Thương xót có nghĩa là gì

Năm thánh Lòng thương xót 2015-2016 với chủ đề Misericordes sicut Pater, đã khai mạc từ 08.12.2015 và kéo dài tới ngày 20.11.2016 trong toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Lòng thương xót, thương hại, nhân từ hay lòng tốt, lòng nhân hậu nghe qua có vẻ như không còn hợp thời nữa. Nhưng nơi những từ ngữ đó vẫn ẩn chứa sự khôn ngoan.

Vậy những từ ngữ đó có nguồn gốc từ đâu?

Tiếng Latinh Lòng thương xót: misericordia : miser “ nghèo” và cor “ trái tim, tấm lòng”. Như thế mang ý nghĩa có “ trái tim hay tấm lòng với người nghèo khổ”.

Trong phần đầu của Kinh Thánh Lòng thương xót là đặc tính nổi bật của Thiên Chúa, ngài ban tặng sự vỗ về săn sóc không có điều kiện.

Trong tiếng Do Thái có nhiều từ ngữ diễn tả Lòng thương thương xót: Từ ngữ rachamin [ thương xót] diễn tả sự cảm động rung động của trái tim tâm hồn. Từ ngữ này có nguồn rễ từ chữ rechem mang ý nghĩa cung lòng người mẹ.

Và như thế cũng mang ý nghĩa nằm sâu trong cơ thể, như trong Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước nói là nơi chốn của tình cảm rung động.

Còn có chữ chessed [ lòng tốt, lòng nhân hậu]. Chữ này diễn tả sự tốt lành với ý hướng sự nghiêng chiều, sự thông cảm đối với người khác. Chessed vượt lên trên tình cảm rung động và nói lên sự trung thành.

Chữ khác chanan [ ân huệ], như Thánh Gioan diễn tả: Thiên Chúa là Đấng nhân từ ân huệ.

Trong Kinh Thánh Tân ước chữ Lòng thương xót theo ngôn ngữ Hylạp là eleos mang ý nghĩa tương tự như lời kinh kêu cầu: Kyrie eleison.

Từ ngữ Eleos chứa đựng vừa ý nghĩa sự cảm động của rachamin, vừa ý nghĩa tình liên đới của chessed .

Chúa Giêsu nói đến sự cùng cảm thông với, tiếng Hylạp: splanchnizomai. Vừa có ý nghĩa cung lòng người mẹ, vừa mang ý nghĩa nằm sâu trong cơ thể. Chúa Giêsu qua đó muốn nói đến sự thống khổ của con người và nhu cầu từ bụng đi ra.

Chữ oiktirmon có ý nghĩa lòng thương cảm của người mẹ, trong phúc âm Thánh Luca [6,36] nói Thiên Chúa là “người cha giầu lòng thương xót”. Như thế, Thiên Chúa được trình bày theo ý nghĩa nguyên thủy của chữ này, như người cha và như người mẹ.

Lòng thương xót và sự công bằng là những khía cạnh căn bản của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, nhất là nơi các Thánh vịnh và nơi các Ngôn sứ. Chúa Giêsu cũng tự nhận mình nơi khía cạnh này: Ngài giận dữ về sự cứng lòng của họ. [ Mc 3,5], nhưng ngài đầy lòng thương cảm với dân chúng [ Mc 6,34]. Không có sự khác biệt về hình ảnh Thiên Chúa nơi Kinh Thánh Cựu ước và Kinh Thánh Tân ước.

Nhiều nơi trong Kinh thánh Tân ước nói về lòng thương xót đã lấy hình ảnh từ Kinh thánh Cựu ước. Câu nói thời danh của Chúa Giêsu: “lòng thương xót ta muốn, chứ không phải lễ vật dâng cúng.” [ Mt 9,13] trích từ sách Ngôn sứ Hosea 6,6.

Chúa Giêsu kêu gọi “ hãy thương xót như Cha anh em giầu lòng thương xót” [ Lc 6,36] cũng đã được nói trong kinh thánh Cựu ước nơi sách Levi “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” [ Levi 19,2].

Câu Kinh Thánh chủ yếu, như chìa khóa nói về lòng thương xót : “ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.” [ Xh 34,6]. vừa nói lên đặc tính của Thiên Chúa, vừa được xem như công thức về ân huệ.

Ngôn sứ Giona dù trong giận dữ hoang mang cũng bày tỏ tâm tư: “con biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương.” [ Giona 4, 2]

Với Do Thái giáo câu Kinh Thánh diễn tả đặc tính lòng thương xót và sự công bình của Thiên Chúa quan trọng trong lễ nghi phụng vụ và trong thần học: “ ̉6. ĐỨC CHÚA! ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín,7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.” [ Xh 34,6-7]. Nhất là câu 6. luôn được đọc lên trong phụng vụ ở những ngày lễ trọng trong đạo Do Thái, mỗi khi sách Kinh Thánh lề luật được cuộn mở ra.

Đức Giáo Hoàng Beneditô XVI. có suy tư: “Lòng Chúa thương xót không chỉ là trong sự tha thứ những tội lỗi chúng ta, nhưng còn diễn tả Thiên Chúa là người cha của chúng ta . Ngài không muốn chúng ta đi lạc lối xa đường [ Mt 18,14, Ga 3,16], nên nhiều khi về phía con người chúng ta phải chịu đựng sự đau đớn, sự buồn sầu lo âu hay cả sợ hãi được ngài hướng dẫn trở về con đường chân thật và con đường ánh sáng.

Hai khía cạnh này diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài trung thành thế nào với mỗi người tín hữu Chúa Kitô đã được liên kết trong giao ước qua bí tích rửa tội.” [ Giáo hoàng Benedictô XVI, ngày 18.11.2011].

“Trong Thánh Kinh, lòng thương xót là từ then chốt để nói về hành động của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài không chỉ khẳng định, nhưng còn làm cho tình yêu của Ngài trở nên hữu hình và có thể chạm đến được. Quả thực, tình yêu không bao giờ là một từ ngữ trừu tượng. Tự bản chất, tình yêu nói lên điều gì đó cụ thể: ý hướng, thái độ và cách hành xử được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Lòng thương xót của Thiên Chúa là trách nhiệm của Ngài đối với chúng ta. Ngài cảm thấy bị ràng buộc với chúng ta, nghĩa là Ngài muốn điều tốt cho chúng ta, muốn thấy chúng ta hạnh phúc, vui tươi và an bình. “ [ Giáo hoàng Phanxico, Misericordiae vultus số 9.].

Chúa Nhật lòng Chúa thương xót 2016.

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Ngôn Ngữ "Chúa Thương Xót" Thực Ra Ý nghĩa gì?


Bài viết dưới đây được trích trong tập sách "Chúa Thương Xót: Cẩm Nang hướng dẫn kể từ Lúc Khởi Nguyên cho tới Đức Bênêđíctô Thứ XVI  [Divine Mercy: A Guide from Genesis to Benedict XVI]", nguyên tác của Tiến sĩ Robert Stackpole, STD, Nhà Xuất Bản "Marian Press" phát hành.Trước khi bước vào câu chuyện Thiên Chúa tỏ tình thương xót đối với nhân loại, chúng ta cần phải hiểu biết đôi chút về ngôn ngữ "Chúa Thương Xót/ Chúa tình thương [Divine Mercy] quả thực có ý nghĩa gì.  Câu nói này cho thấy một khó khăn về ngữ học. Xét ra, ngôn ngữ "thương xót [mercy]" sử dụng trong Anh Ngữ hiện thời có một ý nghĩa rất giới hạn.  Thực ra nó được dùng để nói đến cử chỉ xá lỗi, chẳng hạn như "xin quan tòa tha cho tôi; xin  thương xót tôi!" hoặc, "Hắn trông cậy vào lòng thương xót của tòa án."  Tuy nhiên, trong thần học Công Giáo chân truyền, thương xót không chỉ có ý nghĩa là hủy bỏ án phạt, mà còn nhiều hơn thế nữa.

Chúa Thương Xót có nghĩa là Thiên Chúa hạ cố xuống để [thỏa mãn] những nhu cầu và loại bỏ những đau khổ của các thụ tạo của Ngài. Thánh Kinh, những huấn dạy của Thánh Thômas Aquinô, và của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II đều quả quyết với chúng ta điều này.

Cựu Ước cho chúng ta khá nhiều hình ảnh đau khổ của con người và Thiên Chúa vì xót thương nên luôn tìm cách giảm nhẹ nỗi đau khổ đó.  Chẳng hạn một trong những hình ảnh đau xót là hoàn cảnh khốn khổ của một phụ nữ đơn chiếc đang đau đớn vì cảnh đơn chiếc không chồng, không con – hoàn toàn bị bỏ rơi trên thế gian.  Đây cũng là hoàn cảnh tinh thần của hết thảy chúng ta khi thiếu vắng Thiên Chúa. Các ngôn sứ trong Cựu Ước lấy việc đó để cho thấy rằng dân Israel bị đẩy vào tình trạng vô cùng khốn quẫn vì tội lỗi và sự bất trung của họ đối với Thiên Chúa. Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đây. 

Yawêh Thiên Chúa động lòng trắc ẩn xót thương người thiếu phụ nên đã kết ước với bà và ban cho bà nhiều con cái. Ngài hạ cố đến với người thiếu phụ đang đau khổ và nâng bà trỗi dậy. Nơi xưa kia chỉ có tuyệt vọng, đơn chiếc, và tâm hồn tan nát thì nay là hoan hỷ, con cái đầy đàn và tình yêu chung thủy.

Có thể tìm thấy trong Cựu Ước một tỉ dụ đầy cảm hứng về mối tình chung thủy thần thiêng xoa dịu người đang đau khổ trong bút ký của vị ngôn sứ được biết với danh hiệu là [Tiểu] Nhị Isaiah.  Ông khích lệ dân Do Thái đang bị lưu đày ở Babylon đừng mất hy vọng vào Thiên Chúa và Ngài sẽ động lòng thương sẽ giải cứu họ:

"Hỡi người hiếm muộn son sẻ, không sinh con, hãy hát mừng cất cao tiếng nói; hỡi người bị đau đớn chuyển dạ sinh con! Thiên Chúa phán: vì người phụ nữ bị bỏ rơi sẽ có đông con hơn người phụ nữ có chồng. Hãy nới rộng lều ở của ngươi, và kéo những liều bạt cho căng ra; đừng ghìm giữ lại, nối giây thừng cho dài thêm và đóng liều cọc của ngươi cho chắc.  Vì tả hữu ngươi sẽ tràn lan ra ngoài, và dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu các nước và sẽ an cư trong các thành hoang phế.

"Ðừng sợ, đừng hổ thẹn, vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, vì ngươi sẽ không bị làm cho tủi nhục; vì ngươi sẽ quên hết nỗi hổ nhục thời xuân trẻ, và ngươi không còn nhớ đến bao điều sỉ nhục thời goá bụa nữa.  Vì Đấng Tác Thành ngươi là chồng của ngươi, danh Người là Thiên Chúa các đạo binh; và Đấng Thánh của Israel là Đấng Cứu Chuộc ngươi, Người được gọi là Đức Chúa trời đất.    Thiên Chúa kêu gọi ngươi như gọi người vợ bị ruồng rẫy hồi xuân trẻ, như gọi người vợ bị bỏ rơi và tinh thần đang đau buồn, Thiên Chúa ngươi phán. Ta ruồng bỏ ngươi trong chốc lát, nhưng vì hết sức thương ngươi ta sẽ gom góp các ngươi lại.  Đấng Cứu Chuộc ngươi, Thiên Chúa phán, trong lúc bừng bừng phẫn nộ ta lánh mặt ngươi trong chốc lát, nhưng vì tình nghĩa đời đời Ta động lòng xót thương ngươi."Vì đối với Ta cũng giống như những ngày của thời Nôah: Khi Ta thề với Nôah rằng nước sẽ không còn ngập lụt trên mặt đất nữa, nay Ta cũng thề như vậy, Ta sẽ không còn nổi giận với ngươi và sẽ không wuở trách ngươi nữa.  Vì Đấng động lòng thương xót ngươi, Thiên Chúa phán, cho dầu núi có chuyển và đồi có bị dời đi, nhưng tình nghĩa chung thủy của Ta đối với ngươi sẽ không lay chuyển, và giao ước bình an của ta sẽ chẳng chuyển lay. [Isaiah 54:1-10]

Trong Sách Cựu Ước, tiếng Do Thái có hai từ chính mà chúng ta thường dịch ra là thương xót.  Trước hết, đó là từ ngữ "hesed", dịch nghĩa là "tình yêu chung thủy, giao ước tình yêu." Người nào có biểu tượng hesed là người luôn luôn có thể trông cậy được, người không bao giờ bỏ rơi bạn.  Theo học giả Thánh Kinh Công Giáo John L. Mckenzie, thì chữ hesed dùng trong tiếng Do Thái thường đi đôi với một chữ khác để thêm rõ nghĩa, chẳng hạn như hesed-emet [bền vững - tình yêu đáng tin cậy, hesed-sedekah [công chính- tình yêu thánh thiêng, và hesed-yesua [cứu vớt – tình thương cứu độ]. Trong phần chú giải của tông thư Dives in Misericordia [Giàu Tình Thương Xót], Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II dạy rằng chữ hesed hàm chứa ý nghĩa là trung tín với bản thân, trung tín với lời hứa và những cam kết của mình đối  với tha nhân [thế nên, cuốn sách Thánh Kinh thịnh hành của Giáo sư Scott Hahn có nhan đề "Người Cha Giữ vững Lời Hứa của mình - The Father Who Keeps His Promises”.  Đức Thánh Cha viết:

Trong Sách Cựu Ước chữ hesed khi được dùng để chỉ Thiên Chúa, thì chữ này luôn liên kết vi giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Israel.  Giao ước này là, thuộc một trong những phần tặng sủng và ơn huệ của Thiên Chúa ban cho dân Israel... Thiên Chúa đã thiết lập cùng với sự tôn trọng cam kết đó... Giao ước này về phần Thiên Chúa từng là một tặng sủng và là một ân huệ cho Israel.... Thiên Chúa đã đưa ra một cam kết để tôn trọng cam kết ấy…  [ chữ hesed thiêng liêng này] tự phô bày cho thấy những gì đã từ khởi nguyên, nghĩa là, tình thương ban phát, tình thương mạnh hơn phản bội, ân sủng mạnh hơn tội lỗi [số 52].
 
Như chúng ta đã thấy trong tỉ dụ mở đầu, toàn bộ kinh nghiệm của dân Israel đối với Thiên Chúa cũng là hậu quả hesed-yêu thương của Ngài [Isaiah 54:10]: “Đấng động lòng thương xót ngươi,  Thiên Chúa phán, ví dầu núi có chuyển và đồi có lay đi nữa, nhưng tình nghĩa chung thủy [hesed] của Ta đối với ngươi sẽ không lay chuyển, và giao ước bình an của ta sẽ chẳng chuyển lay.”  Theo John L. Mckenzie đã chép: "toàn bộ lịch sử về cách đối xử của Yahweh với dân Israel có thể được tóm gọn trong từ hesed; đó là động lực chủ yếu thể hiện trong những việc Ngài làm, và là động cơ có tính thống nhất và có thể hiểu được trong những việc Ngài làm đối với mọi người." [Tự điển Thánh Kinh]***

Tngữ thông dụng thứ hai để chỉ về tình thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước theo ngôn ngữ Do Thái là rachamim: có nghĩa là trìu mến, động lòng thương xót, một thứ tình trắc ẩn xúc động đến độ tuôn trào lòng thương xót. Những ai có rachamim có nghĩa là người ấy cùng đồng cảm thương với hoàn cảnh của bạn và động lòng thương xót đến giúp đỡ bạn.  Rachamin thường cặp đôi với hesed. Bắt nguồn từ chữ rechem, có nghĩa là cung dạ mẹ. Vì thế, thứ tình yêu này có quan hệ mật thiết với nhau và sẵn sàng bổ túc lẫn nhau [thương thay chịu thay], và nhất là để ý quan tâm săn sóc lo lắng cho những đau khổ của tha nhân.  Đức Thánh Cha coi hesed như là, một cảm xúc, một thứ tình yêu nam giới [chung thủy, tin yêu, công chính, thành thực với chính mình và chân thành giữ lời thề với ai đó], trong khi Rachamin lại thuộc nữ giới [quan tâm, động lòng trắc ẩn, cảm thương, như người mẹ đang đau khổ xót thương đứa con một của bà].

Theo Tân Ước, thì chữ "thương xót" dịch ra Hylạp [Greek] là eleos. Cũng có thể phiên dịch ra là từ bi lân tuất hoặc quan tâm chăm sóc.  Chữ dầu [oil] có nguồn gốc Hy lạp nghĩa là đổ ra. Vì thế, khi Giáo Hội hát kinh xin Chúa thương xót [lúc đầu lễ] bằng tiếng Hy lạp Kyrie Eleison và Christie Eleison [xin Chúa thương xót chúng con] trong phụng vụ của mình, là Giáo Hội đang van xin tình thương xót của Thiên Chúa đổ xuống trên con cái giáo hội, tương tự như đổ dầu thánh trên đầu vậy.  Theo các Giáo Phụ của Giáo Hội thời xưa, thì Giáo Hội được sinh ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô, khi Thánh Tâm Ngài chảy máu và nước ra, là biểu hiệu của hết mọi ân sủng, là biểu hiệu của hai Bí tích cột trụ Rửa Tội và Thánh Thể [Gioan 19:34].  Tóm lại, eleos có nghĩa là Thiên Chúa tuôn đổ tình thương xuống trên dân Người. 

Theo truyền thống Latin, thì nguyên ngữ thương xót là misericordia, có nghĩa là, “tâm thần đau khổ [miserable heart]”.   Cha George Kosicki, CBS, thuyết pháp rất hay về Chúa Thương Xót, đã đúc kết nguyên ngữ Latin : misericordia  có nghĩa như sau “tâm thần bạn đang đau thương vì tha nhân, và bạn gánh lấy đau thương đó để mưu sự vì nỗi đau của họ.” [người dịch xin tóm gọn: thương thay, chịu thay, đền thay, mưu ích thay bù đắp thay.]

Quyền Giáo Huấn [Magisterium] để giải nghĩa về Chúa Tình Thương hầu hết được tìm thấy trong tông thư Dives in Misericordia [Giàu Tình Thương Xót, viết năm 1981] của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II.  Trong tông thư đó, Ðức Thánh Cha trình bày thành hai tông văn rất quan trọng về Chúa Tình Thương.  Bản thứ nhất ngài viết, “Thương Xót là danh hiệu thứ nhì của Chúa tình thương”. Bản thứ hai, ngài dạy rằng Chúa thương xót có nghĩa là “Thiên Chúa đại lượng”.

Chúng ta hãy xem xét lại những văn bản tông thư này.

Thương Xót là Danh Hiệu Thứ Nhì của Chúa Tình Thương

Đức Cố Giáo Hoàng không có nói điều gì mới mẻ trong thông điệp này. Theo thần học chân truyền Công Giáo, thương xót là một loại tình thương son sắt, là một sự biểu lộ tình thương chung thủy bền vững.

Thường thì tình thương được định nghĩa như là một sự chia sớt / bù đắp và cho đi/trao ban chính mình /thí mạng vì tha nhân, là người có lòng vị tha không ích kỷ chỉ muốn mưu ích cho kẻ khác.  Theo thần học gia Balan [Polish] Ignacy Rozycki giải thích:

Thần Học Tín Lý Chân Truyền Công Giáo minh giải nhân đức thương xót là khi người lân cận cảm thấy xót xa đau lòng đến độ động lòng trắc ẩn tuôn trào tình thương.  Sự đau xót đó tác động chúng ta sẵn lòng trợ giúp những ai đang lâm cảnh hoạn nạn khó khăn thiếu thốn và cùng khổ.  Theo thần học luân lý gọi "tình thương xót" này...là không những chỉ biết thương đến quên mình nhưng còn biểu lộ kết quả tình thương tiềm ẩn ấy thấu xuyên ra ngoài nữa [trích trong “Pillars of Fire in my Soul: the Spirituality of St. Faustina” [Hỏa trụ Hồn tôi: Linh đạo của Thánh Nữ Faustina], Marian Press xuất bản, 2003, trang 95].

Vậy,  đang lúc chơi đùa với trẻ nít, hoặc đang khi vui thú tình yêu phu phụ, hoặc hát lên bài ca chúc tụng Thiên Chúa nơi Bàn Tiệc Thánh, thì đa loại hành động "yêu thương" này được coi như bộc phát bình thường thế thôi, chứ chúng ta không thể nào gọi những loại "yêu thương"  này là hành vi "thương xót" được.  Mặt khác, khi đang cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho kẻ trần truồng rách rưới ăn mặc, và cho kẻ vô gia cư trú- hoặc thành tâm đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho kẻ đang bị tuyệt vọng và hư mất- mọi tác hành này đều là xót thương bác ái: xót  thương đến độ hạ mình xuống nâng đỡ người đang quằn quại đau khổ về cả thể lý lẫn tâm thần.  [xin đọc lại kinh thương xót người có 14 mối]

Thương Xót là Thiên Chúa Đại Lượng

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II đã viết trong thông điệp "Dives in Misericordia-Giàu Tình Thương Xót" rằng: Duy chỉ có Thánh Kinh, Truyền Thống, và toàn bộ đời sống đức tin của Dân Thiên Chúa mới hội đủ bằng chứng ... cho biết Thiên Chúa đại lượng xót thương và là Thiên Chúa thiện hảo"[số 13].  Đức cố Giáo Hoàng đã nhắc lại lời huấn dạy của Thánh Âugústine và Thánh Thômas Aquinnô.  Nhưng ai nấy trong chúng ta đều muốn biết sự thực sẽ thế nào.  Liệu có Thiên Chúa trọn hảo "đại lượng" hơn ai nào khác chăng? Theo truyền thống triết học của Kitô Giáo và của Công Đồng Vatican Đệ Nhất định nghĩa về Thiên Chúa rộng ban, là chỉ có một Thiên Chúa, duy nhất, linh thiêng [vô hình], tác hành Sống Động trọn hảo vô cùng.  Ngài không có "chi thể" như chi thể của các thụ tạo. Hơn nữa, mỗi sự thiện hảo của Ngài- chẳng hạn như Tình thương, sự trọn lành, quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài- chỉ là những danh hiệu khác thay cho chính danh Ngài.  Thần học gia Balan là Cha Ignacy Rozycki giải thích như thế này:

Theo nhận thức, mọi thuộc tính của Thiên Chúa đều là Chúa, duy nhất và như nhau. Vì vậy, mọi sự tuyệt đối khác đều bằng nhau. Chúa Thương Xót cũng giống như là Chúa trọn hảo [toàn thiện toàn mỹ toàn ái] Chúa quyền năng và Chúa Khôn Ngoan vậy, bởi lẽ cùng một Chúa và là Thiên Chúa, y hệt như Chúa Khôn Ngoan và Chúa Quyền năng đều là Thiên Chúa vậy [Hỏa Trụ “Pillars of Fire”, trang. 96].

Hay nói cách khác,Thiên Chúa không chỉ có thể hiện đôi điều thương xót, Người cũng không có tính "phe phái" khi thể hiện tình thương xót,  như nhân tính loài người ta. Trái lại, Người luôn hiển hiện ở khắp mọi nơi và thương xót khắp mọi giờ khắc. Hết thảy những gì Người làm đều tỏ lộ tình thương xót của Người, và mọi thuộc tính của Người cũng vậy.  Hết thảy đều là một-như nhau.  Mọi thuộc tính của Người đều vĩnh cửu! Nhưng mặt khác cha Rozycki viết tiếp:

Mặt khác, nếu, tình thương xót được hiểu theo nghĩa Thánh Kinh như là chức năng, thế thì, ngay cả khi điều đó được gọi là một thuộc tính, thì kết quả trên hết của thuộc tính đó đều có nghĩa là vô biên vô cùng và là tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa xuyên suốt lịch sử thế gian, và nhất là nơi lịch sử cứu độ của nhân loại.  Thực ra, cả hai hesed [tình thương xót trong Cựu Ước], cũng giống như eleos [tình thương xót trong Tân Ước] đều biểu lộ hành động yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại.  Cựu Ước biểu lộ Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi và hướng dẫn dân Người tuyển chọn, còn trong Tân Ước biểu lộ Người phái gởi Con Thiên Chúa xuống thế gian trong công việc cứu độ trọn vẹn.  Thánh Kinh trình thuật thật rõ ràng mối liên hệ giữa thương yêu và thương xót đã được thánh Faustina thổ lộ khi chép: 'thương yêu là hoa, thương xót là trái' [Nhật ký, số 948]

Như vậy, nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa thương xót trong Thánh Kinh, thì chúng ta không còn sợ lỗi nghịch với đức tin nữa, có thể nói  rằng thương xót là thuộc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa …[hay nói cách khác] sự thông hiểu Thánh Kinh này hàm chứa, những kết quả hoạt động từ bi bác ái xót thương và cao trọng nhất trên thế gian, tình thương xót trỗi vượt trên mọi thuộc tính Thần Thiêng khác [Hoả Trụ “Pillars of Fire”, trang 96].

Theo chú giải khác gần giống với lối giải thích này tương tự như sau: Chúa Thương Xót đã biểu lộ tột cùng mọi hoạt động của Thiên Chúa đối với nhân loại, và để trở nên cớ dẫn đàng chỉ lối, buộc chúng ta phải lưu ý đến tình thương xót tiềm ẩn đằng sau mọi hoạt động của Thiên Chúa nơi thế gian. 

Ðể rút ra từ ngữ thương xót dựa trên Thánh Kinh, và dựa theo những huấn giáo của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II, vì thế, chúng ta cố gắng phúc trình cách chính xác về “Chúa Thương Xót” mà chúng ta nói đó nghĩa là sao. 

Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan [4:8]. “Thiên Chúa là Tình Yêu”.  Người hằng hữu, vô biên vô tận, thí mạng vì yêu bằng chính nhân tính của Người, giữa Ba Ngôi Chí Thánh – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.  Vì thế, từ muôn đời, Người vẫn vô biên hằng có đời đời, Người hưởng niềm hoan lạc tình yêu hiến trao sung mãn, yêu nên nhận lãnh, và yêu nên trở lại.  Người đã hoan hưởng sự sung mãn yêu đương trọn hảo đó trước khi thế gian được tạo thành – và thậm chí nếu Người chưa hề tạo dựng nên bất cứ thế giới nào, thì Người vẫn hoan hưởng tình thương yêu trọn vẹn vĩnh phúc này, bởi lẽ “Thiên Chúa là tình yêu.”

Trong cõi đời đời, tình yêu hằng hữu mà Người hằng có, ở trong Chúa Ba Ngôi Chí Thánh hằng sống, thì Người không cần phải “thương xót,” khi không “muốn” hoặc “đau khổ” hoặc “hy sinh” để khắc phục nhu cầu Hữu Thể Vô Biên Trọn Hảo.  Thế thì Chúa Thương Xót có nghĩa là sao nữa?

Thánh Thômạs Aquinô giải nghĩa thương xót cách thông thường như “tâm hồn chúng ta thương đau chỉ vì thấy người lân cận đau khổ, một sự thương đau đến độ đánh động chúng ta làm bất điều gì để có thể để cứu giúp người ấy” [ST II-II.30.1]. Cho nên, Chúa Thương Xót, là Người gánh nguyên khuôn tình thương vĩnh hằng của Thiên Chúa khi hạ cố đến với chúng ta đáp ứng nhu cầu trọng yếu và  đổ vỡ của chúng ta.  Bất kể bản chất của chúng ta là gì hoặc đau khổ thế nào đi chăng nữa – như tội lỗi, sai quấy, chịu đau khổ, hoặc chết chóc đi nữa - Người luôn sẵn lòng tuôn đổ tình thương xót của Người, đến phù giúp chúng ta lúc cần kíp, chỉ vì động lòng thương chúng ta.

Thực ra, Thiên Chúa tình thương đối xử với các thụ tạo của Người thương xót luôn mãi. Như khi chúng ta đọc trong Thánh Vịnh [25:10] “mọi nẻo đường của Thiên Chúa đều là chân lý và thương xót,” và Thánh Vịnh [145:9], “Tình thương xót của Người vượt trên hết mọi công việc của Người.”  

 Vì thế, khi Người tạo dựng thế gian từ hư vô ex nihilo, và giữ gìn nó trong mọi gi khắc, thì đó là tác hành tình yêu thương xót: tình yêu thương của Người thắng vượt vô khả tính, thắng vượt mọi sự không thể hiện hữu.

Khi Chúa Con nhập thể và ngự giữa chúng ta, thì đó cũng là tác hành tình yêu thương xót:  tình yêu thương của Người bù đắp những mất mát thiệt hại của chúng ta, Người chỉ đường cho chúng ta đến với Chúa Cha, và Người kết thành của lễ tiến dâng hoàn hảo để đền vì tội lỗi chúng ta.

Khi Người đổ Thánh Thần vào tâm hồn chúng ta để đổi mới và thánh hóa chúng ta, thì đó cũng là tình tình yêu thương xót của Người: tình yêu thương của Người đổ vào tâm hồn chúng ta để làm động lực bật nút đức tin, đức cậy và đức mến tăng trưởng, và để chúng ta hoan hỷ phụng sự Người. Thánh Vịnh 136 ca vãn rất hay. Đang khi chúng ta mừng lễ mọi công việc sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa, thì thánh vịnh không ngớt tung hô: "vì tình thương xót của Người đời đời chẳng cùng""muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" [Robert Stackpole, Jesus, Mercy Incarnate, Marian Press, 2000, trang.112].

Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật Phục Sinh 27/4/2014.

 Sóng biển 


Video liên quan

Chủ Đề