

Trả lời:
Trong hai câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng – Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, từ “mặt trời” trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép ẩn dụ tu từ. Tác giả gọi Bác Hồ là “mặt trời” dựa trên mối quan hệ tương đồng giữa hai đối tượng được hình thành theo cảm nhận của nhà thơ. Đây không phải là hiện tượng phát triển nghĩa của từ, bởi vì sự chuyển nghĩa của từ “mặt trời” chỉ có tính chất lâm thời, nó không làm cho từ có thêm nghĩa mới và không thể đưa vào để giải thích trong từ điển.