Long đờm là gì

  • 22:40 14/04/2022
  • Xếp hạng 4.99/5 với 20368 phiếu bầu

Nhóm thuốc long đờm là loại thuốc làm tiêu chất nhầy làm giảm độ đặc quánh của đờm, chất nhầy để dễ ho khạc, tống chất nhầy ra khỏi đường hô hấp dễ hơn. Tuy nhiên, vì thuốc long đờm có thể gây ra một số phản ứng bất lợi nên khi sử dụng cần đặc biệt thận trọng, nhất là với đối tượng trẻ em.

Ho là một trong những triệu chứng do các bệnh ở đường hô hấp gây ra. Ho bao gồm: ho có đờm và ho không có đờm [ho khan].

Ho có đờm là thể ho kèm tình trạng khạc ra chất nhầy hoặc đờm,... Một loại thuốc hay được dùng để trị ho có đờm là thuốc long đờm.

Các loại thuốc trong nhóm thuốc long đờm gồm: Acetylcystein, ambroxol, bromhexin, carbocysteine, eprazinon,... Thuốc long đờm gồm thuốc long đờm đơn chất chỉ chứa thuần túy thuốc long đờm như Bisolvon [chỉ chứa bromhexin], Acemuc [chỉ chứa acetylcystein], Mucosolvan [chỉ chứa ambroxol],... và thuốc trị ho phối hợp [trong thành phần có chứa sẵn thuốc long đờm như Atussin, Solmux Broncho,...].


Thuốc long đờm có thể dùng để sử dụng trong điều tri bệnh viêm phế quản cấp

Tiêu chất nhầy: Tác dụng thuốc long đờm là làm loãng đờm do làm tăng sự tiết dịch, tăng thể tích, khối lượng đờm, làm cho đờm loãng ra, dễ tống ra ngoài nhờ phản xạ ho hoặc khạc đờm. Các hoạt chất như: guaifenisin, ipecacuanha, muối amoni, muối iod, ... với các biệt dược như Acodin, Terpincod, Passedyl, Terpin... có tác dụng trực tiếp lên đờm, làm thay đổi cấu trúc đờm bằng cách bẻ gãy các cấu trúc hóa học liên kết trong đờm [cầu nối disulphure, cầu nối oligo sacharid] nhưng không làm tăng thể tích, khối lượng đờm, khiến cho đờm giảm độ nhớt, độ quách, dễ tống ra ngoài khi ho khạc.

Ngoài điều trị ho có đờm, một trong những tác dụng thuốc long đờm là dùng để sử dụng trong điều trị bệnh nhầy nhớt, các bệnh lý hô hấp có đờm nhầy quánh như viêm phế quản cấp hoặc mạn tính.

Làm thuốc giải độc: Thuốc long đờm acetylcystein còn được sử dụng làm thuốc giải độc cho các trường hợp sử dụng paracetamol quá liều.

Điều trị nhiễm khuẩn hô hấp: bromhexin, ambroxol thường được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp đi kèm ho có đờm.

Thuốc dễ gây loét dạ dày nên ở người bị viêm loét dạ dày cần tránh sử dụng


Là thuốc làm tiêu chất nhầy, long đờm, nhưng thuốc cũng có thể gây ra một số phản ứng bất lợi nên khi sử dụng cần đặc biệt thận trọng, nhất là với đối tượng trẻ em. Một số tác dụng phụ thuốc long đờm có thể kể đến như sau:

Làm lỏng chất nhầy bảo vệ dạ dày: Tác dụng phụ thuốc long đờm là có thể làm lỏng chất nhầy bảo vệ dạ dày, vì vậy dễ gây hại làm loét dạ dày, nên cần tránh dùng ở người bị viêm loét dạ dày, tá tràng.

Khởi phát cơn co thắt phế quản: Thuốc long đờm cần tránh dùng đối với người bệnh hen suyễn vì thuốc có thể khởi phát cơn co thắt phế quản.

Dị ứng thành phần của thuốc: Rất hiếm trường hợp có phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc. Tuy nhiên, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban , ngứa, sưng ở mặt, lưỡi, cổ họng.

Một số tác dụng phụ thuốc long đờm: Thuốc có thể gây rối loạn tiêu hoá, tăng nhẹ men gan, chóng mặt, nhức đầu.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ đầu ngành, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa.

Thuốc long đờm còn được gọi là thuốc loãng đàm, thuốc làm tiêu chất nhầy. Các thuốc này có tác dụng làm lỏng các dịch tiết tiết ra từ niêm mạc khí quản - phế quản do làm thay đổi cấu trúc của dịch nhầy dẫn đến giảm độ nhớt, độ quánh đặc của đàm nhầy trong phế quản. Vì vậy, các chất nhầy đàm có thể di chuyển dễ dàng và được tống ra khỏi đường hô hấp bằng hệ thống lông chuyển hoặc bằng sự khạc đờm. Các thuốc trong nhóm long đờm gồm có: acetylcystein, carbocystein, bromhexin, ambroxol, eprazinon…

Cơ chế làm loãng đàm của thuốc long đờm chủ yếu có thể chia làm hai loại. Chẳng hạn acetylcystein làm lỏng chất nhầy đặc của đờm nhờ nhóm sulfhydryl có trong cấu trúc gây hủy hoại liên kết disulfid [-S-S-] có trong đờm nhớt. Đờm nhớt bị mất các liên kết sẽ lỏng ra giúp người bệnh dễ ho khạc hơn. Còn bromhexin hoạt hóa tổng hợp sialomucin là chất làm cho cấu trúc đàm nhớt thay đổi và lỏng hơn.

Tránh dùng thuốc loãng đờm cho người bệnh dạ dày.

Ngoài thuốc long đờm là đơn chất tức chỉ chứa thuần túy thuốc long đờm như bisolvon [chỉ chứa bromhexin], exomuc [acetylcystein], mucosolvan [ambroxol]… có một số thuốc trị ho phối hợp trong thành phần có chứa sẵn thuốc long đờm như atussin, solmux broncho...

Ngoài trị ho có đờm, thuốc long đờm còn được dùng trong bệnh nhầy nhớt, các bệnh lý hô hấp có đờm nhầy quánh như viêm phế quản cấp hoặc mạn. Riêng acetylcystein còn được dùng làm thuốc giải độc khi dùng quá liều paracetamol. Còn bromhexin, ambroxol [là chuyển hóa chất của bromhexin] thường được dùng điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp đi kèm với ho có đờm, bromhexin làm tăng sự xâm nhập của một số kháng sinh vào dịch bài tiết phế quản, tăng sự đáp ứng tốt với kháng sinh trị nhiễm khuẩn.

Khi dùng các thuốc làm loãng đờm cần chú ý tới phản ứng bất lợi của thuốc. Đó là thuốc có thể làm lỏng chất nhầy bảo vệ dạ dày, vì vậy dễ gây hại làm loét dạ dày, nên cần tránh dùng ở người bị viêm loét dạ dày-tá tràng. Thuốc cũng tránh dùng đối với người bệnh hen suyễn [lưu ý ho cũng có thể xảy ra khi lên cơn huyễn] vì thuốc có thể khởi phát cơn co thắt phế quản. Ngoài ra, thuốc có thể gây rối loạn tiêu hoá, tăng nhẹ men gan, chóng mặt, nhức đầu, phát ban ở da.


Ho là triệu chứng thường gặp và có 2 loại: ho khan và ho có đàm. Ho có đàm là ho kèm với tình trạng khạc ra chất nhầy hoặc đờm, là triệu chứng còn lại sau khi bị viêm họng, viêm xoang, viêm phế quản... Một loại thuốc hay dùng trị ho có đàm là thuốc long đờm.

Thuốc long đờm còn được gọi là thuốc loãng đàm, thuốc làm tiêu chất nhầy. Các thuốc này có tác dụng làm lỏng các dịch tiết tiết ra từ niêm mạc khí quản - phế quản do làm thay đổi cấu trúc của dịch nhầy, dẫn đến giảm độ nhớt, độ quánh đặc của đàm nhầy trong phế quản. Vì vậy, các chất nhầy đàm có thể di chuyển dễ dàng và được tống ra khỏi đường hô hấp bằng hệ thống lông chuyển hoặc bằng sự khạc đờm. Các thuốc trong nhóm long đờm gồm có: acetylcystein, carbocystein, bromhexin, ambroxol, eprazinon…

Cơ chế làm loãng đàm của thuốc long đờm chủ yếu có thể chia làm hai loại. Acetylcystein làm lỏng chất nhầy đặc của đàm nhờ nhóm sulfhydryl có trong cấu trúc gây hủy hoại liên kết disulfid [-S-S-] có trong đàm nhớt, đàm nhớt bị mất các liên kết sẽ lỏng ra giúp người bệnh dễ ho khạc hơn. Còn bromhexin hoạt hóa tổng hợp sialomucin là chất làm cho cấu trúc đàm nhớt thay đổi và lỏng hơn.

Ngoài thuốc long đờm là đơn chất tức chỉ chứa thuần túy thuốc long đờm như: Bisolvon [chỉ chứa bromhexin], Exomuc [acetylcystein], Mucosolvan [ambroxol]… Có một số thuốc trị ho phối hợp trong thành phần có chứa sẵn thuốc long đờm như Atussin, Solmux Broncho...

Ngoài trị ho có đàm, thuốc long đờm còn được dùng trong bệnh nhầy nhớt, các bệnh lý hô hấp có đờm nhầy quánh như: viêm phế quản cấp hoặc mạn. Riêng acetylcystein còn được dùng làm thuốc giải độc khi dùng quá liều paracetamol. Còn bromhexin, ambroxol [chuyển hóa chất của bromhexin] thường được dùng điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp đi kèm với ho có đờm, bromhexin làm tăng sự xâm nhập của một số kháng sinh vào dịch bài tiết phế quản, tăng sự đáp ứng tốt với kháng sinh trị nhiễm khuẩn .

Ta cần biết những phản ứng có hại của thuốc làm loãng đàm. Thuốc có thể làm lỏng chất nhầy bảo vệ dạ dày, vì vậy dễ gây hại làm loét dạ dày, thuốc loại này cần tránh dùng ở người bị viêm loét dạ dày-tá tràng. Thuốc cũng tránh dùng đối với người bi hen suyễn [lưu ý ho cũng có thể xảy ra khi lên cơn huyễn] vì thuốc có thể khởi phát cơn co thắt phế quản . Khi dùng thuốc long đờm, người bệnh có thể gặp các triệu chứng không mong muốn do thuốc như: rối loạn tiêu hóa, tăng nhẹ men gan, chóng mặt, nhức đầu, phát ban ở da.

Riêng đối với trẻ, cảm lạnh vào mùa mưa dễ khiến trẻ bị ho, đặc biệt có thể bị ho có đàm. Một số chuyên gia khuyên nên giữ ấm cho trẻ, dinh dưỡng đầy đủ chất, cho uống nước nhiều hơn, đặc biệt là nước cam hoặc nước chanh để tăng sức đề kháng thì trẻ có khả năng tự khỏi sau một đến hai tuần và không ảnh hưởng nhiều đến trẻ mà không cần dùng thuốc.

Hít phải khói thuốc lá người lớn hay còn gọi là “hút thuốc lá thụ động” cũng là nguyên nhân khiến nhiều trẻ mắc chứng ho, ho có đàm và từ đó dễ mắc các bệnh về đường hô hấp khác. Vì vậy, các ông bố cần phải chấm dứt việc hút thuốc lá khi trong nhà có con trẻ.

Nếu nghi ngờ trẻ bị viêm nhiễm tức có sự nhiễm khuẩn dẫn đến ho có đàm, nhất thiết phải đưa trẻ đi khám bệnh ở bác sĩ. Khi đó, bác sĩ điều trị ho có đàm cho trẻ có dùng kháng sinh do đã xác định ho là triệu chứng nhiễm khuẩn đường hô hấp hoặc xác định sẽ có bội nhiễm. Có khi bác sĩ cho trẻ dùng thuốc chống viêm loại corticoid [như prenisone, prednisolone…] khi trẻ bị viêm đường hô hấp nặng [viêm phổi, viêm phế quản…]. Hoặc để trị ho có đàm đặc, thuốc long đờm cũng được bác sĩ chỉ định cho trẻ. Xin được nhấn mạnh, những thuốc như: kháng sinh, thuốc chống viêm corticoid, thậm chí là thuốc long đờm phải để cho bác sĩ khám bệnh cho trẻ chỉ định, các bậc phụ huynh không nên tự ý tìm cách mua cho trẻ dùng, dùng sai sẽ có hại cho trẻ.

Theo: Báo Hà Tĩnh

Video liên quan

Chủ Đề