Thế nào là độ chua của đất
Tin tức Tin tức nổi bật - Tin HOT Sự kiện ngành Khuyến nông Ý kiến khách hàng Hỏi - Đáp nông nghiệp Hội thảo - Hội chợ Báo chí - VIDEO CLIP Tin tức Khuyến nông Đánh giá và phân tích các chỉ tiêu môi trường đấtKhuyến nông Đánh giá và phân tích các chỉ tiêu môi trường đấtPhân tích đất là một công cụ cơ bản cho phép ta xác định khả năng cung cấp chất dinh dưỡng của đất cho các cây trồng. Thông qua phân tích đất ta có thể biết được cây trồng bị thiếu hụt dinh dưỡng hay bị gây độc bởi nồng độ chất dinh dưỡng quá cao. Có thể nói phân tích đất là cơ sở cho việc bón phân hợp lý cải thiện điều kiện dinh dưỡng tối ưu cho cây trồng sinh trưỡng và phát triển, đạt năng suất cao và phẩm chất tốt. Phân tích đất có nhiều phương pháp khác nhau, tuỳ theo từng phương pháp mà có những đánh giá cụ thể. Show Đánh giá phân tích mùn: Mùn hay chất hữu cơ trong đất là chỉ tiêu quan trọng của độ phì nhiêu đất, nó có tính chất quyết định đối với các tính chất vật lý, hóa học cũng như sinh học dât. Phân tích mùn thường sử dụng phương pháp Tiurin hoặc phương pháp Walkley-Black. Hiện nay phương pháp sau đang được dùng phổ biến. Việt Nam nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nên lượng nhiệt cao, độ ẩm tương đối lớn quá trình khoáng hóa mùn mạnh do vậy nhìn chung hàm lượng mùn trong đất nghèo, đặc biệt là đối với đất canh tác lâu năm mà không sử dụng phân hữu cơ, lấy đi phụ phẩm cây trồng mà không trả lại cho đồng ruộng. Trong hội thảo Quan điểm quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho cây trồng ở Miền Bắc Việt Nam, HN 26-27/5/98 GS Lê Văn Tiềm đã đưa ra thang đánh giá hàm lượng mùn trong đất Việt Nam như sau:
Hàm lượng mùn trong một số loại đất của Việt Nam (Nguyễn Khang, 1998) biến động như sau: Đất cát biển: 0,5-0,9% CHC Đất mặn: 2,1-4% CHC Đất phèn: 3-5% CHC Đất bạc màu: <1% CHC Đất phù sa: 1,8-2,5% CHC Đất đỏ vàng: 3-4% CHC Đất mùn trên núi: 4-7,5% CHC Ở đất đồng bằng một số tác giả phân theo 3 cấp như sau:
Đánh giá phân tích Nitơ Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất đối với cây trồng. Trong đất phần lớn Nitơ (>95%) ở dạng hữu cơ chứa trong mùn là dạng khó tiêu đối với thực vật, chỉ có một phần nhỏ là ở dạng dễ tiêu bao gồm NH4+, NO3, một số axit amin mà cây có thể hút thu trực tiếp. Nhìn chung hàm lượng nitơ trong đất có một mối tương quan chặt với hàm lượng mùn. Dưới đây là một số đánh giá về các dạng nitơ của các tác giả khác nhau: Nitơ tổng số:
Nitơ dễ tiêu: Nitơ dễ tiêu bao gồm Nitơ ở dạng khoáng (NH4+, NO3, NO2) và một số N-hữu cơ dễ bị phân hủy mà cây trồng có thể hút thu được. Trong đất tuỳ theo điều kiện mà N khoáng dạng NH4+hay NO3chiếm ưu thế. Giữa các dạng N khoáng luôn luôn có sự chuyển hóa và thường xuyên được bổ sung do quá trình khoáng hóa chất hữu cơ nên trên thực tế phân tích NH4+và NO3không phản ánh đầy đủ khả năng cung cấp nitơ dễ tiêu của đất. Nitơ dễ tiêu của đất thường được đánh giá qua Nitơ thuỷ phân. Tiurin và Cononova cho rằng nitơ thuỷ phân là những dạng nitơ được tách ra khỏi đất bằng H2SO40,5N (bao gồm NH4+, NO3, NO2và N-hữu cơ dễ phân huỷ) còn Cornfild cho đó là dạng nitơ bị tách bởi NaOH 1N (bao gồm N ở dạng NH4+và một phần N hữu cơ dễ phân giải). Theo Tiurin và Cononova đánh giá N thuỷ phân như sau:
Đánh giá phân tích lân Lân tổng số:
Ở Nam Bộ Coyaud cho rằng:
Theo Lê Văn Căn, 1968 lại phân ra như sau:
Lân dễ tiêu: Nói đến lân dễ tiêu cho cây trồng chúng ta hiểu rằng bao gồm tất cả những dạng lân mà cây trồng có thể hút thu được, chúng bao gồm các hiđrôphotphat, đihiđrôphotphat của Ca, Mg, NH4, một phần Ca3(PO4)2 Phân tích lân dễ tiêu có nhiều phương pháp khác nhau với các chất chiết rút khác nhau phù hợp với từng loại đất nhất định. Có thể chia ra làm 4 nhóm các chất chiết rút như sau:
Kiecxanop: HCl 0,2 N Oniani: H2SO40,1 N
Triricop: CH3COOH 0,5 N Egner Riehm: Lactat Ca + HCl loãng pH = 3,6 Morgan: CH3COONa + CH3COOH pH = 4,8 Mehlich: H2SO40,025 N + HCl 0,05 N Truog: H2SO40,002 N, pH = 3
Bray Kurt (hay Bray 1): NH4F 0,03 N + HCl 0,025N Bray 2: NH4F 0,03 N + HCl 0,1 N Xôcôlốp: NH4F 0,1 N Arrhenius: axit Limonic 1% Phương pháp EDTA: Na2-EDTA 0,02 N
Machigin: (NH4)2CO31%, pH = 9 Olsen: NaHCO30,5 N, pH = 8,5 Hiện nay các phong thí nghiêm ở Việt Nam và trên thế giới thường sử dụng 3 phương pháp Oniani, Olsen và Bray Đánh giá lân dễ tiêu theo Oniani (1964):
Còn theo Olsen thì:
Đánh giá phân tích Kali Sau đạm, lân thì kali là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng thứ 3 đối với cây trồng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy kali tập trung chủ yếu vào các hạt limon mịn và vừa nếu còn chứa khoáng nguyên sinh. Như vậy hàm lượng kali trong đất phụ thuộc vào nguồn đá mẹ, mức độ phong hoá và quá trình hình thành đất. Lượng kali dễ tiêu trong đất đỏ bazan thấp hơn so với đất phát triển trên Pocfirit (Fridland 1973). Nguyễn Vy, Trần Khải (1978) cho rằng kali tập trung trong những cấp hạt có độ phân tán cao. Khi đánh giá hàm lượng kali trong đất ta phải chú ý tới hàm lượng sét và các thành phần khoáng. Kết quả phân tích đất đỏ bazan ở Tây Hiếu cho thấy đất giàu sét (38, 5%) nhưng kali tổng số trong đất và trong sét lại thấp (0,31%). Trong khi đó đất Acrisols phát triển trên đá Granit ở Quảng Bình cấp hạt sét chỉ chiếm 21,3% mà kali tổng số lại đến 1,82%, điều này giải thích là vì đá magma axit chứa nhiều K hơn đá kiềm. Cũng có trường hợp K trong sét cao nhưng kali tổng số lại thấp như đất bạc màu, đất cát biển vì những đất này hàm lượng sét nghèo. Kali tổng số: Kali dễ tiêu : Có thể đánh giá Kali dễ tiêu qua thang phân cấp sau:
Đánh giá phân tích CEC CEC là chỉ tiêu quan trọng của độ phì nhiêu đất, nó phản ánh khả năng giữ chất dinh dưỡng của đất. CEC phụ thuộc vào 2 chỉ tiêu đó là hàm lượng và bản chất mùn, cấp hạt sét. Đánh giá dung tích hấp thu của đất như sau:
Đánh giá phân tích độ chua đất Độ chua là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đồ phì nhiêu đất, nó ảnh hưởng lên các quá trình lí hóa, sinh học trong đất và có tác động đến cây trồng. Đa số các cây trồng đều thích phản ứng đất ở trung tính đến ít chua (pH = 6-7) chỉ trừ một số loại cây trồng có thể chịu được đất chua như chè (pH từ 4,5-5,5), khoai tây (pH từ 4,8-5,4). Độ chua đất là do sự có mặt của các ion H+, Al3+trong dung dịch đất cũng như trong các phức hệ hấp phụ của đất có khả năng trao đổi gây nên. Đô chua được chia làm 2 loại:
Độ chua trao đổi (pHKCl) được chia ra để đánh giá như sau:
Canxi trao đổi Canxi trao đổi là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ phì nhiêu đất nhưng thường ít được chú ý. Trên đất dốc do quá trình xói mòn rửa trôi phát triển, nên hàm lượng của chúng thấp. Về thang phân cấp Ca trao đổi nhìn chung có ít công trình nghiên cứu đề cập đến. Căn cứ vào ranh giới giữa đất hoang hoá và đất có thể canh tác được cho thấy hàm lượng Ca trao đổi dưới 2 meq/100 g đất là rất nghèo, Mức 4-8 meq là trung bình và trên 8 meq/100 g đất được coi là khá. Theo J.R. Landon thì dưới 4 meq là nghèo và trên 10 meq/100 g đất là giàu. Lê Văn Tiềm (2003) đưa ra phân cấp đánh giá Ca trao đổi trong đất Việt Nam như sau:
(Nguồn: Internet) |