Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 Học khi nào ở đâu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I được bầu ra tại Đại hội lần thứ I họp tại Ma Cao tháng 3 năm 1935. Trong suốt khóa (1935-1951), một số ủy viên Trung ương đã hy sinh và một số người mới được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương. Show
Mục lục
Các Hội nghị Trung ươngSửa đổi
Lịch sửSửa đổiGiai đoạn 1935-1936Sửa đổiTừ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại Nhà số 2 phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu gồm 2 đại biểu của Đảng bộ Bắc Kỳ (cuối Đại hội mới tới), 2 đại biểu của Đảng bộ Trung Kỳ, 3 đại biểu của Đảng bộ Nam Kỳ, 1 đại biểu của Đảng bộ Lào, 3 đại biểu hoạt động ở Thái Lan, 2 đại biểu của Ban Chỉ huy hải ngoại. Lúc này Nguyễn Ái Quốc đang công tác ở Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng (Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn...) đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản nên không tham dự được. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa I được bầu ra tại Đại hội lần thứ I gồm 13 ủy viên với 9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết (trên thực tế bầu được 12 ủy viên, khuyết 1 ủy viên do Xứ ủy Trung Kỳ chỉ định sau):
Ban Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương gồm: Lê Hồng Phong, Đinh Thanh, Hoàng Đình Giong, Ngô Tuân, Nguyễn Văn Dựt. Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Từ tháng 4-9/1935, 8 ủy viên Trung ương lần lượt bị sa lưới mật thám Pháp như Nguyễn Văn Dựt bị bắt ngày ngày 20 tháng 4 năm 1935; 1 ủy viên ở Nam Kỳ bị bắt ngày ngày 24 tháng 4 năm 1935; Phan Đình Hy bị bắt tháng 5-1935 ở Lào; Phạm Văn Xô vừa trở về bị bắt ngày ngày 6 tháng 6 năm 1935 tại bản Nọong Bua, tỉnh Uđon (Xiêm), bị kết án 15 năm tù; Ngô Tuân bị bắt tại Cao Bằng ngày ngày 26 tháng 8 năm 1935, bị kết án 5 năm tù; Đinh Thanh bị bắt và hy sinh tại Ma Cao (các tài liệu của mật thám Pháp đều ghi là tự sát ở Ma Cao, tuy nhiên, ngày tự sát không thống nhất là ngày 27 tháng 9 năm 1935 và ngày 12 tháng 10 năm 1935); Võ Nguyên Hiến bị bắt lần thứ nhất vào tháng 7-1935, được trả tự do vào tháng 9 và bị bắt lại ngày ngày 1 tháng 11 năm 1935, trả tự do ngày ngày 7 tháng 5 năm 1936 ở Vinh, Nghệ An đến ngày ngày 3 tháng 11 năm 1936 bị bắt lần thứ ba; ủy viên người dân tộc thiểu số ở Bắc Kỳ có bí danh là Bich Zhan bị bắt và bị kết án 5 năm tù. Do phần lớn các ủy viên Trung ương và ủy viên Ban Thường vụ bị bắt, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và Nguyễn Ái Quốc công tác ở Quốc tế Cộng sản, Võ Văn Ngân hoạt động ở Nam Kỳ, Hoàng Đình Giong hoạt động ở Bắc Kỳ nhưng bị mất liên lạc với nhau (đến tháng 2-1936, Hoàng Đình Giong bị bắt tại Hàng Kênh, Hải Phòng) nên trên thực tế, đến tháng 9-1935 Ban Thường vụ đã không còn và Ban Chấp hành Trung ương cũng kết thúc. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chỉ huy hải ngoại (lúc này có Hà Huy Tập (Bí thư) và Phùng Chí Kiên, đến tháng 3-1936 bổ sung Trần Văn Kiết) "thực hiện chức năng của Ban Trung ương và lãnh đạo toàn Đảng", nhưng chỉ hoạt động chủ yếu tại Bắc Kỳ. Từ năm 1930 đến năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương bị phá vỡ ba lần vào tháng 4-1931, tháng 9-1935 và đầu năm 1940. Giai đoạn 1936-1937Sửa đổiNgày ngày 26 tháng 7 năm 1936, Lê Hồng Phong (về Trung Quốc đầu năm 1936) cùng Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên tổ chức hội nghị tại Thượng Hải, quyết định phân công Hà Huy Tập về Sài Gòn tổ chức Ban Chấp hành Trung ương, khôi phục lại các mối liên lạc với các tổ chức Đảng. Thực hiện quyết định của Hội nghị, Hà Huy Tập trở về đặt trụ sở tại Sài Gòn từ ngày ngày 12 tháng 8 năm 1936. Ngày ngày 12 tháng 10 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức ở Nam Kỳ, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được thành lập gồm 13 ủy viên:
Lê Hồng Phong và Phùng Chí Kiên (khi đó hoạt động trong nước) là đại diện Ban Chỉ huy hải ngoại trong Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Ban Thường vụ gồm: Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Chí Diểu, Võ Văn Tần. Giai đoạn 1937-1938Sửa đổiNhằm thống nhất tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; đề ra những chủ trương mới, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, Ban Chấp hành Trung ương nhóm họp Hội nghị mở rộng tại Nam Kỳ. Sau Hội nghị Hà Huy Tập tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Đầu tháng 9 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị mở rộng tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định. Hội nghị củng cố Ban Chấp hành Trung ương gồm 11 ủy viên:
Nguyễn Ái Quốc và Lê Hồng Phong hoạt động ở ngoài xứ. Ban Thường vụ gồm có: Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Chí Diểu, Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ. Giai đoạn 1938-1940Sửa đổiCuối tháng 3/1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn thể tại Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định. Hội nghị kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 11 ủy viên:
2 ủy viên là Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô và Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc, các ủy viên còn lại đều ở trong xứ. Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu. Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư. Sau Hội nghị, do một số ủy viên bị bắt còn Nguyễn Chí Diểu, Võ Văn Ngân mất vì bệnh tật, Ban Chấp hành Trung ương được bổ sung:
Ban Bí thư gồm Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong. Sau khi Thế chiến 2 bùng nổ, đầu tháng 11/1939, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định. Lúc này Ban Chấp hành có:
Phùng Chí Kiên, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Trung Quốc. Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương. Sau Hội nghị, 5 ủy viên Trung ương sa vào tay địch gồm: Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn (17/1/1940), Lê Hồng Phong (6/2/1940), Hà Huy Tập (30/3/1940), Võ Văn Tần (21/4/1940). Do hầu hết các ủy viên Trung ương hoạt động trong xứ bị bắt, chỉ còn Phan Đăng Lưu, nên Ban Chấp hành Trung ương tan vỡ. Giai đoạn 1940-1941Sửa đổiTháng 11/1940, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản được thành lập tại Bắc Kỳ gồm:
Ban Thường vụ Trung ương gồm: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hạ Bá Cang. Giai đoạn 1941-1945Sửa đổiGiữa tháng 5/1941, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng diễn ra tại Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 7 Ủy viên chính thức và 4 Ủy viên dự khuyết: Ủy viên chính thức
Ban Thường vụ gồm: Trường Chinh, Hạ Bá Cang và Hoàng Văn Thụ. Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Cuối năm 1941, Trần Đăng Ninh bị bắt; ngày 25/8/1943, Hoàng Văn Thụ bị bắt. Ban Chấp hành Trung ương quyết định bổ sung:
Đến đầu tháng 8/1945, Ban Chấp hành Trung ương gồm: Trường Chinh (Tổng Bí thư), Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Trần Đăng Ninh (dự khuyết), Vũ Anh (dự khuyết). Các ủy viên khác được phân công sang các lực lượng Việt Minh. Tại Hội nghị Toàn quốc họp tại Tân Trào tháng 8/1945, Hội nghị quyết định bầu bổ sung: Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp; nâng số Ủy viên Trung ương lên 10 người. Giai đoạn 1945-1951Sửa đổiSau Cách mạng tháng 8/1945, Ban Chấp hành Trung ương gồm:
Ban Thường vụ gồm: Hồ Chí Minh (Chủ tịch nước), Trường Chinh (Tổng Bí thư), Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ (tới 1948), Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng (bổ sung 1948). Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ: Hoàng Văn Thụ (1941–1944), Văn Tiến Dũng (1944), Nguyễn Văn Trân (1944-1945) Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ: Nguyễn Chí Thanh (1945–1948) Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ: Trần Văn Giàu (1943–1945) - Xứ ủy Tiên phong, Dân Tôn Tử (Trần Văn Vi) - Xứ ủy Giải phóng (1945), Tôn Đức Thắng (1945), Lê Duẩn (1945–1946), Phạm Hùng (1946), Lê Duẩn (1946–1951), Phó Bí thư Xứ ủy: Lê Đức Thọ (1948–1951), Nguyễn Văn Kỉnh. Danh sách Ủy viên chính thứcSửa đổiNhân sự Ban Chấp hành Trung ương giai đoạn 1935 đến trước Đại hội II năm 1951 điều chỉnh trong các năm sau đó (danh sách chưa đầy đủ):
Danh sách Ủy viên dự khuyếtSửa đổi
Ban Thường vụ Trung ươngSửa đổiBan Thường vụ Trung ương do Đại hội I (1935) bầu ra có năm người, đứng đầu là Lê Hồng Phong. Nhân sự Ban Thường vụ được điều chỉnh những năm sau đó (danh sách hiện chưa sưu tầm được đầy đủ). Năm 1936 Hà Huy Tập được cử giữ chức Tổng Bí thư. Năm 1937, Nguyễn Văn Cừ vào Ban Thường vụ. Tại Hội nghị Trung ương năm 1938 Ban Thường vụ có Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần và Nguyễn Chí Diểu. Năm 1939 Lê Duẩn được cử vào Ban Thường vụ. Năm 1940, Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt lập ban lãnh đạo. Ban Thường vụ Trung ương được bầu ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, khóa I (họp từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941), gồm Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đứng đầu là Tổng Bí thư Trường Chinh. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Ban Thường vụ Trung ương gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, sau bổ sung thêm Nguyễn Lương Bằng. Tổng Bí thưSửa đổi
Trên thực tế, những năm 1935-1938, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập là những lãnh đạo cao nhất. Lê Hồng Phong là Ủy viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản, trong khi Hà Huy Tập là Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại (có quyền hơn Ban Chấp hành Trung ương thời điểm đó) trước khi là Tổng Bí thư Đảng. Năm 1938 Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư và sau đó Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập bị Pháp bắt. Kể từ năm 1941 khi Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) về nước thì ông là lãnh tụ của Đảng, chủ trì nhiều cuộc họp của Trung ương và Ban Thường vụ. Trường Chinh trong vai trò Tổng Bí thư cũng chủ trì nhiều cuộc họp của Trung ương cũng như Ban Thường vụ khi Hồ Chí Minh bận hoặc không có điều kiện dự. Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi |